TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LUẬT
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ TIỂU LUẬN
CHẾ ĐỊNH KIỂM VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
VÀ ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH – 2019
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHẾ ĐỊNH KIỂM VIÊN VIỆN KIỂM SÁT
VÀ ĐỊNH HƯỚNG TƯƠNG LAI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
KHÓA:
K19
MSSV:
G.V HƯỚNG DẪN: Nguyễn Minh Trí
TP.HỒ CHÍ MINH – 2019
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
DANH MỤC VIẾT TẮT
NỘI DUNG
Chương I. Tổng quan về Viện kiểm sát
1. Lịch sử phát triển
2. Cơ cấu tổ chức
3. Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát Nhân dân
4. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
5. Những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
6. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân
Chương II. Kiểm sát viên viện kiểm sát
I.
Khái quát chung về nghề Kiểm sát viên
1. Khái niệm chức danh Kiểm sát viên
2. Thời hạn ra đời của nghề Kiểm sát viên
3. Các ngạch Kiểm sát viên
II. Điều kiện tiêu chuẩn của Kiểm sát viên
1. Tiêu chuẩn chung của Kiểm sát viên
2. Nhiệm vụ và quyền hạn chung của Kiểm sát viên
3. Những điều Kiểm sát viên không được làm
III. Vị trí, vai trị của Kiểm sát viên trong các hoạt động tư pháp
1. Trong tố tụng hình sự
2. Trong tố tụng dân sư, hành chính
IV. Quy tắc đạo đức nghề Kiểm sát viên
V. Những tố chất và phẩm chấ sinh viên cần rèn luyện để thực hiện hiệu
quả các công việc và đúng sứ mệnh của một Kiểm sát viên
3
1. Sứ mệnh của người Kiểm sát viên
2. Tố chất cá nhân sinh viên cần có để trở thành Kiểm sát viên
3. Phẩm chất đạo đức sinh viên cần có để trở thành Kiểm sát viên
4. Tấm gương Kiểm sát viên tiêu biểu ở Việt Nam
Chương III. Sự lựa chọn của bản thân và định hướng trong tương lai
I.
Sự lựa chọn của bản thân
II.
Kế hoạch phát triển cá nhân trong tương lai
III.
Định hướng trong tương lai
3.1
Hít thở thật sâu, nghĩ mọi việc thật bình thường
3.2
Xác định điểm mạnh của bản thân
3.3
Xác định môi trường làm việc hào hứng
3.4
Tạo ra một danh sách
3.5
Đầu tư vào một khóa học
3.6
Đánh giá kinh nghiệm thực tiễn của bản thân
3.7
Hỏi ý kiến của mọi người
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
4
LỜI MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài:
Trong những năm qua đất nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới đem lại
những chuyển biến hết sức tích cực: Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được
cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết, tình hình chính trị ổn định, an
ninh quốc phòng được đảm bảo. Với vai trị là Đất nước đang bước vào cơng
cuộc đổi mới tồn diện, Đảng ta ln coi trọng việc đảm bảo tốt hơn khi thực
hiện chức năng của các cơ qua tư pháp mà mục tiêu hướng tới để xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân,, vì dân. Trước nhiệm vụ
và phát triển bảo vệ đất nước, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước
và để đáp ứng u cầu của cơng cuộc đấu tranh phịng và chống tội phạm ở
nước ta trong tình hình hiện nay thì vai trị của Viện Kiểm sát là một trong
những nội dung quan trọng tong cái cách bộ máy Nhà nước nói chung và cải
cách tư pháp nói riêng. Đồng thời, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực
hồn thiện bộ máy Nhà nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm
2013, trong đó có những bộ luật cơ bản nhằm tăng cường hơn nữa về hoạt động
đấu tranh phịng chống tội phạm thì việc nghiên cứu lý luận để áp dụng vào
thực tiễn cho cả nước nói chung trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Là một
trong những cơ quan chun chính vơ sản, trách nhiệm của ngành kiểm sát,
người cán bộ kiểm sát hết sức quan trọng, trong đó có đội ngũ Kiểm sát viên
Viện kiểm sát nhân dân, “Người cán bộ Kiểm sát viên ấy, phải thấy hết trách
nhiệm cao cả và nặng nề của mình, ln ln tơn trọng sự thật, phân rõ đúng
sai, hết sức giữ thái độ khách quan, thận trọng, cơng minh, chính trực” (Tổng bí
thư Lê Duẩn). Vị trí, vai trị của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân trong hệ
thống cơ quan Viện kiểm sát và bộ máy nhà nước nói chung đã và đang được
khẳng định. Với cơ quan viện Kiểm sát, Kiểm sát viên là người trực tiếp thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
5
trong bộ máy nhà nước, Kiểm sát viên là một chức danh tư pháp, có nhiệm vụ
thực hiện chức năng của Viện Kiểm sát, bảo vệ pháp chế, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, đảm bảo sự thực thi pháp luật nghiêm minh công bằng.
Tại đa số các quốc gia, tư pháp là một trong ba nhánh quyền lực của nhà nước,
có chức năng bảo vệ luật pháp, góp phần duy trì trật tự xã hội. Cùng các cơ
quan tư pháp khác, Viện kiểm sát nhân dân là công cụ hữu hiệu góp phần bảo
đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ
cơng lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn
định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Làm việc trong một cơ quan với những vai trò quan trọng như vậy, Kiểm sát
viên cần có những yêu cầu về năng lực và đạo đức khắt khe để hồn thành tốt
nhiệm vụ của mình. Hiểu rõ cơng việc Kiểm sát viên có thể giúp sinh viên Luật
hiểu được vị trí của Kiểm sát viên trong bộ máy nhà nước và nắm được những
quy tắc của ngành nghề kiểm sát, từu đó có một cái nhìn khách quan đúg đắn về
Kiểm sát viên nói riêng và các chức danh pháp lý khác nói chung.
Với mong muốn làm rõ một số vấn đề của chế định Kiểm sát viên góp phần xây
dựng một số giải pháp hồn thiện chế định tiếp tục khẳng định vai trò Kiểm sát
viên trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền và khẳng định được định
hướng tương lai của bản thân, em xin mạnh dạn chọn đề tài: “Chế định Kiểm sát
viên và định hướng tươi lai” cho tiểu luận cho tiểu luận tốt nghiệp cử nhân luật
của mình.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài:
2.1.Mục đích nghiên cứu
Tiểu luận tập trung làm rõ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát
viên; phân tích đánh giá thực trạng nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên;
trên cơ sở đó nêu ra các quan điểm và đề xuất giải pháp đảm bảo nhiệm vụ,
quyền hạn của Kiểm sát viên. Tìm hiểu rõ về vai trị, chức năng, nhiệm vụ
6
của ngành Kiểm sát viên để định hướng bản thân phù hợp với công việc trong
tương lai.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, tiểu luận có nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên
Hai là, phân tích thựuc trạng và đưa ra các giải pháp đảm bảo nhiệm vụ,
quyền hannj của Kiểm sát viên.
Ba là, tìm hiểu rõ vai trị, chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát viên để
định hướng bản thân phù hợp với công việc ttrong tương lai
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài:
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình bổ nhiệm, miễn nhiệm của Kiểm sát viên
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Việt Nam
Phạm vi về thời gian nghiên cứu: 2016 - 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa Mác –
Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam; chính sách, pháp luật của Nhà nước về Nhà nước và pháp luật, về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và cải cách tư pháp.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu, thu thập tài liệu từ những văn bản
quy phạm pháp luật, những văn bản áp dụng pháp luật của cơ quan, những tài
liệu có liên quan khác như bài báo, trang web và một số các đề tài nghiên cứu
tham khảo; các đề tài khoa học, chương trình, dự án, các bài báo đăng trên các
tạp chí khoa học chuyên ngành.
7
Phương pháp phân tích, tổng hợp: từ những tài liệu đã có, có sự phân tích, tổng
hợp, móc nối những vấn đề liên quan, để đi đến chắt lọc những nội dung chủ
đạo để nêu lên cơ sở lý thuyết về nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên và
đánh giá, khái quát những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận cho tiểu
luận.
Phương pháp chuyên gia, điều tra: trong q trình nghiên cứu, có sự tham khảo,
tham vấn ý kiên của người hướng dẫn và một số người khác có liên quan.
Phương pháp tổng hợp: Sau q trình tìm hiểu và tiến hành nhiều phương pháp,
có sự đúc kết, tổng hợp lại để hoàn thiện tiểu luận.
5. Kết cấu đề tài
Phần Mở đầu: lý do chọn đề tài, mục tiêu, nhiệm vụ, phạm vi, phương pháp
nghiên cứu và kết cấu chung của đề tài
Nội dung gồm 3 mục:
Mục 1: Tổng quan về Viện kiểm sát
Mục 2: Kiểm sát viên
Mục 3: Định hướng tương lai của bản thân
Phần Kết luận và Tài liệu tham khảo.
8
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
VKSTC: Viện kiểm sát tối cao
VKSND: Viện kiếm sát nhân dân
BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTDS: Bộ luật tố tụng nhân sự
9
CHƯƠNG I. VIỆN KIỂM SÁT
I.
Viện kiểm sát
I.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Lịch sử hình thành
Từ năm 1945 đến năm 1958, cơ quan Công tố ở nước ta chưa được tổ chức
thành hệ thống cơ quan độc lập mà đặt trong hệ thống Tòa án, được giao thực
hiện đồng thời hai chức năng là: thực hành quyền công tố và giám sát các hoạt
động tư pháp (chỉ đạo điều tra, trực tiếp điều tra một số loại tội phạm; quyết
định việc truy tố; buộc tội trước tòa; kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
và giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra, xét xử, giam giữ,
cải tạo và thi hành án; tham gia trong một số loại việc dân sự quan trọng để bảo
vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích của xã hội). Chức năng, nhiệm vụ đó của cơ
quan cơng tố nước ta có nhiều điểm tương đồng với Viện Công tố ở các nước
theo truyền thống pháp luật châu Âu lục địa, điển hình là Cộng hịa Pháp.
Đến năm 1959, cơ quan Công tố được tách khỏi hệ thống Tòa án, trở thành
hệ thống cơ quan độc lập và trực thuộc Chính phủ, chịu sự lãnh đạo của Chính
phủ. Hệ thống Viện Công tố ở các địa phương được tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc “song trùng” trực thuộc, vừa chịu sự lãnh đạo của Viện Công tố cấp
trên về chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời chịu sự lãnh đạo của Ủy ban hành
chính cùng cấp. Viện Cơng tố được tổ chức thành 4 cấp phù hợp với hệ thống
Tịa án (Viện Cơng tố Trung ương, Viện Cơng tố phúc thẩm được tổ chức theo
vùng, Viện Công tố cấp tỉnh và Viện Công tố cấp huyện). Viện Công tố có chức
năng, nhiệm vụ: điều tra và truy tố trước Tòa án những kẻ phạm tội; giám sát
việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra, xét xử, thi hành các bản án về
hình sự, dân sự; giam giữ và cải tạo; khởi tố và tham gia tố tụng trong những vụ
án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và nhân dân.
Ngày 15 tháng 7 năm 1960, tại kỳ họp thứu nhất, Quốc hội nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hồ (khố II) đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
10
gồm 6 chương, 25 Điều, quy định về chức năng, quyền hạn, tổ chức bộ máy của
Viện kiểm sát nhân dân; Luật này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh công
bố ngày 26/7/1960. Đây là đạo luật quan trọng, đánh dấu sự ra đời của Viện
Kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta. Tại Hội nghị kiểm điểm công tác
6 tháng đầu năm và học tập Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1960 của
ngành Kiểm sát nhân dân diễn ra vào ngày 02/8/1960, đồng chí Trường Chinh,
Uỷ vên Bộ Chính tị, Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã nhân mạnh đến
sự cần thiết và trách nhiệm to lớn của Viện kiểm sát nhân dân: “Việc thành lập
Viện kiểm sát nhân dân chính là để đảm bảo nhiệm vụ chuyên chính dân chủ
nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi và phát triển nền dân chủ ấy… Việc thành
lập Viện kiểm sát nhân dân có mục đích bảo đảm pháp chế dân chủ nhân dân
được tôn trọng, luật pháp được tôn trọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân
được tơn trọng. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước,
nhân viên cơ quan nhà nước và mọi người công dân là rất quan trọng. Làm việc
này so với cơng tố trươc kia thì nhiệm vụ đã mở rộng, quyền hạn lớn lên…
Kiểm sát là làm thế nào bảo đảm trấn áp phản cách mạng, không để chúng lọt
lưới hồnh hành, bảo đảm giữ gìn trật tự an ninh, tài sản và quyền lợi chính
đáng của nhân dân”.
Viện kiểm sát trở thành độc lập từ ngày 29 tháng 4 năm 1958. Ngày 1tháng
7 năm 1959 Chính phủ ban hành Nghị định 256 - TTg quy định chức năng
nhiệm vụ của Viện kiểm sát: Thực hành quyền công tố; trực tiếp điều tra tội
phạm; giám sát việc chấp hành luật pháp trong công tác điều tra của các cơ quan
điều tra; giám sát việc chấp hành pháp luật trong hoạt động xét xử của các tòa
án; giám sát việc thi hành các bản án; trong một số vụ án dân sự quan trọng,
Viện kiểm sát có quyền khởi tố và tham gia tố tụng; giám sát việc chấp hành
luật pháp trong hoạt động của các cơ quan giam giữ và cải tạo. từ trung ương
xuống địa phương ngành công tố tách khỏi hệ thống tòa án và Bộ Tư pháp. Viện
cơng tố trung ương có trách nhiệm như một bộ. Ở địa phương, Viện công tố là
một cơ quan chuyên môn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban hành chính cùng
11
cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Viện Công tố trung ương. Hệ
thống Viện Công tố từ trung ương đến địa phương gồm có: Viện Cơng tố trung
ương; Viện Cơng tố phúc thẩm Hà Nội, Hải Phịng, Vinh, Viện Công tố tỉnh,
thành phố, đặc khu Hồng Quảng và khu đặc biệt Vĩnh Linh; Viện Công tố
huyện, thị trấn và cấp tương đương.
Viện kiểm sát với nghĩa gần như hiện nay được hình thành từ Hiến pháp năm
1959, từ việc tách chức năng thẩm phán buộc tội khỏi thành phần thẩm phán xét
xử của các tòa án của Hiến pháp năm 1946. Viện kiểm sát một thiết chế đặc thù
của hệ thống xã hội chủ nghĩa của hệ thống bao cấp tập trung. Viện kiểm sát có
chức năng căn bản là kiểm sát chung, sau đấy là kiểm sát tư pháp: kiểm sát điều
tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát việc thi hành án. Từ chức năng cơ bản này mới
sinh ra chức năng buộc tội. Mà đã là lời buộc tội (trong bản cáo trạng) thì bao
giờ cũng là đúng, Toà án chỉ được tuyên án theo cáo trạng của Viện kiểm sát.
Cũng từ đây không những Viện Kiểm sát trong khi xét xử giữ quyền cơng tố
buộc tội, mà cịn có cả quyền giám sát hoạt động xét xử của chính phiên tồ, mà
Viện Kiểm sát đang đóng vai trị là người buộc tội.
Q trình phát triển của Viện Kiểm sát nhân dân qua các thời kỳ
Viện kiểm sát phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1960 - 1975)
Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với ngành Kiểm sát
nhân dân trong giai đoạn 1960 - 1975
Đây là thời kỳ đầu của quá trình hình thành hệ thống tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân các cấp ở miền Bắc. Thực hiện Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và các luật lệ hiện hành, kế thừa kinh nghiệm
12
tổ chức và hoạt động của Viện Cơng tố, tồn ngành Kiểm sát nhân dân vừa tiến
hành củng cố, xây dựng lực lượng, tổ chức bộ máy, vừa thực hiện chức năng,
nhiệm vụ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật. Khi thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, Viện kiểm sát các cấp định hướng công tác kiểm sát
gắn với việc phục vụ các nhiệm vụ chính trị, xây dựng miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng năm 1960 đã
chỉ rõ: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến
lược: một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; hai là, giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện
thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước; hai nhiệm
vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn
nhau. Trong đó, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là
nhiệm vụ quyết định đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối
với sự nghiệp thống nhất nước nhà...
Những quan điểm định hướng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ III là kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam nói chung và cho ngành Kiểm
sát nhân dân nói riêng. Cùng với Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 1960 là cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên cho tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân.
Theo Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Viện kiểm sát có
nhiệm vụ: “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp
hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được
giữ vững. Mục đích của việc kiểm sát là bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân, trật
tự xã hội, tài sản công cộng và những quyền lợi hợp pháp của công dân, góp
phần đảm bảo cho cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự
nghiệp đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà được tiến hành thắng
lợi” (Điều 2).
13
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, Điều 3 của Luật quy định Viện kiểm sát có 6
cơng tác sau:
“- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông
tư, chỉ thị của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan nhà nước
địa phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan nhà
nước và công dân;
- Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Tịa án nhân
dân những người phạm pháp về hình sự;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an
và của các Cơ quan điều tra khác;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Tòa án nhân
dân và trong việc chấp hành các bản án;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;
- Khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên
quan đến lợi ích của Nhà nước và của Nhân dân”.
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức gồm có: Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc
đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân các huyện, thành phố
thuộc tỉnh, thị xã hoặc đơn vị hành chính tương đương; Viện kiểm sát nhân dân
ở các Khu vực tự trị (Điều 4). Về cơ bản là tổ chức ba cấp kiểm sát gắn với cấp
hành chính. Riêng Khu tự trị thì tổ chức Viện kiểm sát cấp khu.
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất
lãnh đạo theo ngành dọc. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Khi
thực hiện nhiệm vụ của mình, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương có quyền
độc lập, các cơ quan nhà nước khác không được can thiệp. Viện kiểm sát nhân
dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên và sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 6); Viện
kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội,
14
trong thời gian Quốc hội khơng họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 8).
Về cơ cấu tổ chức, Viện kiểm sát nhân dân có Viện trưởng, một hoặc nhiều
Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên. Ngoài thành phần trên đây, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao cịn có một số Kiểm sát viên dự khuyết. Ở Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương hoặc các đơn vị hành chính tương đương, Viện kiểm sát nhân dân khu tự
trị, đều lập ra Ủy ban kiểm sát gồm, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và một số
Kiểm sát viên để giải quyết những vấn đề quan trọng trong công tác kiểm sát,
dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng (Điều 7).
Ngày 01/02/1963, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về
cơng tác kiểm sát. Đây là một sự kiện chính trị quan trọng đối với ngành Kiểm
sát nhân dân. Nghị quyết đã xác định những định hướng quan trọng về tổ chức
và hoạt động của ngành Kiểm sát nhân dân. Nghị quyết số 68-NQ/TW nhấn
mạnh: “Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân của ta là một trong những cơng cụ
chun chính của Nhà nước dân chủ nhân dân đang làm nhiệm vụ lịch sử của
chun chính vơ sản, được tổ chức ra giữa lúc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc bắt đầu lấy việc xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, đồng thời
hồn thành cơng cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Ngành Kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành
một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, pháp chế xã hội chủ nghĩa được tôn
trọng, do đó mà góp phần vào việc tăng cường chuyên chính đối với bọn phản
cách mạng, bảo đảm các quyền dân chủ của nhân dân được tôn trọng; đồng
thời cũng góp phần vào việc tăng cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân
dân”.
Ngành Kiểm sát triển khai thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong giai đoạn
1960 - 1975
15
Trên cơ sở chỉ đạo của Bộ Chính trị, của các đồng chí lãnh đạo cao cấp của
Đảng và Nhà nước, hằng năm, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều
có chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhằm chấp hành
các chị thị, nghị quyết của Đảng. Ngày 31/01/1964, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 01/V8 về phương hướng và nhiệm vụ của
ngành Kiểm sát năm 1964. Chỉ thị nêu rõ: Đẩy mạnh hơn nữa chức năng kiểm
sát toàn diện, tham gia đấu tranh chống bọn phản cách mạng và bọn tội phạm
xâm phạm đến tài sản của Nhà nước, của tập thể; đồng thời tiếp tục phòng và
chống tội phạm xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự trị an, phát hiện và ngăn
ngừa những vi phạm pháp luật, chế độ, thể lệ quản lý kinh tế, tài chính và những
vi phạm đến quyền dân chủ của nhân dân. Chú trọng việc vận dụng đường lối,
chính sách và pháp luật về nội dung, đồng thời tiếp tục tăng cường mối quan hệ
công tác với các ngành. Tiếp tục cải tiến và kiện toàn tổ chức, kiện toàn sự chỉ
đạo thực hiện cho tập trung, sát và phù hợp với yêu cầu, đi sâu vào nghiệp vụ
của ngành nhằm góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện kế hoạch nhà nước...
và những cuộc vận động lớn mà Đảng và Nhà nước đang phát động.
Xác định công tác kiểm sát thực chất là cơng tác chính trị, quán triệt các
nghị quyết của Đảng, hoạt động của ngành Kiểm sát trong giai đoạn này là tập
trung phục vụ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng quan hệ sản xuất
mới ở miền Bắc, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, trấn áp bọn phản cách
mạng và bọn tội phạm. Khi chiến tranh phá hoại mở rộng ra miền Bắc, công tác
kiểm sát đã kịp thời chuyển hướng hoạt động, phục vụ các yêu cầu của thời
chiến trên cả hai mặt trận sản xuất và chiến đấu.
Với mục tiêu hàng đầu là giữ vững an ninh chính trị, xây dựng hậu
phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững mạnh, kịp thời chi viện cho tiền tuyến,
Viện kiểm sát các cấp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành Cơng an, Tịa án tập
trung chống địch phá hoại, nghiêm trị bọn gián điệp, biệt kích và phản động, các
loại tội phạm và vi phạm pháp luật gây cản trở việc thực hiện chính sách hậu
phương quân đội và chi viện cho tiền tuyến; đấu tranh khắc phục các biểu hiện
16
buông lỏng kỷ luật thời chiến, vi phạm các quyền dân chủ của nhân dân. Chống
phá hoại kinh tế, làm tốt công tác kiểm sát điều tra và kiểm sát xét xử để xử lý
nghiêm khắc và kịp thời các phần tử phá hoại sản xuất, máy móc, thiết bị, kho
tàng, tài sản của Nhà nước và tập thể, tích cực phục vụ cuộc vận động nâng cao
ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu và cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nơng nghiệp; bảo
đảm chính sách hậu phương quân đội. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục pháp luật trong nhân dân. Phương châm tiến hành công tác kiểm sát là vừa
chống, vừa xây, lấy xây làm mục đích; vừa chống, vừa phịng ngừa vi phạm và
tội phạm; vừa xây dựng, vừa chiến đấu; tranh thủ sự lãnh đạo chặt chẽ của các
cấp ủy đảng, dựa vào quần chúng, đoàn kết phối hợp tốt với các ngành. Nắm
vững tình hình, gắn cơng tác kiểm sát với các cuộc vận động chính trị và sản
xuất, khẩn trương, chủ động, linh hoạt, lấy ngăn ngừa phạm pháp là chính, kịp
thời xử lý mọi việc phạm pháp.
Từ năm 1961 đến năm 1975 là giai đoạn hình thành hệ thống tổ chức
Viện kiểm sát quân sự các cấp. Trên cơ sở nhiệm vụ chính trị của cách mạng lúc
bấy giờ, Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định “Công tác
kiểm sát trong Quân đội do cơ quan Kiểm sát quân sự các cấp đảm nhiệm dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương. Về mặt chuyên môn, hệ thống
Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo về nghiệp vụ của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao. Để tăng cường sự lãnh đạo công tác kiểm sát và thống
nhất kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong và ngoài Quân đội, Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự Trung ương đồng thời giữ chức Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao”. Khi mới thành lập, các Viện kiểm sát quân sự đã
căn cứ vào Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 và Nghị quyết số 47/
NQ ngày 22/5/1962 của Ban Thường vụ Quân uỷ Trung ương để thực thi chức
năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát quân sự trong Quân đội. Tổ chức Viện kiểm
sát quân sự các cấp do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định riêng căn cứ vào
17
những nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Trong khi
chưa xây dựng được Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự, Tổng cục Chính
trị, Bộ Quốc phịng ban hành Thơng tri 06/TT-H ngày 12/5/1961 về việc thành
lập Viện kiểm sát quân sự và Thông tri số 304/TM6 ngày 23/5/1961 của Bộ
Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quy định tạm thời về tổ chức,
biên chế của các Viện kiểm sát quân sự. Hệ thống Viện kiểm sát quân sự có
Viện kiểm sát quân sự trung ương, các Viện kiểm sát quân sự ở cấp Quân khu,
các Sư đoàn, Lữ đoàn. Đối với Ban Chỉ huy Trung ương Công an nhân dân vũ
trang (lúc này còn trực thuộc Quân đội), Tổng cục Hậu cần, Bộ Tư lệnh Pháo
binh, Bộ Tư lệnh Phịng khơng, Lữ đồn 350 thì được tổ chức Viện kiểm sát
qn sự. Trong những năm đầu mới được thành lập, Viện kiểm sát quân sự vừa
xây dựng, củng cố tổ chức, vừa thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố tại
các phiên tồ hình sự.
Đến cuối năm 1971, hệ thống Viện kiểm sát quân sự đã có Viện kiểm sát
quân sự Trung ương và 25 Viện kiểm sát quân sự cấp thứ 2. Trong thời gian
này, ở tất cả các quân chủng, binh chủng, mặt trận, binh đoàn và sư đồn cơ
động trực thuộc Bộ Quốc phịng đều có Viện kiểm sát quân sự. Sau chiến dịch
giải phóng Quảng Trị (năm 1972), các lực lượng cơ động được tổ chức thành
các Qn đồn. Vì vậy, các Viện kiểm sát qn sự ở cấp Sư đoàn đã giải thể và
thành lập mới Viện kiểm sát quân sự ở cấp Quân đoàn. Đến đầu năm 1975, hệ
thống Viện kiểm sát quân sự có 23 đơn vị, trong đó có 22 Viện kiểm sát quân sự
cấp thứ hai.
Sau ngày 30/4/1975 đất nước thống nhất, Viện kiểm sát quân sự có điều
kiện xây dựng tổ chức và hoạt động trong phạm vi toàn quốc. Lúc này, các Viện
kiểm sát quân sự không làm nhiệm vụ trực tiếp điều tra các vụ án hình sự. Ngày
17/12/1975, Bộ Tổng Tham mưu ra Quyết định số 162/TM thành lập các Viện
kiểm sát quân sự Quân khu 5, Quân khu 7, Quân khu 9 và Quân đoàn 4.
18
Mở rộng, kiện toàn tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trên
quy mô cả nước vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1976 – 1986)
Quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với ngành Kiểm sát
trong giai đoạn 1976 - 1986
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội và chức năng, nhiệm vụ
theo Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, các Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960, năm 1981, các văn bản pháp luật khác liên quan, Viện
kiểm sát nhân dân đã phục vụ đắc lực các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế xã hội trong những năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Cùng với việc kiện toàn hệ thống các cơ quan chính quyền cách mạng ở các tỉnh
phía Nam sau khi thống nhất đất nước, hệ thống Viện kiểm sát nhân dân cũng
được thành lập ở các tỉnh, thành phố phía Nam.
Ngày 15/3/1976 Hội đồng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ban hành Sắc lệnh số 01-SL/76 quy định về Tổ chức Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Trên cơ sở đó, ngày 23/4/1976, Bộ
trưởng Bộ Tư pháp Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt
Nam đã thay mặt Chính phủ ký Nghị định số 09-BTP/NĐ quyết định thành lập
Viện kiểm sát nhân dân ở 21 tỉnh, thành phố miền Nam và đi vào hoạt động
cùng với Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước.
Ngay từ cuối năm 1975, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã triển khai công tác
chuẩn bị cho tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành
phố phía Nam. Khi Viện kiểm sát nhân dân 21 tỉnh, thành phố ở miền Nam
được thành lập, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã điều động cán bộ ở một số
đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Viện kiểm sát nhân dân
ở các tỉnh, thành phố phía Bắc vào tăng cường cho Viện kiểm sát nhân dân các
tỉnh, thành phố ở miền Nam. Ngày 02/8/1976, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
có Quyết định số 33/QĐ-76 thành lập Viện kiểm sát nhân dân các quận, huyện,
19
thị xã, thành phố trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phố tại miền
Nam.
Hiến pháp năm 1980 được thông qua, xác định đất nước ta đang trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, chính thức ghi nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội (Điều 4), quy định
nguyên tắc: “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” (Điều 12). Đối với Viện kiểm sát nhân dân,
cùng với việc tiếp tục xác định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật,
Hiến pháp năm 1980 đã quy định rõ chức năng thực hành quyền công tố của
Viện kiểm sát nhân dân (Điều 138). Đồng thời, tiếp tục khẳng định các nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan
chịu trách nhiệm trước Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và
nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong Ngành.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 1980, để phù hợp với tình hình mới và yêu cầu
của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, kế thừa Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1960, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 đã làm rõ
hơn chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân như sau: “Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa
phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân, các nhân viên nhà nước và
công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 1). Theo Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981, Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng bằng năm
công tác cụ thể sau:
“1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các văn bản pháp quy và biện
pháp của các Bộ và cơ quan khác thuộc Hội đồng bộ trưởng, các cơ quan
chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong hành vi của các nhân viên Nhà nước và
công dân;
20