So sánh Tòa án Quốc tế với Trọng tài quốc tế. Theo anh chị, điều kiện nào để
có thể đưa tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ra giải
quyết tại Tịa án Cơng lý quốc tế?
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU
Nội dung
Chương I. Tòa án Quốc tế
1. Khái niệm Tòa án Quốc tế...............................................
2. Quyền hạn của Tịa án quốc tế
3. Tịa án Cơng lý quốc tế
4. Cơ cấu tổ chức của Tòa án quốc tế
5. Chức năng của Tịa án Cơng lý quốc tế
6. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa
7. Phán quyết của tịa mang tính bắt buộc đối với các bên
8. Thực tiễn hoạt động của Tịa án Cơng lý quốc tế
8.1. Những thành tựu đạt được
8.2. Những tồn tại
Chương II: Trọng tài quốc tế
1. Khái quát chung của Trọng tài quốc tế
2. Trọng tài quốc tế là gì?
3. Thẩm quyền của Trọng tài quốc tế
4. Đặc điểm của trọng tài quốc tế
5. Cách thức tổ chức của trọng tài quốc tế
6. Ý nghĩa thỏa thuận trọng tài quốc tế
7. Tố tụng và giá trị phán quyết của trọng tài quốc tế
Chương III: Sự khác biệt Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế
1. Sự giống nhau
2. Sự khác biệt
Chương IV. Tranh chấp chủ quyền Biển Đơng - Hồng Sa Trường Sa và thẩm
quyền Tịa án Cơng lý quốc tế
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông
2. Thực tiễn tranh chấp biển đảo Việt Nam tại Tịa án Cơng lý quốc tế
Danh mục từ viết tắt
ICJ
The
International
PCIJ
Justice
The Permanent
ICC
International Justice
International
Chamber
quốc tế
of Phòng Thương mại quốc tế
LCIA
Commerce
The
London
of Tòa án Trọng tài quốc tế
UNCITRAL
International Arbitration
London
United Nations Commission on Ủy ban Liên Hợp quốc về
ITLOS
International Trade Law
Luật Thương mại quốc tế
International Tribunal for the Tòa án Quốc tế về Luật Biển
UNCLOS
Law Of the Sea
Untied Nations Convention on Công ước Liên Hợp quốc về
the Law Of the Sea
Court
of Tịa án Cơng lý quốc tế
Court
of Tịa án Thường trực Công lý
Court
Luật Biển
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế cũng tồn cầu hóa đang ngày càng phát
triển sâu rộng. Đây cũng là yêu cầu hàng đầu đặt ra với mỗi quốc gia trên thế
giới. Bên cạnh đó là sự gia tăng của quan hệ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên, mặt
trái của quan hệ hợp tác giữa các quốc gia chính là các tranh chấp quốc tế.
Các tranh chấp quốc tế cũng ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như mức
độ nghiêm trọng. Điều này đòi hỏi các bên phải giải quyết bằng biện pháp hịa
bình và dựa trên các nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Một trong những biện
pháp hịa bình để giải quyết các tranh chấp quốc tế là giải quyết thông qua cơ
quan tài pháp quốc tế, cụ thể là tòa án quốc tế. Vậy Tồn án cơng lý quốc tế là
gì? Cơ cấu tổ chức của Tịa án Cơng lý quốc tế ra sao? Chức năng của Tịa án
Cơng lý quốc tế như thế nào? Thực tiễn hoạt động của Tòa án Công lý quốc tế
hiện nay ra sao? Sự khác nhau giữa Tòa án quốc tế và Trọng tài quốc tế là gì?
Và điều kiện nào Việt Nam có thể đưa tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa ra giải quyết tại Tịa án Cơng lý quốc tế?
Biển Đơng là một khu vực có vị trí địa chính trị chiến lược quan trọng,
có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, liên quan đến lợi ích của nhiều
quốc gia trên thế giới (đặc biệt là các nước lớn như: Hoa Kỳ, Nga, Ấn Độ,
Trung Quốc, Nhật Bản….). Chính vì vậy, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông
không đơn thuần chỉ là chuyện giữa Trung Quốc, Việt Nam và các quốc gia
ven bờ Biển Đơng, mà nó vốn dĩ đã là một vấn đề quốc tế kể từ khi phát sinh.
Biển Đơng hiện nay đang là một điểm nóng về tình trạng mâu thuẫn và tranh
chấp chủ quyền, tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định an ninh của khu vực
và thế giới. Các vấn đề liên quan đến Biển Đơng hiện đang được giới khoa
học trong và ngồi nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu. Tranh chấp trên Biển
Đơng hiện nay là một vấn đề chính trị lớn ảnh hưởng chủ quyền của nhiều
quốc gia có liên quan. Trong khi các cường quốc trên thế giới đều thể hiện lợi
ích địa chính trị và chiến lược của mình tại vùng biển này, thì Trung Quốc lại
âm mưu độc chiếm tồn bộ Biển Đơng bằng bản đồ “đường lưỡi bị” của
mình khiến cho tình trạng chồng lần về chủ quyền, và mâu thuẫn lợi ích tại
khu vực này trở lên căng thằng hơn bao giờ hết, rất có nguy cơ xảy ra xung
đột quân sự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh trên Biển Đơng
nói riêng và an ninh thế giới nói chung. Các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản,
Nga, Ấn Độ… đều có những toan tính chiến lược của mình tại vùng biển này,
khơng chỉ với mục đích bảo vệ các lợi ích kinh tế của mình, mà đằng sau đó
chính là lợi ích địa chính trị, khi gây dựng sự ảnh hưởng của quốc gia mình
tại khu vực này, đồng thời kiềm chế sức mạnh của Trung Quốc. Việt Nam với
tư cách là một nước có yêu sách về chủ quyền tại Biển Đông, đặc biệt là chủ
quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cần xem xét kĩ lưỡng những
vấn đề địa chính trị, lợi ích và chiến lược của các 2 nước lớn tại vùng biển
này, để đề ra những sách lược cụ thể, có hiệu quả đối với việc giải quyết tranh
chấp chủ quyền tại vùng biển này, sao cho bảo vệ được lợi ích của mình trên
Biển Đơng và dung hịa được với lợi ích của các nước có liên quan, tránh tình
trạng căng thằng xung đột leo thang, gây bất lợi cho sự phát triển kinh tế cũng
như ngoại giao của mình.
CHƯƠNG I: TỊA ÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm Tịa án quốc tế
Căn cứ theo quy định tại Điều 1 Quy chế tòa án quốc tế 1945 quy định về
khái niệm tòa án quốc tế cụ thể như sau:
Tòa án quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp quốc
là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc, được tổ chức và hoạt
động theo đúng các nghị quyết dưới đây của bản quy chế này.
Theo đó, tịa án quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp quốc là cơ
quan xét xử chính của Liên hợp quốc, được tổ chức và hoạt động theo đúng
các nghị quyết dưới đây của bản quy chế này.
Đối với quy định về tổ chức Tịa án quốc tế thì tại Điều 2, Điều 3 Quy chế tòa
án quốc tế 1945 quy định cụ thể như sau:
Một là, Tịa án quốc tế có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được
lựa chọn, không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo
đức tốt, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định vụ xét xử cao
nhất, hoặc là những luật gia có uy tín trong lĩnh vực luật quốc tế.
Hai là, tòa án quốc tế được cấu tạo gồm 15 người, trong đó khơng thể có 2
cơng dân cùng một quốc gia.
Người có thể được xem xét để đưa vào thành phần Tịa án quốc tế, như cơng
dân của một quốc gia, được coi là cơng dân của chính quốc gia đó, mà ở quốc
gia ấy cơng dân này thường xun sử dụng các quyền cơng dân và các quyền
chính trị của mình.
Như vậy, Tòa án quốc tế là cơ quan tư pháp chính của Liên hợp quốc thực
hiện ủy quyền trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia và đưa
ra kết luận tư vấn về vấn đề pháp lí theo yêu cầu của Đại hội đồng, Hội đồng
bảo an hoặc cơ quan khác của Liên hợp quốc. Quy chế Tịa án quốc tế là bộ
phận khơng thể tách rời của Hiến chương Liên hợp quốc. Tòa án quốc tế
không phải cơ quan tư pháp đứng trên các quốc gia để phán xét các vấn đề
phát sinh trong đời sống quốc tế.
Theo Quy chế, Tòa án quốc tế Liên hợp quốc gồm 15 thẩm phán có quốc tịch
khác nhau đại diện cho nền văn minh và các hệ thống pháp luật chủ yếu trên
thế giới. Người trúng cử thẩm phán là những người nhận được đa số tuyệt đối
phiếu bầu vừa ở Đại hội đồng Liên hợp quốc vừa ở Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc. Các thẩm phán của Tịa án quốc tế có nhiệm kì 9 năm và sau nhiệm kì
đó, họ có thể được bẩu lại. Với các vụ tranh chấp mà các quốc gia đã thỏa
thuận ủy quyền để Tòa án quốc tế giải quyết, nếu một bên khơng chịu thi
hành phán quyết do Tồ án quốc tế đưa ra thì bên kia có quyền yêu cầu Hội
đồng bảo an can thiệp để phán quyết được tuân thủ. Các bản kết luận tư vấn
của Tòa án quốc tế khơng mang tính chất bắt buộc thi hành đối với cơ quan,
các tổ chức quốc tế đã yêu cầu Tòa án quốc tế đưa ra các bản kết luận này vì
về mặt pháp lí, nó chỉ thể hiện ý kiến tập thể của các thẩm phán quốc tế về
vấn đề pháp luật nào đó.
2. Quyền hạn của Tòa án quốc tế
Tại Chương II Quy chế tòa án quốc tế 1945 quy định về quyền hạn của tòa án
quốc tế cụ thể như sau:
- Chỉ các quốc gia mới là các bên trong các vụ tranh chấp được Tòa án giải
quyết.
Với các điều kiện của bản quy chế này, Tòa án có thể được hỏi các tổ chức
quốc tế cơng khai về những tin tức có liên quan đến vụ tranh chấp mà Tòa án
đang xem xét, cũng như thu nhập các tin tức cần thiết được tổ chức đó chuyển
đến theo sáng kiến riêng của họ.
Khi có một vụ tranh chấp đang được Tòa án giải quyết. Tòa án phải giải thích
văn kiện pháp lý cho một tổ chức quốc tế nào đó hay một điều ước quốc tế đã
cơng nhận hiệu lực của văn bản đó. Thư ký Tịa án thơng báo và gửi cho tổ
chức quốc tế đó bản sao tất cả các hồ sơ giấy tờ đó.
Tịa án giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia là thành viên của quy chế này.
Các điều kiện Tòa án giải quyết tranh chấp đối với các quốc gia khác sẽ do
Hội đồng bảo an quy định theo các điều khoản cụ thể từ các điều ước quốc tế
hiện hành. Các điều kiện này trong mọi trường hợp không được để các bên ở
vị trí bất bình đẳng trước Tịa án. Khi có một quốc gia khơng phải là thành
viên của Liên hiệp quốc nhưng lại là một bên trong một vụ tranh chấp thì Tịa
án quy định số tiền mà bên đó phải đóng góp vào việc chi phí của Tịa án.
Quyết định này khơng áp dụng nếu như quốc gia đó đã tham gia vào việc chi
phí của Tòa án.
Tòa án tiến hành xét tất cả các vụ tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các
vấn đề được nêu riêng trong hiến chương Liên hợp quốc hay các điều ước
quốc tế hiện hành.
Các quốc gia thành viên của quy chế này bất kỳ lúc nào cũng có thể tun bố
rằng họ thừa nhận vơ điều kiện (ifso facto) đối với mỗi quốc gia khác bất kỳ
đã nhận nhiệm vụ như vậy: thẩm quyền xét xử của Tòa án là nghĩa vụ xét xử
về tất cả vấn đề tranh chấp pháp lý có liên quan đến:
Một là, giải thích điều ước.
Hai là, vấn đề bất kỳ liên quan đến Luật quốc tế.
Ba là, có sự kiện, nếu về sau xác định được vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
Bốn là, tính chất mà mức độ bồi hoàn do vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
Những tuyên bố nêu trên có thể là khơng điều kiện hay trong điều kiện có
thiện cảm từ phía các quốc gia này hay quốc gia khác hay trong thời gian nhất
định. Những bản tuyên bố đó được chuyển tới Tổng thư ký bảo quản. Tổng
thư ký gửi các bản sao cho các thành viên của quy chế này và cho thư ký Tòa
án.
Các tuyên bố dựa trên cơ sở của Điều 36 quy chế của Thường trực Pháp viện
quốc tế vẫn cịn có hiệu lực, thì trong quan hệ giữa các thành viên của quy chế
này, các tun bố đó được coi như cơng nhận thẩm quyền xét xử của Tòa án
quốc tế và là nghĩa vụ đối với mình trong thời hiện tại có hiệu lực của các
tuyên bố và phù hợp với các điều kiện đã trình bày trong đó.
Trong trường hợp tranh chấp về quyền xét xử được đưa đến Tịa án thì vấn đề
đó sẽ được Tịa án xác định và giải quyết.
- Trong tất cả các trường hợp khi điều ước quốc tế hiện hành dự kiến chuyển
vụ tranh chấp cho một tòa án được Hội quốc liên hay Thường trực pháp viện
quốc tế thiết lập thì vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên của quy chế
này phải được chuyển đến Tòa án quốc tế.
- Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh
chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:
+ Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc
được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
+ Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận
như những quy phạm pháp luật;
+ Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận
+ Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các
chun gia có chun mơn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác
nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.
Quyết định này khơng nằm ngồi quyền giải quyết vụ việc của Tòa án, xác
định như vậy (ex aequo et bono), nếu các bên thỏa thuận điều này.
3. Tịa án Cơng lý quốc tế
Tịa án cơng lý quốc tế thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở Hiến chương
liên hợp quốc và Quy chế Tịa án Cơng lý quốc tế. Cũng chính vì thế Tịa án
cơng lý quốc tế cũng được quy định chi tiết về quy chế và cập nhật liên tục
cho đến thời điểm hiện tại.
Tiền thân của Tòa án Công lý quốc tế (The Internatinol Court of Justice - ICJ)
là Tịa án Thường trực Cơng lý Quốc tế (The Permanent Cour of International
Justice - PCIJ) - vốn là tòa án của Hội Quốc Liên ra đời vào năm 1922. Tòa
PCIJ tồn tại cùng với sự tồn tại của Hội Quốc Liên cho tới khi UN được thành
lập và ICJ ra đời thay thế cho PCIJ vào năm 1946.
Toà án Cơng lý Quốc tế là Tịa án được thành lập và hoạt động trên cơ sở
Hiến chương Liên Hợp quốc và Quy chế Tịa án Cơng lý quốc tế. Hiến
chương Liên hợp quốc dành toàn bộ Chương XIV từ Điều 92 đến Điều 96 để
quyđịnh những vấn đề cơ bản về tổ chức, thẩm quyền và hoạt động của Tịa.
Quy chế Tịa án Cơng lý quốc tế gồm 70 điều được coi là một phần phụ lục
gắn bó hữu cơ với Hiến chương Liên hợp quốc. Trụ sở của ICJ đặt tại La Hay,
Hà Lan.
4. Cơ cấu tổ chức của Tịa án Cơng lý quốc tế
Tịa án Cơng lý quốc tế gồm 15 thẩm phán có các quốc tịch khác nhau. Thẩm
phán Tịa án Công lý quốc tế được Đại hội đồng và Hội đồng Bảo án Liên
hợp quốc bầu với nhiệm kỳ 9 năm và cứ mỗi năm bầu lại 1/3 số thẩm phán.
Tiêu chuẩn để bầu thẩm phán Tịa án Cơng lý quốc tế căn cứ vào năng lực cá
nhân, tương quan vị trí địa lý và đại diện cho các hệ thống pháp luật trên thế
giới. Thẩm phán của tịa khơng được đảm nhiệm chức vụ chính trị, hành
chính hoặc nghề nghiệp nào trong thời gian đương nhiệm. Bên cạnh các thẩm
phán, khi phiên tòa mở ra, các bên tranh chấp có thể lựa chọn các thẩm phán
AD-HOC. Thẩm phán AD-HOC là thẩm phán do một hoặc các bên tranh
chấp không có thẩm phán mang quốc tịch nước mình trong thành phần của
tòa đề cử tham gia Hội đồng xét xử.
Các Thẩm phán được Đại hội đồng và Hội đồng bảo an lựa chọn trong số
những người có tên trong danh sách theo đề nghị của các tiểu ban dân tộc của
Pháp viện thường trực quốc tế. Một tiểu ban được đưa ra khơng q 04 ứng
cử viên, trong đó khơng quá 02 ứng viên có cùng quốc tịch của một quốc gia
được tiểu ban đại diện.
Tổng thư ký Liên hiệp quốc lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những
người được đề cử, ký trình bản danh sách lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo
an. Đại hội đồng và Hội đồng bảo an khi bầu cử Thẩm phán hoàn toàn độc lập
nhau.
Những người được coi là trúng cử là những ứng cử viên được tuyệt đại đa số
phiếu bầu cử ở cả Đại hội đồng cũng như ở cả Hội đồng bảo an.
Chi tiết thú vị là trong trường hợp nếu như tuyệt đại đa số phiếu cả ở Đại hội
đồng cũng như ở Hội đồng bảo an chọn nhiều công dân của cùng một quốc
gia trùng nhau thì người được cơng nhận trúng cử là… người nhiều tuổi hơn.
Việc căn cứ vào tuổi tác để lựa thành viên Tòa án của Tòa án quốc tế, cơ quan
cao nhất giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, là rất thú vị và nhân văn.
Mặc dù trước đó các ứng viên đều đã trải qua bước lựa chọn của Đại hội đồng
cũng như ở Hội đồng bảo an.
Thêm một chi tiết thú vị nữa cũng liên quan đến tuổi tác, đó là việc bầu chủ
trì phiên tịa trong thủ tục xét xử.
Tịa án quốc tế có chủ tịch và phó chủ tịch với nhiệm kỳ 3 năm, chủ tịch và
phó chủ tịch có thể được bầu lại. Thông thường, trong xét xử, việc nghe vụ án
được tiến hành dưới sự chủ trì của chủ tịch hay nếu chủ tịch khơng thể chủ trì
được thì phó chủ tịch sẽ chủ trì. Tuy nhiên trong trường hợp nếu như khơng
có chủ tịch, phó chủ tịch chủ trì thì người chủ trì sẽ là Thẩm phán… nhiều
tuổi nhất có mặt.
Các phụ thẩm có thể được tịa lựa chọn hoặc theo yêu cầu của các bên tranh
chấp tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp nhằm mục đích tranh thủ
thêm sự đóng góp của các chun gia trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động
của tòa, nhất là trong các lĩnh vực kỹ thuật. Ban thư ký đảm trách các dịch vụ
tư pháp và là bên lien lạc giữa tòa và các bên tranh chấp.
5. Chức năng của Tịa án Cơng lý quốc tế
Tịa án Cơng lý quốc tế có những chức năng chính như sau:
– Chức năng giải quyết tranh chấp: ICJ là cơ quan có chức năng giải quyết
tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và các quốc
gia không phải thành viên Liên Hợp quốc (thỏa mãn những điều kiện do Đại
hội đồng quyết định ). Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa được xác
định theo 3 phương thức: Chấp nhận thẩm quyền của tòa theo từng vụ việc,
Chấp nhận trước quyền của Tòa trong các điều ước quốc tế, Tuyên bố đơn
phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa.
– Chức năng đưa ra kết luận tư vấn: ICJ thực hiện chức năng đưa ra kết luật
tư vấn khi Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an Liên hợp quốc yêu cầu, liên
quan đến những vấn đề pháp lý phát sinh trong thực tiễn hoạt động của các cơ
quan này. Các quốc gia khơng có quyền u cầu tịa đưa ra kết luận tư vấn về
tranh chấp của mình. Các ý kiến tư vấn chỉ mang tính chất khuyến nghị.
Ngồi ra, Tịa án Cơng lý quốc tế cịn có một số hạn chế nhất định, chủ yếu là
về mặt cấu trúc, tình huống và liên quan đến các nguồn lực vật chất được
cung cấp cho Tòa án.
Thứ nhất, cơ quan này khơng có thẩm quyền xét xử những cá nhân bị cáo
buộc tội ác chiến tranh hoặc tội ác chống lại lồi người. Vì đây khơng phải là
tịa án hình sự nên khơng có cơng tố viên có thể khởi kiện.
Thứ hai, ICJ khơng phải là tịa án cao nhất mà các tịa án quốc gia có thể nhờ
cậy. Nó cũng khơng phải là tịa án cuối cùng dành cho người dân. Nó cũng
khơng hoạt động như một tịa phúc thẩm đối với các tịa án quốc tế, tuy nhiên,
nó có thể đưa ra phán quyết về tính hợp lệ của phán quyết trọng tài.
Thứ ba, ICJ không thể thụ lý vụ việc. Cơ quan này chỉ có thể xét xử các vụ
việc hoặc tranh chấp khi được các Quốc gia u cầu làm như vậy. Nó cũng
khơng thể điều tra và phán quyết về hành vi của các quốc gia.
Thứ tư, ICJ chỉ có thẩm quyền dựa trên sự đồng ý chứ không phải thẩm quyền
bắt buộc.
Thứ năm, nó khơng được hưởng sự phân chia quyền lực hoàn toàn, với các
thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an có thể phủ quyết việc thi hành
các vụ việc, ngay cả những vụ việc mà họ đồng ý ràng buộc.
6. Thủ tục tố tụng tại phiên tòa
ICJ tiến hành giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự đầy đủ hoặc rút gọn.
Thành phần của một phiên tịa là tối thiểu 9 thẩm phán. Trình tự đầy đủ gồm 2
giai đoạn: giai đoạn tiến hành các thủ tục bổ trợ và giai đoạn xét xử nội dung
vụ việc. Trong phạm vi chức năng của mình, tịa có thể lập ra ba loại tòa đặc
thù: tòa rút gọn trình tự tố tụng, tịa đặc biệt, tịa ad hoc. Được quy định rất rõ
trong chương III Quy chế Tòa Công lý quốc tế.
Thủ tục xét xử một vụ tranh chấp trước tòa được quy định cụ thể trong quy
chế của Tịa án Cơng lý quốc tế. Q trình thụ lý gồm hai giai đoạn: 1, Thủ
tục viết trong đó các quốc gia hoàn thành và trao đổi bị vong lục về lập luận
của từng bên và các lý lẽ luận tội hay bào chữa; 2, Thủ tục nói ( Tranh tụng
trước tịa ) trong đó tịa sẽ nghe ý kiến các bên, các luật sư và cố vấn trong
phiên tịa xét xử cơng khai.
Ngồi thủ tục chung gồm hai giai đoạn này cho bất kỳ một vụ tranh chấp nào
đưa ra trước tòa, thủ tục xét xử của tòa theo từng trường hợp sẽ được tiến
hành theo những bước sau:
– Các bên nộp đơn kiện lên Tòa và cử đại diện liên lạc của mình
– Tịa tiến hành các thủ tục bổ trợ cho thủ tục chính về xét xử nội dung : Tòa
sẽ xem xét xác định thẩm quyền của mình trong từng vụ việc cụ thể được nêu.
Trong từng trường hợp cần thiết, tịa có thể ra những biện pháp bảo đảm tạm
thời cần thiết để bảo vệ quyền lợi cho mỗi bên. Hợp các các vụ án có mục tiêu
tranh chấp chung. Khả năng xử án vắng mặt. Tòa xem xét khả năng can dự
vào vụ việc từ bên thứ ba.
– Tòa xét xử về mặt nội dung của vụ việc
– Ra quyết định cuối cùng phân giải tranh chấp.
7. Phán quyết của tịa mang tính bắt buộc đối với các bên
Các phán quyết của tịa có giá trị chung thẩm và bắt buộc đối với các bên.
Quyết định của tịa chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp và chỉ
trong vụ án đó ( điều 59 quy chế của tịa ). Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng
mặc dù phán quyết của tịa khơng ràng buộc các bên đứng ngồi tranh chấp
nhưng nó có tác động gián tiếp tới các nước này.
8. Thực tiễn hoạt động của Tịa án Cơng lý quốc tế
Tịa án Cơng lý quốc tế là cơ quan pháp lý chính của Liên hợp quốc. Các phán
quyết và kết luận tư vấn của Tịa đã đề cập mọi khía cạnh khác nhau của công
pháp cũng như tư pháp quốc tế, liên quan tới tất cả các bên trên thế giới tới
việc kiểm tra các hệ thống pháp lý khác nhau. Tịa có bước khởi đầu tốt đẹp
qua các vụ Eo biển corfou năm 1949, quyền tị nạn 1950, hay các kết luận tư
vấn Bồi thường thiệt hại cho hoạt động các cơ quan của Liên hợp quốc năm
1949.
Trong thực tiễn hoạt động của tịa đã có 148 vụ tranh chấp được đưa ra trước
tịa (tính đến tháng 6 năm 2010), trong số đó có khoảng 120 vụ tranh chấp đã
được tịa xét xử. Nhiều phán quyết của ICJ đã có ý nghĩa rất quan trọng. Bên
cạnh các phán quyết, ICJ đã đưa ra hơn 20 kết luận tư vấn. Mặc dù số kết luận
tư vấn đưa ra không nhiều và các kết luận đó cũng khơng có giá trị pháp lý
bắt buộc đối với các chủ thể nhưng nó có vai trị khơng nhỏ trong q trình
dàn xếp một số tranh chấp quốc tế.
8.1. Những thành tự đã đạt được
ICJ đã có những đóng góp tích cực trong các lĩnh vực chung của luật quốc tế.
Tịa án cơng lý quốc tế với sứ mệnh giải quyết các tranh chấp pháp lý giữ các
quốc gia và giúp đỡ các tổ chức quốc tế hoạt động hiệu quả với việc duy trì
cơng lý trong hoạt động của tịa đã có đóng góp to lớn trong việc khẳng định
vai trò của Luật quốc tế trong quan hệ quốc tế cũng nhưu việc phát triển luật
quốc tế.
Các quyết định của tịa khơng chỉ giới hạn trong việc giải thích và nhận thức
quá trình phát triển của Luật quốc tế, đóng góp vào q trình tiến triển đó
bằng việc giái thích luật quốc tế thực định và áp dụng chúng vào các hồn
cảnh đặc thù, các quyết định của tịa đã làm sáng tỏ thêm luật quốc tế và qua
đó phần nào mở đường cho các quốc gia phát triển tiếp nhận luật quốc tế.
8.2. Những tồn tại
Tịa án cơng lý quốc tế đã hồn thành nhiệm vụ của mình và có những đóng
góp khơng nhỏ vào việc phát triển và hồn thiện luật quốc tế. Song, năng lực
của tịa vẫn chưa được khai thác đầy đủ. Năng lực này bị hạn chế do cả sự
tham gia chưa tích cực của các quốc gia vào cơng việc của tịa cũng như do
chính tầm quan trọng của những vụ việc tịa giải quyết. Những vấn đề đưa ra
trước tòa thường là những vấn đề khơng lớn ví dụ các vụ tai nạn máy bay
những năm 1950, vụ Electronica Sicula …
Một số yêu cầu giải thích điều lệ của các tổ chức quốc tế hay Hiến chương
Liên hợp quốc. Tòa cũng giải quyết một số vụ tranh chấp về lãnh tổ như vủ
Các đảo Minquier và Ecre’hous, Tranh chấp biên giới Hà lan – Bỉ, Đền
Pre’ah… Tuy nhiên những vụ tòa xét xử không phải những vụ tranh chấp
lãnh thổ lớn. Mỗi khi phải giải quyết một vấn đề lớn của luật quốc tế có tầm
quan trọng về kinh tế và chính trị (Tây Nam Phi, Các vụ thử vũ khí hạt nhân
về chính trị , Barcelona Traction về kinh tế ) Tịa thường đưa ra các giải pháp
mang tính tranh cãi ( Thềm lục địa Tuynidi/Libi hay vụ Nicaragoa,
Lôccơbi .. ) Tịa khơng đối đầu với các cơ quan khác.
Tịa án Công lý quốc tế hoạt động dựa trên sự thỏa thuận của các quốc gia
thành viên nên Tòa chỉ thực sự hoạt động đúng năng lực và chức năng của
mình khi các quốc gia thành viên thực sự tin tưởng và coi Tòa như một giải
pháp tài phán có thể sử dụng khi đàm phán trực tiếp không đạt được kết quả
khả quan.
CHƯƠNG II: TRỌNG TÀI QUỐC TẾ
1. Khái quát chung về Trọng tài quốc tế
Khác với các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường ngoại
giao, các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng con đường xét xử luôn đem lại
kết quả là một phán quyết của cơ quan xét xử có giá trị pháp lý ràng buộc đối
với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng giống như trường hợp các biện pháp
ngoại giao, việc sử dụng trọng tài hay tòa án để giải quyết tranh chấp quốc tế
cũng đòi hỏi phải có sự thỏa thuận, chấp nhận của tất cả các bên tranh chấp.
Sự ra đời nhanh chóng của nhiều thiết chế trọng tài, tòa án quốc tế trong vài
thập niên trở lại đây được nhiều học giả trong lĩnh vực pháp luật quốc tế gọi
là xu hướng “tư pháp hố” q trình giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều
này một mặt cho thấy niềm tin, nhu cầu của các quốc gia đối với các thiết chế
xét xử quốc tế ngày một tăng lên, mặt khác cũng cho thấy các tranh chấp quốc
tế ngày càng được giải quyết nhiều hơn trên cơ sở những tiêu chí pháp lý và
thông qua những thủ tục ngày càng được thể chế hoá chặt chẽ hơn.
Việc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng phương thức xét xử trọng tài
được thực hiện qua hai hình thức cơ bản là trọng tài quốc tế vụ việc và trọng
tài quốc tế thường trực. Trong phần này chỉ nghiên cứu những vấn đề chung
nhất của phương thức trọng tài quốc tế nói chung, có để cập đến hai thiết chế
trọng tài thường trực là Tòa trọng tài quốc tế thường trực La Haye được thành
lập trên cơ sở các Công ước La Haye năm 1899 và 1907 và Trọng tài Luật
biển được thành lập trên cơ sở Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp
quốc.
2. Trọng tài quốc tế là gì?
Trọng tài quốc tế là một thiết chế giải quyết tranh chấp quốc tế mà thẩm
quyền được xác lập trên cơ sở thỏa thuận, thông qua thủ tục xét xử để đưa ra
một phán quyết có giá trị pháp lý ràng buộc đối với các bên tranh chấp. Việc
sử dụng trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh chấp quốc tế có lịch sử lâu
đời trong quan hệ quốc tế. Thực tiễn trọng tài được ghi nhận ngay từ thời kỳ
cổ đại, và tiếp tục phát triển trong thời kỳ trung cổ, trước khi có sự ra đời của
mơ hình Nhà nước hiện đại. Trong các thời kỳ này chi tồn tại hình thức trọng
tài quốc tế vụ việc, nhằm giải quyết những tranh chấp cụ thể.
Những điều ước quốc tế quan trọng sớm nhất đề cập đến hình thức trọng
tài quốc tế thường trực là các Công ước quốc tế Lahay năm 1899 và 1907 về
giải quyết các tranh chấp quốc tế. Trên cơ sở hai công ước này đã hình thành
lên Tịa trọng tài thường trực La Haye. Vào năm 1953, Uỷ ban pháp luật quốc
tế của Liên hợp quốc đã xây dựng một văn kiện bao gồm các quy định mẫu về
thủ tục trọng tài giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Các quy định
mẫu này đề cập đến việc thành lập hội đồng trọng tài, xác định thẩm quyền
của trọng tài, thủ tục trọng tài và hiệu lực pháp quyết của trọng tài. Tuy nhiên,
các quy định này chỉ có giá trị tham khảo đối với các quốc gia.
Tổ chức trọng tài mang tính chất quốc tế, vì thế nó thể hiện một trong ba
dấu hiệu sau:
Thứ nhất, các bên tham gia thỏa thuận trọng tài, tại thời điểm kí kết thỏa
thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau.
Thứ hai, một trong những địa điểm sau đây được đặt ngồi quốc gia nơi
các bên có trụ sở kinh doanh: nơi tiến hành trọng tài nếu được xác định trong
hoặc thỏa thuận trọng tài, nơi mà các thành phần chủ yếu của các nghĩa vụ
trong quan hệ thương mại được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có
quan hệ thiết nhất.
Thứ ba, các bên đã thỏa thuận rõ ràng vấn đề chủ yếu của thỏa thuận trọng
tài liên quan đến nhiều nước.
Tòa án Trọng tài Quốc tế, mặc dù được gọi là tịa án, khơng phải là một
cơ quan tư pháp và bản thân nó khơng đưa ra phán xét về các khía cạnh thực
chất của các vấn đề tranh chấp. Theo quy chế của nó, xuất bản như Phụ lục I
của Quy tắc trọng tài ICC, vai trị chính của Tòa án Trọng tài Quốc tế là giám
sát các thủ tục tố tụng trọng tài theo Quy tắc Trọng tài của ICC, với vai trị
của nó bao gồm sự xem xét và phê chuẩn các phán quyết của trọng tài. Tòa án
Trọng tài Quốc tế tuân theo Quy tắc nội bộ của chính mình, được đính kèm
như Phụ lục II của Quy tắc trọng tài ICC.
Tòa án Trọng tài Quốc tế bao gồm một Chủ tịch, Phó chủ tịch và các thành
viên của nó. Các thành viên được Hội đồng Thế giới ICC bổ nhiệm theo
nhiệm kỳ ba năm theo đề xuất của Ủy ban và Nhóm Quốc gia. Đối với thuật
ngữ hiện tại của nó (2018-2021), Tịa án Trọng tài Quốc tế có 176 Thành viên
từ 104 quốc gia và vùng lãnh thổ, với sự bình đẳng giới chính xác của 88 phụ
nữ và 88 đàn ơng. Chủ tịch hiện tại của Tòa án Trọng tài Quốc tế là ông.
Alexis Mourre của Pháp, người được bổ nhiệm lần thứ hai, nhiệm kỳ ba năm
bắt đầu vào 1 Tháng 7 2018.
Trong cơng việc của nó, Tịa án Trọng tài Quốc tế được Ban Thư ký ICC
hỗ trợ. Tổng thư ký có một tổng thư ký, phụ trách hoạt động hàng ngày của
Ban thư ký của Tòa án. Tổng thư ký được trợ lý bởi một phó tổng thư ký,
cùng với đội ngũ nhân viên và chuyên gia khác lên kế hoạch và giám sát các
hoạt động hàng ngày. Luật sư quản lý và Tổng thư ký và Phó tổng thư ký đều
hỗ trợ trong việc quản lý caseload. Luật sư quản lý được hỗ trợ bởi một nhóm
gồm hai hoặc nhiều Phó luật sư và hai hoặc nhiều thư ký.