Mục lục
Đặt vấn đề…………………………………………………………………….2
Giải quyết vấn đề…………………………………………………………….3
I.
trung tâm trọng tài quốc tế việt nam và sự ra đời của quy tắc tố
tụng của trung tam trọng tài quốc tế việt nam………………….3
1. Đôi nét về trung tâm trọng tài quốc tế việt nam…………….3
2. Sự ra đời của quy tắc tố tụng VIAC………………………….4
3. Điểm mới của quy tắc tố tụng trung tâm trọng tài quốc tế
việt nam…………………………………………………………5
II.
Nội dung của quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế việt nam…….
….10
1. Các bước tố tụng tại trung tâm trọng tài quốc tế VN……..11
2. Ưu điểm, hạn chế của bộ quy tắc tố tụng trọng tài của trung
tâm trọng tài quốc tế việt nam VIAC………………………16
Kết thúc vấn đề…………………………………………………………….18
Danh mục tài liệu tham khảo…………………………………………….19
Đặt vấn đề
0
Khi các quan hệ kinh doanh càng phát triển, những tranh chấp xảy ra là
điều không tránh khỏi những lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào
vừa đảm bảo có lợi cho thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là
việc mà các thương nhân cần cân nhắc. Pháp luật hiện hành công nhận các
phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh sau: Thương lượng, hòa
giải, trọng tài và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp kinh doanh các bên có
thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng với nhau.
Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải quyết tranh chấp có thể
được thực hiện với sự trợ giúp của bên thứ ba thông qua phương thức hòa
giải, trọng tài hoặc tòa án. Việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
dựa trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ quan
nhà nước và trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu của các bên tranh
chấp. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh,
thương mại ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển trong tất cả mọi
lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư... Vấn đề lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại phải được các bên cân
nhắc, lựa chọn phù hợp dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất
của tranh chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành
cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương thức giải
quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân nhắc các ưu điểm,
nhược điểm của một phương thức để có quyết định hợp lý. Giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài là một hình thức ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng
nó một hình thức giải quyết tranh chấp không thể thiếu trong nền kinh tế thị
trường và ngày càng được các nhà kinh doanh ưa chuộng. Đó là hình thức giải
quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài
viên với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu thuản tranh chấp
bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành. Ưu
điểm của phương thức giải quyết tranh chấp này là có tính linh hoạt, tạo
quyền chủ động cho các bên; tính nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian có
1
thể rút ngắn thủ tục tố tụng trọng tài và đảm bảo bí mật. Trọng tài tiến hành
giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc án, quyết định trọng tài không được
công bố công khai, rộng rãi. Theo nguyên tắc này họ có thể giữ được bí quyết
kinh doanh cũng như danh dự, uy tín của mình. Giải quyết trọng tài không bị
giới hạn về mặt lãnh thổ do các bên có quyền lựa chọn bất kỳ trung tâm trọng
tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình. Phán quyết của trọng tài có tính
chung thẩm, đây là ưu thế vượt trội so với hình thức giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng hòa giải. Sau khi trọng tài đưa ra phán quyết thì các bên
không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hay tòa án nào. Nhược
điểm của phương thức giải quyết bằng phương thức trọng tài đòi hỏi chi phí
tương đối cao, vụ việc giải quyết càng kéo dài thì phí trọng tài càng cao. Việc
thi hành quyết định trọng tài không phải lúc nào cũng trôi chảy, thuận lợi như
việc thi hành bản án, quyết định của tòa án. Để tìm hiểu thêm phương thức
giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài em xin tìm hiểu
một quy tắc tố tụng của một trung tâm trọng tài cụ thể ở đây là tìm hiểu quy
tắc tố tụng của trung tâm trong tài quốc tế việt nam.
Giải quyết vấn đề
I.
Trung tâm trọng tài quốc tế việt nam và sự ra đời quy tắc tố
tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam
1: Đôi nét về trung tâm trọng tài quốc tế việt nam VIAC
Trung tâm trọng tài quốc tế việt nam gọi tắt là VIAC. Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VIAC) được thành lập theo Quyết định số 204/TTg ngày 28 tháng 4 năm
1993 của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại thương (thành lập năm 1963)
và Hội đồng Trọng tài Hàng hải (thành lập năm 1964). Theo Điều lệ, VIAC
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
2
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối đại diện, đại lý
thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; lixăng; đầu tư; tài chính; ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển
hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường
bộ v.v... VIAC được đánh giá là một tổ chức trọng tài có uy tín của Việt Nam,
được cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài tín nhiệm và lựa chọn
để giải quyết tranh chấp.VIAC có đội ngũ Trọng tài viên là các chuyên gia có
uy tín cao trong các lĩnh vực chuyên môn. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại
VIAC nhanh chóng, linh hoạt, thân thiện giúp các bên tranh chấp tiết kiệm
thời gian và chi phí phát sinh.
2. Sự ra đời quy tắc tố tụng của VIAC
Từ khi ra đời ngày 28 tháng 4 năm 1993 đến nay trung tâm trọng tài quốc
tế việt nam đã có 3 bộ quy tắc tố tụng.
Thứ nhất là: Quy tắc tố tụng có hiệu lực từ ngày 20 tháng 8 năm 1993 (Quy tắc
1993). Quy tắc này áp dụng cho các tranh chấp có yếu tố nước ngoài có thỏa
thuận trọng tài ký trước ngày 1 tháng 7 năm 2003. Sau đúng 4 tháng được thành
lập trung tậm trọng tài quốc tế việt nam đã cho ra đời bộ quy tắc tố tụng đầu tiên
đây là một gian đoạn mang tính bước ngoặt khi đã có một trung tâm trọng tài ra
một bộ quy tắc tố tụng riêng cho mình tuy nhiên bộ quy tắc tố tụng trọng tài này
thực tế vẫn còn nhiều điểm bất cập chưa hợp lý nên cho dù nó được ban hành thì
thực tế cũng ít được áp dụng.
Thứ hai: Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm 1996 (Quy
tắc 1996). Quy tắc này áp dụng cho các tranh chấp trong nước có thỏa thuận
trọng tài ký trước ngày 1 tháng 7 năm 2003. Do những điểm bất cập trong bộ quy
tắc trọng tài nam 1993 bộ quy tắc trọng tài thứ hai của trung tâm trọng tài quốc tế
việt nam ra đời cùng song song tồn tại với bộ quy tắc trọng tài 1993 đồng thời bổ
sung những điểm chưa hợp lý trong bộ quy tắc trọng tài 1993 này.
3
Thứ 3: Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 (Quy tắc
2004). Quy tắc này được áp dụng để giải quyết cả vụ tranh chấp trong nước và
vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài có thỏa thuận trọng tài ký sau ngày 1 tháng 7
năm 2003. Sở dĩ tồn tại cùng một lúc ba bản Quy tắc tố tụng vì theo Điều 61,
Khoản 1 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại, các Trung tâm Trọng tài được thành
lập trước ngày Pháp lệnh có hiệu lực phải sửa đổi, bổ sung Điều lệ, Quy tắc tố
tụng trọng tài cho phù hợp với quy định của Pháp lệnh trong thời hạn 12 tháng kể
từ ngày Pháp lệnh có hiệu lực. Tuy nhiên, Pháp lệnh cũng đồng thời có quy định
riêng, cho phép áp dụng pháp luật có hiệu lực tại thời điểm ký thỏa thuận trọng
tài để giải quyết các tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký trước ngày Pháp lệnh
có hiệu lực (Điều 61, Khoản 2). Do vậy, căn cứ theo quy định của Pháp lệnh,
Trung tâm đã ban hành Quy tắc 2004 để đảm bảo phù hợp với quy định mới
trong Pháp lệnh. Bên cạnh đó, Trung tâm vẫn phải đồng thời vẫn giữ lại Quy tắc
1993 và Quy tắc 1996 để giải quyết các vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký
trước ngày pháp lệnh có hiệu lực. So với các bản Quy tắc 1993 và 1996 vốn được
xây dựng trong thời điểm hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn
nhiều bất cập và thiếu đồng bộ. Quy tắc 2004 được soạn thảo vào thời điểm Pháp
lệnh trọng tài được ban hành đã khắc phục, bổ sung những thiếu sót, bất cập cơ
bản trong các bản Quy tắc 1993 và 1996. Bên cạnh những quy định còn phù hợp
trong Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996,
3: Điểm mới của quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế năm 2004.
Quy tắc 2004 có những điểm mới và ưu điểm sau:
1. Về tổng thể, Quy tắc đã đáp ứng và thể hiện được các tiêu chí cơ bản của
Pháp lệnh trọng tài, pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế hiện đại;
2. áp dụng thuận tiện, Quy tắc được áp dụng chung để giải quyết cả các vụ tranh
chấp có yếu tố nước ngoài và tranh chấp trong nước;
4
3. Các thủ tục tố tụng được quy định chi tiết nhưng rõ ràng và không phức tạp,
đảm bảo tính đồng bộ, công khai và công bằng về quyền và nghĩa vụ của các
bên;
4. Tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các bên. Các bên được tự do thỏa
thuận nhiều vấn đề liên quan tới tố tụng như thời gian, ngôn ngữ, địa điểm, luật
áp dụng v.v... Cụ thể:
Về ngôn ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài: Theo Điều 18 của Quy tắc, ngôn
ngữ sử dụng trong tố tụng trọng tài là tiếng Việt. Tuy nhiên, đối với vụ tranh
chấp có yếu tố nước ngoài, các bên có quyền thỏa thuận về ngôn ngữ sử dụng
trong tố tụng trọng tài. Quy định này không có trong các Quy tắc 1993 và Quy
tắc 1996, vốn ấn định ngôn ngữ sử dụng trong phiên xét xử là tiếng Việt. Trong
tố tụng trọng tài, vấn đề ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng. Các bên tranh chấp cần
lưu ý khi áp dụng quy định này. Thông thường, trong những vụ tranh chấp có yếu
tố nước ngoài, các bên thường mong muốn được sử dụng ngôn ngữ của nước
mình, hoặc ít nhất là một ngôn ngữ thông dụng. Do vậy, để đạt được sự thống
nhất về việc lựa chọn ngôn ngữ trong trọng tài, giải pháp tốt nhất là các bên nên
thỏa thuận quy định ngay trong điều khoản trọng tài. Từ kinh nghiệm giải quyết
tranh chấp tại VIAC cho thấy, nếu các bên không có thỏa thuận trước về ngôn
ngữ trọng tài, đến khi tranh chấp phát sinh, các bên rất khó đạt được sự thống
nhất về việc chọn ngôn ngữ. Trong những trường hợp như vậy, tiếng Việt sẽ được
sử dụng.
Về địa điểm tiến hành trọng tài: Các bên được tự do thỏa thuận chọn địa điểm
tiến hành trọng tài (Điều 17). Đây cũng là quy định hấp dẫn đối với các bên tranh
chấp. Quy định này khá phổ biến trong pháp luật và quy tắc tố tụng của nhiều tổ
chức trọng tài trên thế giới. Với việc được tự do lựa chọn địa điểm trọng tài, các
bên có quyền thỏa thuận địa điểm thích hợp nhất cho cả hai bên. Tuy nhiên, cũng
giống như vấn đề lựa chọn ngôn ngữ, để tránh các rắc rối nẩy sinh trong quá
5
trình tố tụng, các bên nên thỏa thuận chọn địa điểm trọng tài cụ thể ngay trong
thỏa thuận trọng tài. Nếu vấn đề này được giải quyết trước sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho Hội đồng Trọng tài và các bên chủ động trong việc giải quyết tranh chấp.
Bởi vì, tuy Quy tắc cho phép các bên được lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài
nhưng trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì Hội đồng trọng tài sẽ
quyết định địa điểm tiến hành trọng tài. Trong những trường hợp như vậy, quyết
định của Hội đồng Trọng tài rất khó thỏa mãn yêu cầu của cả hai bên, có thể
thuận lợi cho bên này nhưng lại bất lợi đối với bên kia. Do đó, các bên được
khuyến nghị cần xác định trước địa điểm tiến hành trọng tài trong điều khoản
trọng tài. Tuy nhiên, thực tế cho thấy địa điểm tiến hành trọng tài thường là nơi
Trung tâm Trọng tài đặt trụ sở hoặc tại nước của Trung tâm Trọng tài.
Về vấn đề luật áp dụng: Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các bên
cũng được quyền chọn luật áp dụng. Đây là một quy định lý tưởng đối với các
bên, nhất là bên nước ngoài. Quy tắc trước đây không quy định cụ thể về vấn đề
này. Trong tố tụng trọng tài, vấn đề chọn luật áp dụng có ý nghĩa quan trọng, việc
cho phép các bên được quyền chọn luật sẽ giúp các bên chủ động tìm hiểu và lựa
chọn nguồn luật thích hợp khi tranh chấp phát sinh. Với quy định này, các bên sẽ
có nhiều lựa chọn khi đàm phán nội dung điều khoản trọng tài. Ví dụ, nếu các
bên gặp khó khăn trong việc thỏa thuận về tổ chức trọng tài và luật áp dụng, các
bên có thể đi đến giải pháp là chọn tổ chức trọng tài tại nước bên bán và chọn
luật áp dụng của nước bên mua hoặc các bên có thể chọn luật áp dụng của một
nước thứ ba ...
Về vấn đề chọn trọng tài viên: Không giống các Quy tắc 1996 và Quy tắc 1993,
vốn giới hạn các bên chỉ được chọn Trọng tài viên có tên trong Danh sách Trọng
tài viên của VIAC. Quy tắc 2004 cho phép các bên trong vụ tranh chấp có yếu tố
nước ngoài có thể chọn trọng tài viên trong hoặc ngoài danh sách trọng tài viên
của VIAC. Đây là một quy định mới khá hẫp dẫn. Vấn đề này đã giải tỏa được
những băn khoăn, ngần ngại của các bên, nhất là bên nước ngoài khi lựa chọn
6
VIAC để giải quyết tranh chấp. Trong quá trình đàm phán nội dung điều khoản
trọng tài, các bên thường khó đạt được sự thống nhất về việc chọn tổ chức trọng
tài, luật áp dụng và vấn đề ngôn ngữ v.v.. Do tâm lý bên nào cũng muốn được
giải quyết tranh chấp tại một tổ chức trọng tài quen thuộc của mình, hoặc do tâm
lý chưa thực sự tin tưởng vào khả năng giải quyết tranh chấp của tổ chức trọng
tài do bên đối tác lựa chọn. Tuy nhiên, với các quy định thông thoáng và hấp dẫn
nêu trên, các bên nước ngoài có niềm tin khi chọn trọng tài VIAC. Nếu các bên
thấy rằng các Trọng tài viên trong Danh sách có thể không phù hợp để giải quyết
một vụ tranh chấp cụ thể, cần phải đáp ứng một số yêu cầu đặc thù, các bên có
thể lựa chọn một trọng tài viên ngoài danh sách mà mình cho là phù hợp. Điểm
cần lưu ý khi chọn trọng tài viên ngoài danh sách thì trọng tài viên này cần phải
đáp ứng một số tiêu chuẩn nhất định.
Bên cạnh những điểm mới cơ bản nêu trên, Quy tắc còn có một số quy định cụ
thể, chi tiết trong quá trình tố tụng trọng tài:
Trong các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các luật sư, không phân biệt trong
nước hay ngoài nước đều có thể được phép đại diện cho các bên trong vụ tranh
chấp.
Về vấn đề gia hạn, không giống Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 không quy định
rõ về việc gia hạn thời hạn chỉ định trọng tài viên và gửi bản tự bảo chữa. Quy
tắc 2004 đã quy định rõ về vấn đề này, theo đó Bị đơn có thể gia hạn thời hạn
nộp bản tự bào chữa với thời hạn tối đa là 75 ngày nhưng Bị đơn phải tiến hành
chỉ định trọng tài viên trong thời hạn tối đa là 30 ngày kể từ ngày nhận được
thông báo của Trung tâm. Quy định này đảm bảo quá trình tố tụng không bị gián
đoạn, kéo dài, đảm bảo Hội đồng trọng tài sớm được thành lập để giải quyết vụ
tranh chấp.
Về vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài. Để đảm bảo quyền lợi của các bên, Quy
tắc cho phép các bên được quyền khiếu nại về hiệu lực pháp lý của thỏa thuận
7
trọng tài, về thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài trong
quá trình tố tụng trọng tài. Quy tắc dành cho Hội đồng Trọng tài quyền được xem
xét khiếu nại của các bên về vấn đề này. Trong trường hợp các bên không đồng ý
với quyết định của Hội đồng trọng tài, các bên có quyền khiếu nại ra tòa án để
giải quyết chung thẩm. Tuy nhiên, khi tòa án đã ra quyết định điều khoản trọng
tài có hiệu lực, Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì
không bên nào được quyền yêu tòa án hủy Quyết định trọng tài dựa trên căn cứ
mà các bên đã khiếu nại trước đây. Đặc biệt, trong mọi trường hợp, dù các bên có
khiếu nại hay không, tòa án không có quyền xem xét và can thiệp vào quyết định
của Hội đồng trọng tài về nội dung vụ kiện.
Một trong những điểm mới đáng chú ý đó là quyền được yêu cầu áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 26). Trong quá trình tố tụng trọng tài, nếu
thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại, các bên có thể làm đơn yêu
cầu Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Đây là
quy định mang tính nguyên tắc dựa trên quy định của Pháp lệnh Trọng tài. Các
trình tự, thủ tục áp dụng cụ thể được quy định chi tiết trong Pháp lệnh trọng tài
(từ Điều 33 đến Điều 36) và Nghị quyết của Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án Nhân dân Tối cao số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 7 năm 2003
(Mục 4). Các chế định trên đã thực sự làm tăng thêm tính hấp dẫn của trọng tài,
giải tỏa những e ngại của các bên khi đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài vì
cho rằng trọng tài thiếu các biện pháp bảo đảm cần thiết.
Với một loạt những điểm mới nêu trên, có thể khẳng định rằng Quy tắc 2004
hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của pháp luật và tập quán trọng tài quốc tế. Ngoài
việc được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký sau
ngày 1 tháng 7 năm 2004, các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký trước
ngày 1 tháng 7 năm 2003 có thể thỏa thuận lựa chọn áp dụng Quy tắc 2004 thay
cho Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996.
8
II: Nội dung của quy tắc tố tụng trọng tài quốc tế VN (VIAC)
Bô quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam được xây
dựng trên cơ sở một quy trình tố tụng để giải quyết mọi tranh chấp được xử lý
bằng con đường trọng tài. Như vậy muốn tìm hiểu về bộ quy tắc tố tụng của
trung tâm trọng tài quốc tế việt nam. Chúng ta xẽ tìm hiểu về quy trình tố tụng
của trung tâm.
Về phạm vi điều chỉnh của bộ quy trình tố tụng trọng tài quy định ngay tại điều 1
“quy tắc này chỉ được áp dụng để giải quyết các tranh chấp trong hoạt động
thương mại khi các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng tài thương mại quốc tế
việt nam và/hoặc chọn bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt
nam để giải quyết tranh chấp, hoặc các bên thoản thuận giải quyết tranh chấp
tại trung tâm trọng tài quốc tế việt nam nhưng lại không thỏa thuận sử dụng bộ
quy tắc tố tụng khác”. Như vậy VIAC chỉ giải quyết những tranh chấp mà hai
bên đồng ý cùng nhau mang ra VIAC để giải quyết nếu chỉ một bên đơn phương
yêu cầu còn 1 bên không chấp nhận thì VIAC cũng không có thẩm quyền giải
quyết. nhưng khi cả hai bên đã cùng nhau mang rat rung tâm trọng tài quốc tế
việt nam thì khi có kết quả cuối cùng hai bên đều phải tuân thủ thực hiện.
Về các các bước của quy trình tố tụng gồm các bước lớn như sau:
Khi phát sinh tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn hai bên gửi đơn đến VIAC
để yêu cầu giải quyết tranh chấp, các bên phải nên ra những lý do và bằng
chướng cụ thể để giải quyết tranh chấp tại trung tam trọng tài.
Theo Quy tắc tố tụng của VIAC, Hội đồng Trọng tài có thể gồm 3 trọng tài viên
hoặc một trọng tài viên duy nhất. Nếu các bên không có thỏa thuận về việc vụ
tranh chấp được giải quyết bởi Trọng tài viên duy nhất thì vụ tranh chấp sẽ được
giải quyết bởi Hội đồng Trọng tài gồm ba Trọng tài viên.
9
Các bên có thể tham gia trực tiếp tố tụng trọng tài hoặc ủy quyền cho người đại
diện tham quá trình tố tụng tại VIAC.
Các bên được tự do thỏa thuận:
-
địa điểm trọng tài;
-
ngôn ngữ tố tụng trọng tài;
-
luật áp dụng cho vụ tranh chấp
1. Các bước tố tụng tại trung tâm trọng tài quốc tế VN
1.1 Nguyên đơn nộp Đơn kiện, chỉ định trọng tài viên và nộp phí trọng tài
Đơn kiện bao gồm ngày, tháng; tên và địa chỉ của các bên; tóm tắt nội dung vụ
tranh chấp; căn cứ pháp lý để khởi kiện; trị giá của vụ tranh chấp và các yêu cầu
khác của Nguyên đơn; tên trọng tài viên mà Nguyên đơn chọn. Được quy định
tại điều 7, điều 8, điều 9 của bộ quy tắc tố tụng trọng tài VIAC. Nguyên đơn có
thể chọn 1 trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài gồm 3 thành viên,
ngoài ra nguyên đơn có thể chọn một trọng tài khác không phải là thành viên của
trung tâm trọng tài quốc tế VIAC nhưng được VIAC chấp nhận.
Đơn kiện và các tài liệu kèm theo phải được lập thành 5 bản (Đối với trường hợp
Hội đồng Trọng tài có 3 Trọng tài viên), hoặc 3 bản (Đối với trường hợp Hội
đồng Trọng tài có 1 Trọng tài viên). Đối với trường hợp có hội đồng trọng tài
gồm 3 người thì gửi cho 3 trọng tài mỗi người 1 bản gửi cho bị đơn 1 bản và
mình giữa 1 bản, trường hợp có 1 trọng tài duy nhất thì gửi cho trọng tài 1 bản
bên bị đơn 1 bản và mình giữa lại 1 bản. giá trị pháp lý của cả 5 hoặc 3 đơn kiện
và các tài liệu khác kèm theo này có giái trị như nhau. Trọng tài được chọn cần
phải khách quan vô tư để giải quyết tranh chấp thương mại đó được quy định tại
điều 13 cụ thể “1. Trọng tài viên được chọn hoặc được chỉ định phải độc lập, vô
10
tư và khách quan trong việc giải quyết vụ tranh chấp.Từ khi được chọn hoặc
được chỉ định và trong quá trình tố tụng trọng tài, Trọng tài viên phải thông báo
công khai và kịp thời những việc có thể gây nghi ngờ về tính độc lập, vô tư và
khách quan của mình”. Trong trường hợp trọng tài được chỉ định thì các bên có
thể yêu cầu từ chối thay đổi trọng tài viên được chỉ định, nếu có căn cứ cho rằng
trọng tài đó xẽ không khách quan khi giải quyết tranh chấp thương mại đó.
Khi nộp Đơn kiện, Nguyên đơn phải đồng thời nộp phí trọng tài.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung hoặc rút Đơn kiện trước khi Hội đồng Trọng
tài ra Quyết định Trọng tài.
1.2Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC)
VIAC kiểm tra sơ bộ về vấn đề thẩm quyền, thụ lý Đơn kiện và gửi thông báo
cho Bị đơn. VIAC xẽ kiểm tra hồ sơ về thẩm quyền trong trường hợp xét thấy vụ
tranh chấp thương mại trên không đủ cơ sở hợp pháp về thẩm quyền của VIAC
thì họ xẽ không nhận để giải quyết tranh chấp thương mại này. Trường hợp có đủ
các điều kiện cho sự công nhận hợp pháp về thẩm quyền của VIAC thì VIAC xẽ
thụ lý đơn đồng thời gửi thong báo cho bị đơn rằng mình đã thụ lý đơn để bị đơn
chuẩn bị. bị đơn có thể kiện lại nguyên đơn trong một số trường hợp mà bị đơn
cảm thấy không thỏa đáng.
1.3 Bị đơn nộp Bản Tự bảo vệ và chỉ định trọng tài viên
Bản tự bảo vệ gồm ngày tháng; tên và địa chỉ của Bị đơn; căn cứ pháp lý để tự
bảo vệ; kiến nghị cụ thể của Bị đơn; tên trọng tài viên mà Bị đơn chọn. Ngoài ra,
Bị đơn có thể nộp Đơn kiện lại hoặc đưa ra phản đối về vấn đề thẩm quyền. Trong
trường hợp có Đơn kiện lại, Bị đơn có thể sửa đổi, bổ sung hoặc rút Đơn kiện lại
trước khi Hội đồng Trọng tài ra Quyết định Trọng tài.
11
Việc Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ sẽ không ngăn cản VIAC tiếp tục quá trình
tố tụng trọng tài.
Nếu Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ, hoặc Bản tự bảo vệ không đề cập đến việc
chỉ định trọng tài viên, Chủ tịch VIAC sẽ chỉ định trọng tài viên cho Bị đơn.
1.4 Hội đồng Trọng tài
Chủ tịch Hội đồng Trọng tài sẽ được hai Trọng tài viên của Nguyên đơn và Bị
đơn bầu hoặc do Chủ tịch VIAC chỉ định. Việc bầu ra chủ tịch hội đồng trọng tài
có vai trò quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương mại giữa hai bên.
Chủ tịch hội đồng trọng tài xẽ chủ trì các phiên họp của hội đồng trọng tài cũng
như trực tiếp xem xét các chứng cứ của vụ tranh chấp để có thể cùng với hội
đồng trọng tài đưa ra phán quyết cuối cùng. Vấn đề số lượng Trọng tài viên cũng
cần được cân nhắc khi soạn thảo điều khoản trọng tài. Các bên cần thỏa thuận
tranh chấp sẽ được giải quyết bởi 1 hay 3 Trọng tài viên. Thông thường, Hội
đồng Trọng tài gồm 3 Trọng tài viên sẽ tốn kém chi phí hơn Hội đồng Trọng tài
gồm 1 Trọng tài viên. Tuy nhiên, cũng có tổ chức trọng tài, ví dụ như Trung tâm
Trọng tài Quốc tế Việt Nam áp dụng một Biểu phí trọng tài thống nhất, không có
sự phân biệt mức phí khi có 1 hoặc 3 Trọng tài viên. Vì vậy, các bên cần tham
khảo, cân nhắc Biểu phí trọng tài của một số tổ chức trước khi có quyết định về
số lượng Trọng tài viên.
Trường hợp lựa chọn Hội đồng Trọng tài gồm 3 Trọng tài viên, quá trình xét xử
cũng có thể kéo dài hơn do việc triệu tập một cuộc họp gồm 3 Trọng tài viên sẽ
không thuận tiện bằng việc triệu tập một cuộc họp với Trọng tài viên duy nhất.
Tuy nhiên, đối với Hội đồng gồm 3 Trọng tài viên thì quan điểm cá nhân hoặc
định kiến cá nhân thường ít hơn so với Hội đồng Trọng tài có 1 Trọng tài viên
duy nhất. Vì vậy, đối với các vụ tranh chấp lớn và phức tạp, các bên nên chọn
Hội đồng Trọng tài gồm 3 Trọng tài viên.
12
Ngoài ra, các bên cũng có thể thỏa thuận thêm về một số tiêu chuẩn cụ thể của
Trọng tài viên (ví dụ: trình độ chuyên môn, thâm niên nghề nghiệp, tính độc
lập….), khả năng sử dụng ngôn ngữ (thường là ngoại ngữ) và quốc tịch Trọng tài
viên để đảm bảo việc giải quyết tranh chấp sẽ được trung lập, khách quan và hiệu
quả. Nếu các bên không thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên, các quy tắc tố
tụng trọng tài của hầu hết các tổ chức trọng tài thường trực sẽ có quy định về vấn
đề này:
1.5 Hội đồng Trọng tài xem xét giải quyết vụ tranh chấp
Hội đồng Trọng tài quyết định cách thức tiến hành tố tụng trên cơ sở thỏa thuận
trọng tài và Quy tắc tố tụng của VIAC. Tuy nhiên, Hội đồng Trọng tài cũng xem
xét yêu cầu của các Bên. Hội đồng Trọng tài nghiên cứu hồ sơ, có quyền xác
minh sự việc, gặp các bên để nghe các bên trình bày ý kiến, yêu cầu các bên bổ
sung chứng cứ. Luật áp dụng sẽ xác định giá trị pháp lý của các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng. Khi thực hiện hợp đồng, các bên cần phải biết
luật nào áp dụng cho hợp đồng bởi các điều khoản hợp đồng không phải lúc nào
cũng quy định đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tương ứng của các bên. Các bên
cũng cần lưu ý rằng luật điều chỉnh nội dung hợp đồng có thể khác với luật điều
chỉnh quá trình tố tụng trọng tài. Thông thường luật điều chỉnh quá trình tố tụng
trọng tài là luật nơi tiến hành trọng tài.
Trong thương mại quốc tế, luật áp dụng hoàn toàn do các bên tự do lựa chọn. Tùy
theo khả năng đàm phán, luật áp dụng có thể là luật của quốc gia của một bên, ví
dụ như luật của nước bên bán hoặc bên mua hoặc là luật của một nước trung lập.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng
Trọng tài sẽ quyết định luật phù hợp nhất với quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên, giải
pháp tốt nhất là các bên nên quyết định trước luật áp dụng cho hợp đồng vì như
vậy sẽ chủ động hơn trong việc thực hiện hợp đồng.
13
Bên cạnh đó, để chọn luật phù hợp, một yêu cầu quan trọng là luật áp dụng phải
dễ tiếp cận, phải được sử dụng rộng rãi, phổ biến trong thương mại quốc tế và
phù hợp với quan hệ thương mại cụ thể của các bên. Do vậy, khi quyết định chọn
luật, các bên cần chủ động tìm hiểu để lường trước được các rủi ro hoặc bất lợi có
thể xẩy ra. Nếu không tìm hiểu kỹ mà đặt bút ký một cách vô tư, khi tranh chấp
phát sinh có thể gánh chịu những hậu quả bất lợi. Nếu trong khi soạn thảo hợp
đồng, các bên sử dụng ngôn ngữ mà họ dùng để giao tiếp hàng ngày thì không có
vấn đề gì xảy ra. Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế, các bên thường được sử
dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau để soạn thảo văn bản.
Các bên thường có quan niệm sai lầm cho rằng ngôn ngữ của hợp đồng sẽ chính
là ngôn ngữ trọng tài và không dự đoán được rằng một bên, dù có thiện ý hay
dụng ý, có thể đưa vấn đề này ra tranh cãi. Vấn đề tương tự cũng có thể phát sinh
nếu hợp đồng được soạn thảo bằng hai ngôn ngữ khác nhau (ngôn ngữ của mỗi
bên) với nội dung tương đương.
Một khi tranh chấp đã phát sinh, hoặc vào thời điểm bắt đầu tố tụng, các bên rất
khó thỏa thuận về ngôn ngữ chung bởi mỗi bên đều muốn đạt được lợi ích của
mình từ việc lựa chọn đó. Vì vậy, để tránh những khó khăn nói trên, ngôn ngữ
được dùng trong quá trình xét xử trọng tài nên được quy định trong điều khoản
trọng tài. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn Trọng tài viên trong
quá trình tố tụng trọng tài.
Luật trọng tài của hầu hết các quốc gia và các quy tắc của các tổ chức trọng tài
thường trực tôn trọng quyền tự do của các bên khi chọn ngôn ngữ trọng tài, ngoại
trừ một vài tiếng địa phương không phổ biến. Vì vậy, tốt hơn hết là nên theo
thông lệ chung: ngôn ngữ dùng trong xét xử trọng là ngôn ngữ thường được các
bên sử dụng trong liên lạc với nhau và là ngôn ngữ được dùng trong quá trình
đàm phán và soạn thảo hợp đồng
1.6 Hội đồng Trọng tài triệu tập các Bên đến phiên họp giải quyết vụ tranh chấp
14
Thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp do Chủ tịch Hội đồng Trọng
tài quyết định, nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Nếu các bên không tham dự họp giải quyết vụ tranh chấp mà không có lý do
chính đáng, Hội đồng Trọng tài vẫn có thể quyết định tiếp tục phiên họp và công
bố Quyết định Trọng tài.
I.7 Công bố Quyết định Trọng tài
Quyết định Trọng tài được công bố sẽ có giá trị chung thẩm và ràng buộc đối với
các Bên. Nghĩa là khi đã có quyết định của trọng tài các bên không có quyền
“phản đối” với quyết định của trọng tài (hội đồng trọng tài đó).
2. Ưu điểm, hạn chế của bộ quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm trọng tài
quốc tế việt nam VIAC
Ưu điểm: Bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam VIAC ra
đời như là một sự “tất yêu” khi nhà nước cho thành lập các trung tâm trọng tài
giải quyết các tranh chấp thương mại. ưu điểm của bộ quy tắc này là giải quyết
được tất cả các tranh chấp thương mại phát sinh mà các bên trong tranh chấp
mang đến trung tâm trọng tài quốc tế việt nam và sử dụng bộ quy tắc này để sử
dụng giải quyết tranh chấp.
Bộ quy tắc quy định rõ ràng cụ thể các bước các giai đoạn của quá trình giải
quyết tranh chấp, giúp cho các bên tranh chấp có cơ hội tìm hiểu rõ về cách thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại. vì những tranh chấp bằng trọng
tài thương mại khi được giải quyết tại trung tâm trọng tài chỉ được xem xét theo
trình tự 1 lần duy nhất và phán quyết có tính chung thẩm buộc các bên phải tuân
thủ.
15
Bộ quy tắc tạo cơ hội cho các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp trong “hòa
bình” không phải mang ra tòa án để xử đi xử lại mà có sự can thiệp của nhà
nước, “sử dụng quyền lực nhà nước”.
Bộ quy tắc là cụ thể và chi tiết hóa lý do tồn tại và tôn chỉ hoạt động của trung
tâm trọng tài quốc tế việt nam là giải quyết các tranh chấp thương mại bằng con
đường trọng tài.
Nhược điểm: bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam VIAC
ngày càng được hoàn thiện dần nhưng không phải là không có những nhược
điểm của nó. Bắt đầu từ cơ chế quản lý của nhà nước dẫn đến nhược điểm đầug
tiên của các bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam. Trung
tâm trọng tài quốc tế việt nam được thành lập năm 1993 bộ quy tắc cũng ra đời
năm 1993 do lúc này trình độ của các trọng tài trong trung tâm chưa cao nên xây
dựng bộ quy tắc tố tụng cũng có rất nhiều thiết sót. Như thẩm quyền của trọng tài
trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại bằng bộ quy tắc tố tụng này quá
hẹp. chỉ khi nào các bên “chỉ mặt” bộ quy tắc tố tụng trọng tài này hoặc khi các
bên đồng ý giải quyết tranh chấp tại trung tâm trọng tài quốc tế việt nam không
chọn bộ quy tắc tố tụng nào mà trung tâm trọng tài quốc tế chọn bộ quy tắc tố
tụng trọng tài này khi đó một bộ quy tắc tố tụng mới được đem ra sử dụng. điều
này được quy định tài điều 1 về phạm vi áp dụng của bộ quy tắc hiện hành “Quy
tắc này được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thương mại khi:
1. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
và/hoặc chọn Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt
Nam để giải quyết vụ tranh chấp; hoặc
2. Các bên có thoả thuận chọn Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam để giải
quyết vụ tranh chấp nhưng không có thoả thuận chọn quy tắc tố tụng trọng
tài khác”.
16
Thứ nữa là về phí trọng tài được quy định trong bộ quy tắc tố tụng không cụ thể.
Các doanh nghiệp thường e ngại giải quyết tranh chấp bằng con đường tố tụng
trọng tài bởi họ cho rằng chi phí trọng tài khá cao mà thực tế thì phí trọng tài
cũng không nhỏ.
Kết thúc vấn đề
Bộ quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam là công cụ chủ yếu
của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam, khi giải quyết các tranh chấp thương
mại mà trung tâm giải quyết (thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trung
tâm). Từ khi ra đời cùng với sự ra đời của trung tâm trọng tài quốc tế việt nam bộ
quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài quyết tế việt nam đã thể hiện vai trò vô
cùng quan trọng của mình để giải quyết các tranh chấp thương mại. đảm bảo tính
linh hoạt, tính trung lập, tính vô tư khách quan, tính bí mật của trung tâm trọng
tài VIAC. Bởi bì quyết định của trung tâm trọng tài nói chung và trung tâm trọng
tài quốc tế việt nam nói riêng có quyết định chung thẩm đối với các bên, nên khi
lựa chọn trung tâm cũng như bộ quy tắc tố tụng để giải quyết các bên tranh chấp
rất xem trọng uy tín của trung tâm trọng tài cũng như là dộ linh hoạt của quy tắc
tố tung trọng tài của trung tâm trọng tài đó. Giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài là một con đường tất yếu cho sự phát triển của nền kinh tế việt
nam. Mong rằng trung tâm trọng tài quốc tế việt nam tiếp tục sửa đổi phát huy
những điểm mạnh của bộ quy tắc tố tụng trọng tài của trung tâm để có thể giải
quyết tốt hơn những tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương
mại có mang yếu tố quốc tế nói riêng!
Danh mục tài liệu tham khảo
17
1. Giỏo trỡnh lut thng mi vit nam 2 trng H lut h ni NXB cụng an
nhõn dõn.
2. lut thng mi 2005
3. trang wed:
4. Nguyễn Thị Khế (chủ biên), Luật thơng mại và giải quyết tranh
chấp thơng mại, Nxb. Tài chính, Hà Nội, 2007.
5. Trung tâm thơng mại quốc tế và Trung tâm trọng tài quốc tế
Việt Nam, Trọng tài và các phơng thức giải quyết tranh chấp
lựa chọn, Hà Nội, 2003.
6. Nguyễn Thị Yến, Sự hỗ trợ của cơ quan t pháp đối với hoạt
động của trọng tài thơng mại, Luận văn thạc sĩ luật học, Trờng Đại học Luật Hà Nội, 2005.
18