BÀI 1: ƠN TẬP
CÂU CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN KỂ
TRẮC NGHIỆM
VĂN BẢN 1: VỢ NHẶT (Kim Lân)
Câu 1. Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân được hoàn thành khi nào?
A. Sau khi hịa bình lập lại (1954)
B. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công (1945)
C. Trước Cách mạng tháng Tám (1941)
D. Năm 1962
Câu 2. Trước cách mạng, Kim Lân được người đọc chú ý ở đề tài nào?
A. Đời sống của người trí thức nghèo
B. Đời sống của người nơng dân nghèo
C. Tái hiện sinh hoạt văn hố phong phú ở thơn q
D. Khơng khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam thời bấy giờ
Câu 3. Đề tài của truyện ngắn “Vợ nhặt” là:
A. Viết về người dân lao động sau Cách mạng tháng Tám
B. Viết về người dân lao động trong nạn đói năm 1945
C. Viết về số phận của người phụ nữ ở nông thôn Việt Nam
D. Viết về đời sống nông dân trong xã hội cũ
Câu 4. Anh Tràng nhặt được vợ sau khi:
A. Gặp gỡ và tìm hiểu nhiều lần.
B. Tìm hiểu kĩ nguồn gốc, lai lịch.
C. Gặp gỡ 2 lần với mấy câu bông đùa.
D. Bà cụ Tứ làm mối cho con trai mình.
Câu 5. Một biểu hiện ở Tràng được Kim Lân nhắc đến nhiều lần khi anh mới "nhặt" được vợ đối lập với
biểu hiện tâm trạng thường có của người đang ở trong cảnh đói khát bi thảm là gì?
A. Cười
B. Nói ln miệng
C. Hát khe khẽ
D. Mắt sáng lên lấp lánh
Câu 6. Nhận xét nào sau đây khơng chính xác về nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” của Kim Lân?
A. Đối với Tràng, có vợ là bước ngoặt của cả cuộc đời: sống quan tâm hơn, lo lắng đến gia đình hơn.
B. Tràng có ngoại hình xấu xí, thơ kệch.
C. Tràng là người suy tính kĩ càng, cân nhắc thiệt hơn mọi việc rồi mới làm.
D. Lấy vợ chẳng phải vì tình, chỉ là “nhặt vợ” một cách dễ dàng, nhưng khơng vì thế mà Tràng coi thường
người vợ của mình.
Câu 7. Cái tên của nhân vật Tràng trong truyện “Vợ nhặt” mang ý nghĩa gì?
A. Chỉ sự liên tiếp.
B. Chỉ một đồ vật trong nhà
C. Không có ý nghĩa gì
D. Chỉ một con vật ngồi biển
Câu 8. Từ nào sau đây chỉ ra đúng tâm trạng ban đầu của bà cụ Tứ khi thấy Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà?
1
A. Sung sướng
B. Hoảng sợ
C. Ngỡ ngàng
D. Lo lắng
Câu 9. Đối với người phụ nữ lạ là "vợ nhặt" của con, bà cụ Tứ có thái độ:
A. Lạnh lùng
B. Khinh bỉ
C. Cảm thơng, chấp nhận bằng sự thương xót
D. Xua đuổi, khơng chấp nhận
Câu 10. Dịng nào sau đây diễn đạt không đúng tâm trạng bà cụ Tứ khi con trai có vợ?
A. Ngỡ ngàng và lo âu
B. Sung sướng và mãn nguyện
C. Mừng vui và tủi hờn
D. Lo âu và hi vọng
Câu 11. Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, đón nàng dâu mới, bà cụ Tứ "nói tồn chuyện vui, tồn
chuyện sung sướng về sau này". Vì sao?
A. Vì bà sống trong niềm vui chống ngợp.
B. Vì bà hạnh phúc q lớn khi con mình được có vợ.
C. Vì bà cố vui để cho hai con được vui.
D. Vì bà cụ Tứ vốn tính tình vui vẻ.
Câu 12. Kết thúc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân là hình ảnh nào?
A. Tiếng trống thúc thuế dồn dập, xoáy vào nỗi tuyệt vọng của mọi người.
B. Đàn quạ lượn thành từng đàn như những đám mây đen trên bầu trời.
C. Bữa cháo cám chát đắng, nghẹn ứ trong cổ và nỗi tủi hờn hiện ra trên nét mặt mọi người.
D. Đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới vẫn ám ảnh trong óc Tràng.
Câu 13. Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” ở cuối truyện có ý nghĩa gì?
A. Thể hiện sự tang tóc, đói nghèo trong những năm chiến tranh.
B. Thể hiện sự nghèo túng của làng quê nơi Tràng sinh sống.
C. Vừa thể hiện cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng.
D. Thể hiện sự vùng lên kháng chiến của nhân dân.
Câu 14. Nhan đề Vợ nhặt có ý nghĩa:
A. Thể hiện thảm cảnh của người dân trong nạn đói 1945.
B. Bộc lộ sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng, sức mạnh hướng tới cuộc sống, tổ ấm, niềm tin của con
người trong cảnh khốn cùng.
C. Thể hiện sự khốn cùng của hoàn cảnh, thân phận con người bị rẻ rúng trong những năm tháng đói kém.
D. Tất cả đều đúng.
Câu 15. Kết thúc tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân, so với các tác phẩm viết về số phận người dân lao
động của các nhà văn hiện thực 1930 – 1945:
A. Khác nhau ở chỗ: người lao động cuối cùng đã tự giải thốt được cho mình thốt khỏi hiện thực đói
khát.
B. Tiến bộ hơn ở chỗ: nhân vật tuy vẫn đang ở trong hiện thực đói khát, trong tiếng trống thúc thuế dồn
dập nhưng ở họ đã hướng niềm tin đổi đời về cách mạng.
2
C. Tiến bộ hơn ở chỗ: người lao động đã phản kháng bằng cách đoàn kết, chung sức với nhau để lật nhào
ách áp bức của phong kiến, địa chủ.
D. Giống nhau ở chỗ: số phận người lao động đều rơi vào bế tắc, tuyệt vọng.
VĂN BẢN 2: CHÍ PHÈO (Nam Cao)
Câu 1. Nguyên nhân nào đã đẩy Chí Phèo từ một thanh niên hiền lành, lương thiện phải vào tù?
A. Vì đánh bạc.
B. Vì ăn trộm đồ nhà Bá Kiến.
C. Vì giết người trong làng.
D. Vì bị Lí Kiến ghen tng.
Câu 2. Sau khi đi ở tù về, Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao trở thành con người như thế
nào?
A. Chán đời, không muốn sống.
B. Làm ăn lương thiện để kiếm sống.
C. Trở thành kẻ lưu manh, côn đồ.
D. Hiền lành, nhẫn nhục và nhút nhát.
Câu 3. Cách mở đầu truyện ngắn với hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” có dụng ý gì?
A. Thể hiện chân thực hình ảnh những gã say rượu không tự chủ được bản thân.
B. Làm người đọc hả hê vì Chí Phèo đã chửi tất tần tật, là một dự báo trừng phạt bọn cường hào ác bá ở
làng Vũ Đại.
C. Chứng tỏ Chí Phèo đã nhận thức được ngun nhân cuộc đời mình tha hố là do bọn cường hào ác bá
làng xã.
D. Dáng vẻ bề ngoài của một Chí Phèo say sỉn là biểu hiện của sự tha hóa, của tấn bi kịch bên trong.
Câu 4. Sau khi ở tù về, Chí Phèo sinh sống bằng nghề gì ?
A. Thả ống lươn ngồi đồng.
B. Chỉ suốt ngày uống rượu, chẳng làm gì.
C. Làm tay sai cho Bá Kiến và chuyên rạch mặt ăn vạ.
D. Đâm thuê chém mướn.
Câu 5. Khi ý thức được hiện tại và dự cảm về tương lai, Chí Phèo sợ điều gì?
A. Đói rét
B. Cơ độc
C. Ốm đau
D. Tuổi già
Câu 6. Khi bưng bát cháo của thị Nở, tại sao Chí Phèo lại cảm thấy "mắt hình như ươn ướt"?
A. Vì Chí Phèo đang bị ốm.
B. Vì lần đầu tiên Chí được người đàn bà nấu cho bát cháo.
C. Vì lần đầu tiên Chí được ăn bát cháo ngon.
D. Vì lần đầu tiên Chí được ăn cháo hành.
Câu 7. Dịng nào sau đây khát đúng nhất về ý nghĩa đặc biệt của bát cháo hành mà thị Nở mang cho Chí
Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao?
A. Vật đầu tiên Chí Phèo được cho, khơng do cướp giật mà có.
B. Vật biểu trưng cho hương vị ngọt ngào của hạnh phúc, tình yêu.
C. Vật biểu trưng cho tình người thơm thảo trong xã hội cũ.
3
D. Vật biểu trưng cho niềm khát khao hạnh phúc của Chí Phèo.
Câu 8. Trong các mối quan hệ sau, mối quan hệ nào có tác động trực tiếp đến việc khơi sâu bi
kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo?
A. Chí Phèo – Bá Kiến
B. Chí Phèo – Thị Nở
C. Chí Phèo – Năm Thọ
D. Chí Phèo – Tự Lãng
Câu 9. Cách xưng hô của Bá Kiến và Chí Phèo rất khác nhau (bá Kiến: "Chí Phèo / "anh" - "tơi" /
"người ta" / "tơi"; Chí Phèo: "tao"). Sự khác biệt ấy cho thấy điều gì trong quan hệ Chí Phèo - bá
Kiến?
A. Một quan hệ đối nghịch gay gắt, căng thẳng, quyết liệt.
B. Quan hệ giả bị lật tẩy, xổ toẹt; quan hệ thật được xác lập trở lại.
C. Một sự đổ vỡ không ai và khơng gì cứu vãn nổi.
D. Quan hệ cũ đã và đang đổ vỡ, quan hệ mới được thiết lập.
Câu 10. Cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch lớn: Bi kịch bị từ chối quyền làm người lương thiện. Rõ ràng,
Chí Phèo khơng thể tự quyết định đời mình, duy có một lần Chí tự quyết định được. Đó là trường hợp
nào?
A. Quyết định yêu thị Nở.
B. Quyết định tự kết liễu đời mình để giữ phẩm chất lương thiện của một con người còn hơn sống vật vờ
như một con quỷ dữ.
C. Quyết định đi đòi lương thiện.
D. Quyết định xin đi ở tù: “Từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại sinh ra thích đi ở tù”.
Câu 11. Cách giải thích nào chỉ ra được nguyên nhân sâu xa cái chết bi thảm của Chí Phèo trong tác phẩm
cùng tên của nhà văn Nam Cao?
A. Vì hiểu rõ tình trạng, bế tắc, tuyệt vọng của mình.
B. Vì hận đời, hận mình.
C. Vì hận cơ cháu thị Nở từ chối mình.
D. Vì hận bá Kiến, liều mạng trả thù.
Câu 12. Hình ảnh cái lị gạch cũ xuất hiện ở đầu, được lặp lại ở cuối truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam
Cao chủ yếu có ý nghĩa gì?
A. Đưa ra lời cảnh báo về một quy luật: còn tồn tại cái xã hội làng Vũ Đại thì cịn có kẻ tha hóa, bi kịch
như Chí Phèo.
B. Gợi niềm thương cảm sâu sắc đối với những số phận nông dân nghèo bị tha hóa như Chí Phèo.
C. Dự báo về tương lai đứa con, cũng như cha nó, sẽ bị cuộc đời bỏ rơi trong quên lãng.
D. Giải thích lai lịch của Chí Phèo và những người lao động cùng cố như Chí Phèo.
Câu 13. Đặc điểm nào khơng phải phong cách nghệ thuật của Nam Cao?
A. Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao.
B. Là nhà văn có giọng điệu buồn thương chua chát, dửng dưng lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm
yêu thương,…
C. Kết cấu truyện phóng túng, mang màu sắc chủ quan.
D. Nam Cao luôn quan tâm đến thế giới tinh thần của con người, trong đó có vấn đề nhân phẩm.
4
Câu 14. Đâu là giá trị nhân đạo của tác phẩm “Chí Phèo”?
A. Lên án xã hội tàn bạo đã phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động hiền lành, chất phác.
B. Niềm cảm thông, chia sẻ, đau xót khi chứng kiến những con người hiền lành, lương thiện bị dày vị, tha
hóa thành con quỷ dữ.
C. Khẳng định niềm tin của tác giả vào bản chất lương thiện của những người nông dân.
D. Tất cả đều đúng
II. ĐỌC HIỂU VĂN BẢN THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
Đề số 01
Đọc văn bản sau:
[…]
Có tiếng hỏi:
- Anh Ứng có nhà khơng cơ?
Tơi nhỏm dậy nói với ra:
- Có! Thạ đấy phải không? Vào trong này.
Thạ theo em tôi vào. Chào mẹ tơi rồi, y nhớn nhác tìm.
- Thạ! Đây kia mà!
Hắn chạy lại phía tơi:
- Ờ. Anh ở đây mà em khơng biết. Gớm, trời nóng q nhỉ. Hôm nay em ngủ đây với anh nhé?
Tôi trả lời miễn cưỡng:
- Ừ, cũng được.
Dưới ánh sáng mờ mờ đêm trăng thượng tuần, tôi thấy hắn tiều tụy quá. Quần áo xốc xếch bẩn thỉu. Cái
đầu lâu khơng húi, tóc rù ra như tổ chim, chùm lấy khuôn mặt choắt cheo khắc khổ. Hai mắt lờ đờ thiếu
ánh sáng, trái hẳn với cái mồm mỏng tang lém luốc.
[…]
Tôi biết Thạ vào vụ hè mấy năm trước đây. Tôi hay sang trường tư của anh Thảo - bạn tôi, chơi […].
Không một lần nào gần tôi, hắn không khoe: "Em là con cháu cụ Lương Thế Vinh, cụ Lương Đắc Bằng, cụ
Lương Quy Chính đấy anh ạ"[…] Nhiều lúc tơi thấy khó chịu vì cái tính hnh hoang xốc nổi, nhưng cũng
khơng tiện nói ra.
[…]
Chợt nghĩ đến quần áo, tơi quay mình lại hỏi:
- Thế quần áo trước kia của Thạ đâu?...
- Em mất trộm. Nhà em mất trộm, anh ạ. Có bao nhiêu quần áo mất sạch.
Tơi hồi nghi. Vì hắn trả lời lúng túng. Vả đây với Mười Lăm Gian là bao xa mà một vụ trộm xảy ra tơi
khơng biết? Tuy vậy, tơi cũng nói lấy lịng:
- Độ này vải cao, mất thế cũng khá tiền đấy nhỉ?
Nhưng trong thâm tâm tôi thấy bừng bực. Tôi nghiệm ra từ trước đến nay tơi hỏi hắn điều gì, hắn cũng
trả lời quanh, không thật!
[…]
Chúng tôi vẫn chưa ai ngủ được. Tự nhiên cái gì xích Thạ nằm gần thêm. Hắn nói qua tiếng thở dài:
- Đời em khổ lắm, anh Ứng ạ.
Tơi biết hắn có tâm sự gì muốn nói nên im lặng.
5
- U em lại bước đi bước nữa!
Tiếng hắn nói ngụ một nỗi gì vừa thống khổ, vừa hờn giận. Chợt tôi cũng thở dài một tiếng khe khẽ, như
nén xuống nỗi dày vò của hắn: "Lại bước đi bước nữa". Trời! thật là mỉa mai chua chát. Thì ra mẹ hắn đã
đi bước nữa nhiều lần. Im lặng một lúc khá lâu, lại nghe hắn cất tiếng kể tiếp bằng một giọng đều đều não
nuột:
- Em nói thật đời em. Anh đừng khinh em nhé. Anh ạ, mẹ em là cơ đầu chính tơng. Ơng bà ngoại em sinh
được bốn người con gái làm cô đầu cả bốn. Trước khi lấy thầy em, mẹ em đã tằng tịu với một ông Lục sự;
đẻ được một người con trai. Được ít lâu ông Lục ấy phải đổi đi xa. Xem chừng ơng ta cũng khơng giàu có
gì. Mẹ em bỏ thẳng cánh. Thầy em lấy mẹ em về; nhà có vợ cả. Vốn là người đanh đá lại cậy thế thầy em
chiều chuộng, mẹ em lấn quyền hành hạ các anh con mẹ già em khổ lắm. Đấy là thời kỳ sung sướng nhất
trong đời em. Em đi học đến lớp ba thì thầy em mất. Sẵn có ít vốn riêng, mẹ em trở lại nghề cũ; mở nhà
hát cô đầu. Được vài năm cảnh nhà sa sút dần. Em phải thơi học về nhà làm thằng nhỏ. Anh ạ...
[…]
Vì công việc hàng ngày, câu chuyện thương tâm trong đêm mưa gió khơng cịn trở lại quấy rối trong óc
tơi nữa.
Mãi đến một hôm, trời nắng chang chang...
Tôi phải đi rát vào vỉa hè cho có bóng mát. Lưng tơi ướt dẫm mồ hôi. Hai mi mắt nặng nề buông xuống,
sợ ánh sáng. Mùi rác rưởi, mùi cống rãnh bay tản mác khắp các ngõ, ẩm thấp, nồng nực; mùi quen thuộc
của một phố nghèo. Bỗng tiếng rao kem Nhật vang lên, rướn lên. Nghe quen quen, tôi quay lại. Thì ra
Thạ.
Thống thấy tơi, hắn đội lệch cái mũ trắng rúm ró che mặt rồi quay ngoắt vào phố khác. Độ này hắn gầy
quá. Quần áo rộng lùng bùng. Sợi đã bợt nên mặc dầu vá chằng vá đụp, áo nó vẫn rách tả tơi, để hở
những miếng da đen sạm vì cháy nắng. Bóng cậu học trị xinh xẻo, trắng trẻo khơng cịn ở hắn nữa […]
(Trích Đứa con người cô đầu, Kim Lân)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Xác định các nhân vật chính trong truyện.
A. Thạ, Ứng
B. Thạ, Ứng, tôi
C. Thạ, Ứng, tôi, Thảo
D. Thạ, Ứng, tôi, Thảo, người hát cô đầu
Câu 2. Thạ thanh minh với Ứng như thế nào về việc quần áo xốc xếch bẩn thỉu?
A. Bán lấy tiền
B. Cho trẻ em nghèo
C. Mất trộm
D. Muốn theo đuổi lối ăn vận giản dị
Câu 3. Truyện được kể từ điểm nhìn của nhân vật nào?
A. Nhân vật Thạ
B. Nhân vật tôi
C. Nhân vật mẹ Thạ
D. Nhân vật Thảo – người bạn của nhân vật tôi
Câu 4. Khoảng thời gian chủ yếu diễn ra trong truyện là lúc nào?
A. Một đêm lỡ bước, Thạ phải ngủ nhờ nhà Ứng.
6
B. Khoảng thời gian Thạ là học trò trường tư.
C. Một buổi trưa Thạ đi bán kem.
D. Một buổi Thạ đi hát cô đầu.
Câu 5. Xác định mối quan hệ giữa nhân vật tơi và nhân vật Thạ.
A. Tình cảm anh em sâu đậm
B. Quen biết xã giao
C. Tình thầy trị gắn bó
D. Anh em quen biết nhau nhưng chưa đủ thân thiết gắn bó sâu nặng
Câu 6. Chi tiết Thống thấy tơi, hắn đội lệch cái mũ trắng rúm ró che mặt rồi quay ngoắt vào phố khác
cho ta hiểu gì về Thạ?
A. Thạ cảm thấy sợ hãi khi bị người khác bắt gặp đi bán kem.
B. Thạ phải bỏ chạy vì đã làm việc sai trái.
C. Thạ có lòng tự trọng của một người bỗng chốc lâm vào tình thế nghèo khổ.
D. Thạ lo sợ vì sợ phải thiết đãi kem người quen.
Câu 7. Nhận xét sự nối kết giữa lời người kể chuyện, lời nhân vật trong đoạn sau: Chợt tôi cũng thở dài
một tiếng khe khẽ, như nén xuống nỗi dày vò của hắn: "Lại bước đi bước nữa". Trời! thật là mỉa mai chua
chát.
A. Hoàn tồn là lời người kể chuyện, khơng có lời nhân vật.
B. Hồn tồn là lời nhân vật, khơng có lời người kể chuyện.
C. Lời người kể chuyện, lời nhân vật đan xen hịa trộn, khơng thể phân biệt.
D. Nhân vật đứng ra thay người kể chuyện kể lại tâm tư của chính mình.
Câu 8. Xác định câu chuyện và cốt truyện trong đoạn văn bản trên.
Câu 9. Phân tích sự phù hợp giữa ngơi kể - điểm nhìn và kết cấu mạch truyện?
Câu 10. Anh (chị) suy nghĩ như thế nào về tác động của hoàn cảnh sống đối với nhân cách con người?
Đề số 02:
Đọc văn bản sau:
Tôi không thích khi cưỡi xe vào tận thềm nhà lại phải rạp mình dưới giàn bầu ấy. Chị và mẹ tơi lại
ngại tóc rối. Cha tơi khó chịu khi phải dắt quan khách len lỏi bên mấy trái bầu để vào căn nhà sang trọng
[…]. Bữa canh đầu tiên cả nhà háo hức, nuốt tuồn tuột từng miếng bầu trong veo, ngọt lịm […]. Một lần,
hai lần rồi ba lần, chúng tôi ngán tận cổ. Mà, chết thật, nội tôi cứ trồng mãi, trồng mãi, giàn bầu ngày
càng rộng ra choán hết khoảng sân kiểng của cha xanh rầm rì […]. Chị Lan nhăn nhó:
- Nội ơi, trồng chi nhiều vậy?
Bà nội cười, buồn buồn.
- Nội làm lặt vặt quen rồi. Trồng trọt để đỡ nhớ q.
[…] Ba tơi nói “làm người đừng suy nghĩ hẹp hịi, đừng tưởng nơi mình sinh ra, nơi có mồ mả ơng cha là
q hương, khắp đất nước này chỗ nào cũng là quê cả”. Cha tơi nói đúng và ơng rước bà nội lên thành
phố. […]. Ở nhà tôi, công việc nhàn đến mức bà thơ thẩn vào rồi lại thơ thẩn ra […]. Bà làm nhiều thứ
bánh lắm, không kể hết được, nào là bánh ngọt, bánh ú....toàn là bánh nhà quê, […]. Mùa này nhiều trái
bầu khơ, nội hái vào móc ruột ra, lấy cái vỏ mằn mì gọt. Lâu lâu nội đưa lên nhìn, nheo nheo mắt. Tơi
hỏi, nội gọt gì. Nội cười, đưa cho tơi mảnh vỏ dầy hình trái tim nhỏ xíu.
- Mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo.
7
Tôi không nén được xuỳ một tiếng.
- Thời này ai đeo mấy thứ này, nội làm chỉ mất công.
Trong đôi mắt đùng đục của bà, tơi thấy có một nỗi buồn sâu kín. Con chị bếp dưới quê lên, bà gói dúi
vào tay nó mấy mảnh bầu. Con nhỏ hớn hở, vui thiệt là vui. Cũng niềm vui ấy, con bé bán vé số lỏn lẻn
cười "Bà đẽo đẹp ghê ha". Hơm sau tơi thấy nó xúng xính xỏ cọng chỉ vào, đeo tịn ten trước cổ lạ lắm. Hình
như tơi ngắm vàng rịng, cẩm thạch quen rồi. Tơi xin, bà móm mém cười "Bà để dành cho bay cái đẹp nhất
nè".
Tơi gói trái tim xíu xíu kia bỏ vào ngăn tủ, chị Lan trông thấy giành "cho chị đi". Tơi lắc đầu. Chị giận bảo
"chị cóc cần, ở chợ bán hàng khối". Nhưng rồi chị quay về nài nỉ tơi. Lần đầu tiền, tơi thấy món q của nội
dễ thương đến thế.
Giàn bầu vẫn trước ngõ. Cha tôi đã thơi khó chịu, hay bực dọc riết rồi chai đi, chẳng biết bực là gì nữa.
Nhưng khách đến nhà, ai cũng khen"anh ba có giàn bầu đẹp thiệt". Họ săm soi, từng mảng lá cuống hoa.
Khách nước ngồi cịn kề má bên trái bầu xanh lún phún lông tơ mà chụp hình kỷ niệm. Mấy anh chị sinh
viên đạp xe ngang dừng lại nhìn đau đáu qua rào rồi kháo nhau "Nhớ nhà quá, tụi mày ơi"[…]. Ông chủ
tịch đến chơi nhà […]. Cha tôi sai chị bếp mang rượu thịt ra ơng chủ tịch khốt tay:
- Thơi, chú bảo chị ấy nấu canh bầu ăn.
[… Hôm ấy cả nhà tơi ăn lại bát canh ngày xưa, nghe ngọt lìm lịm lưỡi. Chị bếp ngó nội, khối chí cười
đầy hàm ý. Hình như nội tơi vui.
[…]
Bà nội lẩn thơ lẩn thẩn rồi, mà hình như bà chỉ nhớ về quá khứ. Nội hay ra ngồi hiên, chăm chăm nhìn
giàn bầu đang run rẩy trong gió. Bà ngồi đấy lặng lẽ, thẫn thờ, như chờ một tiếng vạc sành, một tiếng ếch
kêu. Tay bà lạnh ngắt, tơi chạy vào phịng lấy lọ dầu thoa, vẫn thấy mảnh bầu trái tim màu vàng trong
ngăn kéo, cái màu vàng như của rạ, của lúa, như của mái nhà lá nhỏ lơ phơ dưới nắng chiều. Giàn bầu
vẫn trước ngõ, có kẻ đi qua kêu lên, "tơi nhớ nhà". Cha tơi bảo: "có thể bứt người ta ra khỏi quê hương
nhưng không thể tách quê hương ra khỏi trái tim con người."Và cha tôi lại nói đúng.
(Trích Giàn bầu trước ngõ, Nguyễn Ngọc Tư)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Nhân vật trung tâm của truyện là ai?
A. Nhân vật tôi
B. Nhân vật bà cụ
C. Nhân vật người cha
D. Nhân vật ông chủ tịch
Câu 2. Bà cụ đã làm gì khi lên phố?
A. Đi chợ mua bầu về nấu, làm bánh piza, bánh sangwich, ướp trà hoa nhài
B. Trồng một giàn bầu trước nhà, làm các loại bánh quê, làm mặt dây chuyền cho tụi nhỏ đeo
B. Đi chợ mua bầu về nấu, làm các loại bánh quê, ướp trà hoa nhài
C. Trồng một giàn bầu trước nhà, làm bánh piza, bánh sangwich, xâu vịng
Câu 3. Thái độ của gia đình người con đối với giàn bầu như thế nào?
A. Yêu mến và chăm sóc vun xới mỗi ngày
B. Ngay từ đầu đã thấy không phù hợp với lối sống phố thị
C. Lúc đầu chăm bầu, ăn canh bầu thì thích, sau dần thấy chán và thấy giàn bầu vướng víu
D. Dù khơng thích nhưng vẫn chăm sóc miễn cưỡng
8
Câu 4. Mặt dây chuyền bà cụ làm cho tụi nhỏ đeo là gì?
A. Là chiếc nhẫn tết bằng cỏ khơ
B. Là hạt cườm bà cụ giấu kĩ trong hịm
C. Là mặt cười ngộ nghĩnh đẽo từ gỗ
D. Là hình trái tim nhỏ xíu đẽo từ vỏ bầu khơ
Câu 5. Đâu là đặc điểm ngôi kể của truyện?
A. Ngôi thứ ba – ngơi kể tồn tri, là tác giả của truyện
B. Ngôi thứ nhất – ngôi kể hạn tri, là người đứng ngoài câu chuyện và chứng kiến toàn bộ truyện
C. Ngôi thứ nhất – ngôi kể hạn tri, là cháu nội bà cụ - một nhân vật trong truyện
C. Ngơi thứ ba – ngơi kể tồn tri, là cháu nội bà cụ - một nhân vật trong truyện
Câu 6. Vì sao bà cụ trồng bầu?
A. Vì chán cảnh ở phố
B. Vì tính bà cụ thảo lảo muốn cho mọi người
C. Vì muốn có bóng mát cho sân nhà
D. Vì ln mang trong mình nỗi nhớ q hương
Câu 7. Có thể hiểu câu nói của người cha "có thể bứt người ta ra khỏi quê hương nhưng không thể tách
quê hương ra khỏi trái tim con người" như thế nào?
A. Ai cũng phải đi tìm q hương của chính mình.
B. Khơng ai có thể qn q hương của mình dù phải cách xa đến mấy.
C. Mỗi người đều có quê hương của riêng mình.
D. Hãy ln giữ q hương trong trái tim mình.
Câu 8. Nhận xét về trình tự thời gian trong mạch truyện.
Câu 9. Phân tích tác dụng của ngơi kể - điểm nhìn trong mạch truyện.
Câu 10. Anh (chị) có cho rằng q hương ln trong trái tim mỗi người khơng? Vì sao?
Đề số 3:
Đọc văn bản sau:
Tơi quyết định rồi, tôi sẽ bỏ nhà đi bụi đời […]. Tôi quyết định đến ngã tư chỗ rẽ về nhà ngoại, thể
nào lúc ba mẹ cuống cuồng chạy đi tìm cũng qua đây […]
Ở đó, tơi gặp thằng Lụm.
[…] Thằng Lụm rờ cái cặp đầy nhóc quần áo tơi:
- Mầy đi đâu mà ngồi đây?
Tơi nói dõng dạc để chứng tỏ con người mình đầy dũng cảm:
- Đi bụi đời
Nó chê liền:
- Tướng mầy mà đi bụi? Yếu như cọng bún mà nói đi bụi, mắc cười.
Tơi giận lắm, tuy nhiên để chứng tỏ mình là người lớn, tơi nhún vai ra chiều khơng chấp. Tơi hỏi lại nó ra
đây làm cái gì. Nó nói, nó tìm má nó. Tơi hỏi má nó ở đâu, nó lắc đầu hỏng biết. Tơi hỏi tới:
- Sao kỳ vậy?
Thằng Lụm “cịi” nhún vai, co mình lại tuồng như ngọn gió vừa bay qua lạnh lắm vậy.
- Hồi đó, hồi tao cịn nhỏ ơi là nhỏ, má tao bỏ tao lại đây nè.
- Là sao?- tôi chưng hửng.
9
- Tao cũng đâu có biết. Chắc má tao gặp chuyện gì đó buồn lắm, ni khơng nổi tao nên bỏ tao lại đấy.
Bởi vậy tao tên Lụm đó.
- Sạo hồi.
Thằng Lụm lắc đầu ra chiều chán nản:
- Thiệt đó, biết sao tao đen thui vậy hơn?- Nó chìa ra cái mặt như chàm cháy – tao bị bỏ ngoài nắng đó.
Hồi đó ở ngã tư nầy vắng hoe hà, tao nằm khóc cả buổi mà đâu có ai hay. Tới chừng đói qúa tao mới
khóc, tao khóc rổn rổn luôn, tao mạnh miệng từ hồi nhỏ mà. Rồi cái có bà dì bán bánh mì chạy lại, bồng
lên, đâu có sữa, bà dì mới móc ruột bánh mì cho tao trấp trấp đỡ, dè đâu tao ăn hết ổ bánh mì ln. Bà dì
thấy tao dễ ni, ni ln, sau này, tao kêu bả bằng ngoại. Tao lớn mà hổng tốn một miếng sữa nào hết,
hay chưa?
[…]
- Sao mày đi bụi? - thằng Lụm chợt hỏi/
- Ba tao – tôi chép miệng ra vẻ oan ức. Ba tao đánh tao.[…]
Giọng thằng Lụm vừa hồ hởi vừa có vẻ ganh tị.- Mày sướng thiệt (trời, bị đánh mà sướng nỗi gì). Vậy mà
cịn bỏ nhà đi. Đồ ngu!
Tự nhiên vậy rồi nó chửi tơi à. Tơi cãi:
- Mầy đâu có má có ba đâu có biết. Người lớn khó dữ lắm.
- Chẳng thà có má, có ba, bị rầy gì tao cũng chịu - thằng Lụm trở nên trầm ngâm, coi nó già quá trời!Nhưng mầy đừng có lo, tao ngồi đây thể nào cũng gặp má tao thôi. Thế nào má đi qua má cũng nhìn ra
tao. Mai mốt bị rầy, bị đòn cho đã. […]
Thằng Lụm “còi” làm tôi hối hận và nhớ ba mẹ quá chừng. Tôi muốn trở về. Tôi ngồi im lặng suy nghĩ
trong khi thằng Lụm đứng dậy để nhìn mỗi khi có một lượt xe dừng lại trước đèn đỏ. Tôi chợt sợ q, có
khi nào ba mẹ giận bỏ tơi ln như thằng Lụm không. Ba mẹ sẽ sanh nhiều thiệt nhiều em khác cịn tơi thì
biết kiếm đâu ra ba mẹ khác bay giờ. Tôi ngồi lo lắng đến mức, khi ba mẹ tơi ghé xe lại dưới đường tơi
cịn khơng hay. Thấy bóng mẹ đứng sịch trước mặt mình, tơi bật khóc:
- Con tính đâu ba mẹ bỏ con ln rồi.
Mẹ không vồ vập ôm lấy tôi mà điềm đạm cầm bàn tay tơi bóp mạnh, cịn ba thì vỗ vỗ vào đầu tôi.
- Con hư quá. Con đừng làm vậy ba mẹ buồn.
Thằng Lụm đứng trân trân nhìn tơi với đôi mắt buồn tủi. Tôi quẹt nước mắt bước lại gần nó, bất giác
tơi gọi thằng Lụm bằng anh:
- Em về nghen, anh Lụm.
[…] Thằng Lụm cảm động, lắc đầu, nó nói trổng khơng:
- Mai mốt ra đây chơi, nghen mậy!
Tơi vừa ngối vừa gật đầu. Ba tơi hỏi ai, tôi trả lời “Bạn con. Anh Lụm. Anh Lụm tội nghiệp lắm ba à…”
khơng biết thằng Lụm “cịi” có biết tơi đang kể về nó khơng mà nó nhìn theo xe tơi đến khuất thì thơi. Khi
tơi ngối lại, dưới đèn sáng rực, tơi thấy trong mắt nó lấp lống những giọt nước.[…]
(Trích Lụm Cịi, Nguyễn Ngọc Tư)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Xác định thời gian, không gian trong truyện
A. Một chiều muộn nơi bến sông
B. Một sớm bình minh tại một khu chợ nghèo
C. Khoảng thời gian đêm tại một ngã tư đường phố
10
D. Một buổi trưa tại gầm cầu
Câu 2. Hoàn cảnh của cậu bé tên Lụm?
A. Một cậu bé lang thang, đi kiếm ăn trong đêm
B. Bỏ nhà đi lang thang, kiếm ăn bằng cách đi bán bánh mì
C. Bị lạc, đang tìm đường về nhà
D. Bị bỏ rơi, được người ta nhặt về ni, ngày đi bán bánh mì, đêm ra ngã tư
Câu 3. Mục đích thằng Lụm ra ngã tư đường trong đêm là gì ?
A. Để ăn xin
B. Để tìm người quen
C. Để đợi mẹ nó
D. Để kiếm sống
Câu 4. Truyện xoay quanh tình huống nào?
A. Nhân vật tôi đánh nhau với một cậu bé tên Lụm
B. Nhân vật tôi bỏ nhà ra đi gặp Lụm tại một ngã tư đường trong đêm
C. Nhân vật tôi và cậu bé tên Lụm cùng nhau thực hiện một cuộc bỏ trốn
D. Nhân vật tôi và cậu bé tên Lụm cùng nhau đánh lại bọn du côn tại một ngã tư đường trong đêm
Câu 5. Vì sao thằng Lụm mong được ba mẹ đánh như tơi?
A. Vì nó muốn được trải nghiệm cảm giác đau.
B. Vì nó tị mị muốn biết sự nghiêm khắc của ba mẹ « tơi»
C. Vì nó đã chán ghét cuộc sống quá êm đềm và bình n
D. Vì chỉ khi có mẹ cha mới có được sự quan tâm, dạy dỗ đó
Câu 6. Điểm trùng khớp giữa mạch truyện và câu chuyện?
A. Theo trình tự thời gian.
B. Theo trình tự khơng gian.
C. Theo sự phát triển nội tâm nhân vật.
D. Theo quy luật nhận thức của con người.
Câu 7. Chi tiết “Khi tơi ngối lại, dưới đèn sáng rực, tơi thấy trong mắt nó lấp lống những giọt nước” nói
lên điều gì?
A. Một bức tranh đẹp mà buồn sâu thẳm về nỗi khốn khổ của con người.
B. Tác giả muốn mượn ánh sáng để khắc họa rõ nét nội tâm của con người.
C. Nhân vật tôi đã hiểu chuyện và thực sự trưởng thành khi biết chia sẻ, đồng cảm với những đau khổ, với
những khao khát của Lụm.
D. Tình cảm gắn bó của nhân vật tôi đối với Lụm đã làm Lụm xúc động khi phải chia xa
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
Câu 8. Những lời đối thoại trong truyện cho ta hiểu gì về các nhân vật?
Câu 9. Theo anh (chị), vì sao đến cuối truyện nhân vật tôi gọi Lụm bằng anh ?
Câu 10. Có người khuyên: Hãy rời xa gia đình và sống cuộc đời như bạn muốn? Anh (chị) có đồng tình
với lời khun này khơng? Vì sao?
Đề số 04
Đọc văn bản sau:
Ngay cái tên cũng khó nghe rồi. Thà cứ là Kèo, là Cột, là Hạ, là Đông. Là gì cũng cịn dễ nghe. Nhưng
hắn ta lại là Trạch Văn Đồnh. Nghe như súng thần cơng. Nó chọc vào lỗ tai.
11
Đã thế cái mặt hắn lại vênh vênh, ngậu xị thế nào… Nhưng tất cả những cái ấy cịn có thể tha thứ được
[…]. Song những con mắt, những con mắt nó là tấm gương của linh hồn mới đáng ghét vô cùng. Chúng
chỉ bé thôi nhưng chúng lăn tăn, chúng lấp lánh như nhạo, như cười, như khinh khỉnh với người ta.
Chúng chẳng nhìn xuống bao giờ. Chúng nhìn thẳng, chúng nhìn nghiêng. Cái nhìn tự đắc như cái nhìn
của một kẻ có thể nhắc người ta lên như nhắc một cái lơng. Ghét lắm!
[…]
Hắn bỏ làng đi đó đi đây. Đi khắp nước Nam.
[…]
Hắn về làng với một con vợ theo, rất nhiều tiền (hồi ấy bạc trăm đã là to) và phẩm hàm. Hắn bỏ tiền
ra, mổ bò, mổ lợn làm khao. Làng đến ăn rồi làng gọi hắn là ông. Một thằng bạch đinh, con một lão đi
câu chết mất xác dưới sông, bỏ làng đi chán đi chê, rồi đột nhiên trở về nhảy tót lên bao lan ngồi làm một
ơng kì mục. Thế thì ai chẳng tức? Ai ở đây là những ơng kì mục bỗng bị hắn đè đầu đè cổ. Đó chỉ là một
lối nói, thực ra thì các ơng chỉ phải nhường hắn ngồi chiếu trên. Nhường một thằng không chôn nổi bố
ngồi chiếu trên. Như vậy thì nhục quá. Các ông không chịu được. Các ông về hùa với nhau để chành chẽ
hắn, để động hắn mở miệng ra là chèn. Hắn đã khổ với các ông khá nhiều. Hơi thấy bóng hắn ra đình là
các ơng nói móc ngay. Các ơng bình phẩm từ cái đầu của hắn rũ rượi như đầu đứa chết trơi (ấy là các
ơng móc đến cái chết của bố hắn), đến cái áo ba-đơ-xuy của hắn tã như cái áo thằng đánh giậm (ấy là
các ơng móc đến cái nghề đi câu). Các ơng nói cạnh cả đến hàm răng của hắn, cái bộ ria của hắn, cái
mặt vác lên trời của hắn. Nhưng vốn bướng bỉnh, hắn không lấy thế làm nao núng. Hắn chỉ mỉm cười chế
nhạo hay khinh bỉ. Đôi mắt soi mói của hắn khơng thèm soi mói đến cái mũi, cái mồm hay cái áo the có
mùi chua của các ông. Hắn ngấm ngầm theo dõi đến những việc của các ông làm ám muội. Một hôm,
đùng một cái, hắn đưa bốn ơng lên huyện vì việc bao chiếm công điền. Đùng một cái nữa, hắn đưa mấy
ông khác lên huyện vì việc làm tiêu cơng quỹ. Rồi đùng một cái nữa…, và cái nữa… và cái nữa. Luôn năm
sáu cái đùng như vậy hắn làm các ông liểng xiểng. Bởi tội của các ông nhiều như lá trên rừng. Con em
chúng nó mù, nhưng hắn khơng mù. Hắn bới ra từng tội một, và nhất định sẽ bới ra đến hết. Các ông đâm
hoảng. Các ông đành phải dàn với hắn. Các ông đấm mõm hắn một vài mối lợi. Hắn không thèm nhận,
bởi hắn thừa biết nuốt vào thì há miệng mắc quai. Nhưng hắn bằng lịng thôi không kiện nữa. Các ông bắt
đầu sợ hắn mà hắn cũng bắt đầu khinh nhờn các ông. Hắn coi các ông như những đồ trẻ con. Để những
khi say rượu đùa…
Năm ngối làng vào đám. Hơm giã đám, có mổ một con lợn tế thần rồi đồng dân hội ẩm. Đồng dân đây
có nghĩa là các cụ…
Lúc tế, ơng Cửu Đồnh cịn ngủ ở nhà […]. Các cụ miễn đi cho ơng vậy! Điều ấy thì ơng khơng phải nài:
các cụ chẳng mong gì có ơng; ơng cứ ở nhà đến hết đám cho quan viên mừng!
… Hai bàn đã bưng mâm […]. Các cụ đang hạch hai bàn làm sao lại thiếu hai cái móng giị? Móng giị
có bốn ông to nhất. Lệ làng từ cổ đến giờ vẫn thế. Tuy trong số bốn ông to nhất chẳng ơng nào cịn khỏe
răng để có thể gặm nổi cái móng giị nhưng cũng chẳng ơng nào chịu mất. Một miếng giữa làng…Đừng
có tưởng…Bây giờ cịn có hai cái, thì ông nào ăn ông nào đừng?… Các cụ quát hai bàn như vậy. Và hai
bàn xanh mắt. Họ cãi nhau chí chóe. Anh nọ rằng anh kia để mất. Anh nào, mặc! Cứ biết là hai bàn sơ ý
là hai bàn phải bắt mua can rượu tạ!… Ơng Cửu Đồnh khơng nói gì. Ơng chỉ cười. Bởi ơng đã đi nhiều,
từng trải nhiều nên thấy nhiều cái to tát hơn cái móng giị nhiều lắm. Hai cái móng giị khơng đáng kể. Ra
quái gì mà ngậu lên!
12
Các cụ uống rượu cũng xong rồi, hai bàn đã giải mâm… Ông Cửu ngồi thưởng trống. Ông bảo đào, bảo
kép:
- Hát cho thật hay vào mới được. Tôi nghe hát, nếu vừa ý, bao giờ cũng có thưởng.
[…] Khúc hát xong kép bng đàn, đào bng phách. Ơng Cửu đứng lên để thọc hai tay vào túi áo ba-đơxuy màu chó gio. Ơng bảo:
- Tớ đã hứa tất cả là phải có. Nhưng tiền thì thật hết. Tớ đãi cho cái này, có lẽ cịn q hơn tiền nhiều…
Ơng rút một tay áo ra, quẳng một cái móng giị cho anh kép. Ông rút nốt tay kia ra, quẳng một cái móng
giị nữa cho cơ đào. Rồi ơng quay lại:
– Chào các cụ! Tơi xin vơ phép!…
Ơng lẹp kẹp kéo lê đôi giày qua bọn trai em, hoan hô ông bằng những tiếng cười nổ như xe phành phành.
(Trích Đơi móng giị, Nam Cao tuyển tập)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Truyện xoay quanh tình huống nào?
A. Sự tranh chấp đơi móng giị của hào lí trong làng
B. Một vụ mất trộm đơi móng giị của làng
C. Cuộc đối đầu trực diện giữa một người dân bao năm bị đè nén với bọn hào lí trong làng
D. Đơi móng giị - phần thưởng đặc biệt cho anh kép và cơ đào
Câu 2. Trạch Văn Đồnh được khắc họa qua?
A. Nội tâm sâu sắc
B. Điểm nhìn bên trong
C. Hình dáng, đối thoại và hành động thể hiện cách ứng xử với hào lí trong làng
D. Gián tiếp qua lời kể của một người dân trong làng
Câu 3. Trạch Văn Đồnh có cuộc đời ra sao?
A. Cuộc sống xa hoa, sung sướng, được mọi người trong làng kính sợ
B. Xuất thân tầm thường, cuộc đời khốn khó, bị khinh bỉ, phải bỏ làng mà đi, sau quay về làng, giàu có,
mạnh mẽ đối đầu với bọn hào lí
C. Cuộc sống cơ cực, khốn khó bị mọi người trong làng coi thường, khinh bỉ
D. Cuộc sống êm đềm, yên ả, nhiều người mơ ước
Câu 4. Trạch Văn Đoành lấy uy trước bọn hào lí bằng cách nào?
A. Chỉ ra lỗi sai của chúng trước dân làng
B. Chỉ thẳng mặt những tội lỗi bẩn thỉu của chúng
C. Vẽ tranh biếm họa những tội lỗi bẩn thỉu của bọn hào lí
D. Kiện chúng lên quan trên những việc làm sai trái của chúng
Câu 5. Tác giả gửi gắm điều gì qua hình ảnh bọn trai em «hoan hơ ơng bằng những tiếng cười nổ như xe
phành phành»?
A. Mọi người hào hứng trước một vở hài kịch được hạ màn
B. Mọi người sung sướng, thỏa nguyện vì đã tìm thấy đơi móng giị
C. Sự đồng thuận của dư luận trước hành động sỉ nhục bọn hào lí của Trạch Văn Đồnh
D. Ủng hộ hành động hào phóng của Trạch Văn Đồnh vì đã tặng đào, kép đơi móng giị
Câu 6. Tại sao tác giả không hé lộ từ đầu buổi liên hoan về việc đơi móng giị bị Trạch Văn Đồnh lấy
mất ?
13
A. Tăng tính thuyết phục, tạo nhịp u buồn man mác, nhấn mạnh nhu cầu được thấu hiểu, được lắng nghe
của mỗi người
B. Tăng tính sinh động, hấp dẫn, tạo sự bất ngờ, kích thích sự tị mị tìm hiểu của mỗi độc giả
C. Khơi gợi tưởng tượng, tạo nhịp hối thúc thiết tha, nhấn mạnh nhu cầu được trân trọng, yêu thương của
mỗi người
D. Tăng tính sinh động, hấp dẫn, tạo nhịp hối thúc thiết tha, nhấn mạnh nhu cầu được tận hưởng, tận hiến
của mỗi người
Câu 7. Chi tiết cuối truyện: Trạch Văn Đồnh thưởng móng giị cho anh kép và cơ đào có ý nghĩa gì?
A. Tơn vinh những người là đào kép (do quan niệm của người xưa thường coi đào kép là nghề mạt hạng,
đáng khinh bỉ)
B. Thương xót những người đào kép (do quan niệm của người xưa thường coi đào kép là nghề mạt hạng,
đáng khinh bỉ) chỉ biết mua vui cho mọi người
C. Nhấn mạnh giá trị của đơi móng giị (trong quan niệm người xưa : một miếng giữa làng bằng một sàng
xó bếp)
D. Những tên đầu sỏ của làng (vốn trọng danh dự) cũng chỉ tầm thường như bọn đào kép mà thôi (do quan
niệm của người xưa thường coi đào kép là nghề mạt hạng, đáng khinh bỉ)
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện yêu cầu:
Câu 8. Nhận xét nhịp điệu của truyện.
Câu 9. Nhà văn Nam Cao gửi gắm điều gì qua cc đối đầu của Trạch Văn Đồnh và bọn hào lí trong
làng qua Đơi móng giị?
Câu 10. Hãy viết đoạn văn ngắn (7 – 10 câu) về ý nghĩa của tinh thần đấu tranh trước cái ác, cái xấu.
Đề 4.
Đọc văn bản sau và thực hiện yêu cầu:
Thấy mẹ gắt, thằng cu khơng dám địi ăn nữa, nhưng mặt nhăn nhó bịu xịu như muốn khóc. Chị đĩ
Chuột thương hại, dịu dàng bảo:
- Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào chè chín bu gọi về mà ăn... chóng ngoan rồi bu thương.
Nhưng nó khơng nhúc nhích, mà nó cịn nhúc nhích làm sao được: một nắm cơm nhỏ ăn từ sáng đã bị cái
dạ dày chăm chỉ của con nhà nghèo tiêu hết đánh phèo một cái rồi, cịn chi. Nó ngồi phịch xuống đất, gục
đầu vào ngưỡng cửa, ngáp...
- Sắp chín chưa, bu?
Quay ra vẫn thấy con nằm phục đấy, mắt lờ đờ như chết lả, chị Chuột chép miệng:
- Thôi đây! Chín chả chín thì đừng, bắc mẹ nó ra cho chúng mày ăn khơng có chúng mày làm tội cũng
chết. Chốc lại nheo nhéo, chốc lại nheo nhéo...
Chị vừa lẩm bẩm, vừa dập lửa rồi bắc cái nồi ở trên bếp xuống, lấy một cái vỏ trai múc vào mấy cái bát
sành sứt mẻ tứ tung, đặt ngay trên mặt đất. Thằng cu Bé vội vàng lê xích lại gần, hai mắt lóng lánh đổ
dồn cả vào mấy bát “chè” màu nâu đục, khói bốc lên nghi ngút. Mồm nó nuốt nước bọt ừng ực, mũi nó nở
hẳn ra như để hít lấy hương vị của khói chè ngon ngọt. Chị đĩ Chuột phải đưa tay cản nó lại, sợ nó sà vào
mà bị bỏng. Chị bảo nó:
- Cịn nóng lắm, chưa ăn được. Con ra vườn gọi chị về cho chị ăn với khơng có phải tội chết, nó làm quần
quật từ sáng tới giờ mà chưa được tí gì vào bụng.
14
Không đợi dến hai tiếng, chị Gái hớn hở chạy về, lôi thôi lếch thếch trong mấy mảnh giẻ rách tả tơi, vừa
đến bếp nó đã reo lên:
- Sướng quá! Lại được ăn chè kia chứ! Có ngọt khơng bu? Bu lấy đâu được mật mà lại nấu chè thế?
Chị Chuột mắng yêu con:
- Úi chà! Tíu tít như con mẹ dại ấy! Tha hồ ăn đến chán chê, chỉ sợ không sao nuốt được thôi, con ạ.
Rồi chị bảo thằng cu Bé:
- Bé lại đây, bu cho ăn.
Thằng cu ngồi xổm bên mẹ, hấc mặt lên, há hốc mồm ra như con chim non đợi mẹ mớm mồi. Một miếng
vào mồm, nó đã vội nuốt thỏm đi, khen “ngon quá”. Nhưng chưa kịp ăn miếng nữa, nó đã oẹ một cái, mũi
đỏ lên, nước mắt ứa ra giàn giụa.
- Sao thế?
Nó chỉ hụ hị nhìn mẹ mà khơng nói, cũng khơng chịu há mồm ăn nữa. Cái Gái nhìn mẹ, xêu một miếng
chè nữa ăn thử lại:
- Nhạt quá, bu ạ.
Chị Chuột mắng con:
- Làm gì có nhiều mật mà ngọt. Có mà ăn cho no bụng là phúc rồi.
Thằng cu chừng đói q khơng chịu được, lại há mồm ra. Mẹ nó đút cho nó một xêu nhỏ nữa. Nó nhắm
mắt, duỗi cổ, cố nuốt cho trơi. Nhưng cũng như lần trước, nó lại oẹ ra, và khóc oà lên. Chị đĩ Chuột lấy
tay áo lau nước mắt không cầm nổi đã trào ra hai má hõm xanh bùng như người ngã nước. Cái Gái lấy
ngón tay di một cục “chè”. Rồi bỗng nói to lên:
- À! Con biết rồi! Không phải chè, cám mà! Cám nâu mà bu bảo chè!
Nhưng mẹ nó đưa mắt nhìn nó, lấy ngón tay chỉ ra phía nhà ngồi nói khẽ, nhưng hơi gắt:
- Khe khẽ cái mồm một tí! Réo mãi lên, thằng bố mày nó nghe thì nó chết. Nó đã ốm nằm đấy, thuốc
khơng có, mà cịn bực mình thì nó chết.
Rồi hai mẹ con lẳng lặng ăn, cố nuốt những bát cám đặc khè cho đỡ đói. Thằng cu nhất định khơng chịu
ăn, ngồi khóc ti tỉ địi cơm. Chị đĩ Chuột đành dỗ nó:
- Thơi nín ngay, bu ăn xong bu xin thầy cho một miếng mà ăn.
Chị bế con rón rén bước vào chỗ chõng nằm. Thằng bé vẫn sụt sịt. Anh đĩ Chuột giở mình, hơi nghiêng
mặt quay ra. Một làn ánh sáng mờ lướt qua làm cho cái mặt hốc hác và màu da đã xanh lại càng xanh
thêm. Mái tóc dài q xồ xuống tai và cổ, hai con mắt ngơ ngác và lờ đờ, những chiếc răng dài và thưa
ở cái mồm hé ra để cho dễ thở khiến anh có cái vẻ dễ sợ của con ma đói. Thấy vợ con, anh cố gượng
nhếch miệng cố gượng một cái cười méo xệch và vừa thở phều phào vừa hỏi bằng một thứ tiếng yếu ớt
như từ thế giới bên kia đưa lại:
- Nó làm sao thế?
Chị đĩ Chuột xốc con lên một cái:
- Nó vịi đấy chứ có làm sao? Cơm gạo đỏ khơng chịu ăn, địi ăn cơm trắng của thầy cơ.
- Thì lấy cho nó ăn, tơi ăn làm sao hết?
Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm chực moi cho con một ít. Nhưng anh bảo:
- Mang cả ra cho nó ăn, tơi khơng ăn nữa đâu. Cịn bao nhiêu vét cho cái Gái với bu em ăn hết đi, để nó
thiu ra đấy.
Chị đĩ Chuột cười, bảo chồng:
- Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tơi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa?
15
Anh biết vợ nói dối, chực nói, nhưng lại thơi, buồn rầu buông một tiếng thở dài. Vợ lo ngại hỏi:
- Bây giờ người thế nào, để tôi kể với ông thầy lang lấy thuốc.
- Tiền đâu mà thuốc thang mãi?
- Tơi vừa bán con chó mực với hai buồng chuối non được bốn hào.
Chồng nhìn vợ, ngẫm nghĩ một chút rồi bảo:
- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả
bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm”.
(Nghèo – Tuyển tập Nam Cao, NXB Hội nhà văn, 1993)
Lựa chọn đáp án đúng nhất:
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại nào?
A. Sử thi B. Truyện thần thoại
C. Truyện cổ tích
D. Truyện ngắn
Câu 2. Phương thức biểu đạt chính của văn bản trên là?
A. Tự sự
B. Biểu cảm
C. Miêu tả
D. Thuyết minh
Câu 3. Nhân vật chính trong bản trên là?
A. Thằng bé con
B. Chị đĩ Chuột
C. Cái Gái D. Anh đĩ Chuột
Câu 4. Xác định ngôi kể trong văn bản trên
A. Ngôi thứ nhất
B. Ngôi thứ hai C. Ngôi thứ ba
D. Cả A và B
Câu 5. Nội dung của văn bản trên là?
A. Phản ánh nỗi khổ của gia đình chị đĩ Chuột.
B. Phản ánh sự nghèo khổ của gia đình chị đĩ Chuột và tình thương con của người mẹ nghèo.
C. Phản ánh hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám
D. Hiện thực cuộc sống của người nông dân nghèo trước Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhân đạo
của nhà văn Nam Cao.
Câu 6. Trong văn bản, nhân vật cái Gái hiện lên là người như thế nào?
A. Là đứa bé chăm chỉ, hiểu chuyện.
B. Là đứa bé thương mẹ.
C. Là đứa bé siêng năng.
D. Là đứa bé thơng minh.
Câu 7. Câu nói của anh đĩ Chuột “- Đừng lấy thuốc nữa, tôi sắp khoẻ rồi, chỉ ăn cho nó khoẻ lên chắc
bệnh phải hết. Bu em đong cho tôi cả bốn hào gạo đỏ, đừng đong gạo trắng ăn nhạt lắm.” có ẩn ý
A. Muốn làm yên lòng vợ con
B. Nỗi khổ tâm của một người chồng khi khơng làm được gì cho vợ con.
C. Đưa câu chuyện bước sang một hướng khác.
D. Tất cả đáp án trên.
Trả lời câu hỏi tự luận:
Câu 8. Chi tiết nào trong văn bản khiến em cảm động nhất? Vì sao?
Câu 9. Nếu em là cái Gái, trong hồn cảnh gia đình như vậy, em sẽ làm gì?
Câu 10. Em hãy nhận xét hình ảnh người nơng dân Việt Nam trước CM tháng 8.
THỰC HÀNH TIẾNG VIỆT:
ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA NGƠN NGỮ NĨI VÀ NGƠN NGỮ VIẾT
Bài tập 1. Trắc nghiệm
Câu 1. Ngơn ngữ nói được hiểu như thế nào?
A. Ngôn ngữ đa dạng về ngữ điệu.
16
B. Ngơn ngữ nói sử dụng nhiều lớp từ, kiểu câu đa dạng.
C. Ngơn ngữ nói là ngơn ngữ tinh luyện và trau chuốt.
D. Ngơn ngữ nói là ngơn ngữ âm thanh.
Câu 2. Ngơn ngữ nói rất đa dạng về ngữ điệu: giọng nói có thể cao hay thấp, nhanh hay chậm, mạnh hay
yếu, liên tục hay ngắt quãng. Ý kiến trên đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Câu 3. Ngôn ngữ nói khơng được sử dụng tiếng lóng, giản lược, đúng hay sai?
A. Sai
B. Đúng
Câu 4. Đặc điểm của ngôn ngữ viết là gì?
A. Được thể hiện qua hình vẽ, màu sắc, bố cục.
B. Được thể hiện qua lời nói, truyền miệng từ người này sang người kia.
C. Được thể hiện qua chữ viết trong văn bản, hình thành một cách có chọn lọc kĩ càng, có suy nghĩ và căn
chỉnh một cách cẩn thận.
D. Được thể hiện qua sơ đồ, bảng, biểu
Câu 5. Từ ngữ trong ngơn ngữ viết có đặc điểm gì?
A. Từ ngữ được thoải mái viết theo ý thích của người biên soạn.
B. Từ ngữ được quy định theo từng địa phương, không thống nhất.
C. Từ ngữ mang đậm tính trữ tình
D. Từ ngữ được lựa chọn, thay thế nên có điều kiện đạt được tính chính xác, tránh các từ ngữ địa phương,
tiếng lóng, tiếng tục.
Bài tập 2. Lập bảng đối sánh đặc điểm của ngôn ngữ nói và ngơn ngữ viết (So sánh dựa vào các tiêu
chí sau):
- Tình huống giao tiếp.
- Phương tiện ngơn ngữ
- Phương tiện hỗ trợ
- Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ: Từ ngữ, câu, văn bản
II. THỰC HÀNH PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƠN NGỮ NĨI VÀ NGƠN NGỮ VIẾT
Bài tập 3. Phân tích đặc điểm của ngơn ngữ viết thể hiện trong đoạn trích sau:
“Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ các cụ già tóc bạc đến các
cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân
dân miền ngược đến miền xi, ai cũng một lịng nồng nàn yêu nước, ghét giặc. Từ những chiến sĩ ngồi
mặt trận chịu đói mấy ngày để bám sát lấy giặc đặng tiêu diệt giặc đến những công chức ở hậu phương
nhịn ăn để ủng hộ bộ đội, từ những phụ nữ khun chồng con đi tịng qn mà mình thì xung phong giúp
việc tải đạn cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình. Từ những nam nữ
cơng nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất, không quản khó nhọc để giúp một phần vào kháng chiến
cho đến những đồng bào điền chủ quyên đất ruộng cho Chính phủ...Những cử chỉ cao quý đó tuy khác
nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”
(Hồ Chí Minh, Trích Tinh thần yêu nước của nhân dân ta)
Bài tập 4. Phân tích đặc điểm của ngơn ngữ viết trong đoạn trích sau đây:
17
“Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đồn thể
đã. Mà muốn có đồn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.”
(Phan Châu Trinh, Trích Về luân lí xã hội ở nước ta)
Bài tập 5. Phân tích những đặc điểm của ngơn ngữ nói được ghi lại trong đoạn trích sau:
“Chủ tâm hắn cũng chẳng có ý chịng ghẹo cơ nào, nhưng mấy cơ gái lại cứ đẩy vai cô ả này ra với hắn,
cười như nắc nẻ:
- Kìa anh ấy gọi! Có muốn ăn cơm trắng mấy giị thì ra đẩy xe bị với anh ấy!
Thị cong cớn:
- Có khối cơm trắng mấy giị đấy! Này, nhà tơi ơi, nói thật hay nói khốc đấy?
Tràng ngối cổ lại vuốt mồ hôi trên trán cười:
- Thật đấy, có đẩy thì ra mau lên!
Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng.
- Đã thật thì đẩy chứ sợ gì, đằng ấy nhỉ. – Thị liếc mắt, cười tít.”(Kim Lân,Trích Vợ nhặt)
Bài tập 6. Tưởng tượng ghi lại câu chuyện giữa hai người bạn trên đường đi học về
THỰC HÀNH VIẾT:
VIẾT VĂN BẢN NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TÁC PHẨM TRUYỆN
(Những đặc điểm trong cách kể của tác giả)
Đề bài 01: Đọc đoạn văn bản:
[…]
Suốt đời Nhĩ đã từng đi tới khơng sót một xó xỉnh nào trên trái đất, đây là một chân trời gần gũi, mà lại
xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến - cái bờ bên kia sông Hồng ngay trước cửa sổ nhà mình.
[…]
Chờ Liên (vợ Nhĩ) xuống tầng dưới rồi Nhĩ mới lên tiếng:
- Tuấn, Tuấn à! Anh con trai đánh trần ngồi tựa vào bức tường đầu cầu thang, tay nhặt rau muống, mắt
cúi xuống một cuốn sách truyện dịch.
Nghe bố gọi, Tuấn chạy vào trong tay vẫn cầm quyển sách dày cộm gập đôi:
- Bố mỏi rồi. Con đỡ bố nằm xuống nhé!
- Chưa… - đến lúc này Nhĩ mới ngắm kĩ đứa con trai. Nó là đứa thứ hai, gần một năm nay vắng nhà, đi
học tận trong một thành phố phía nam và vừa mới trở về đêm qua. Anh thấy càng lớn thằng con anh càng
có nhiều nét giống anh.
Người cha sắp từ giã cõi đời đang giấu một tâm sự bí mật gì đó trong cái vẻ lúng túng. Anh ngước nhìn ra
ngồi cửa sổ một lần nữa rồi quay vào bất chợt hỏi:
- Đã bao giờ Tuấn… sang bên kia chưa hả?
- Sang đâu hả bố?
- Bên kia sông ấy!
Anh con trai đáp bằng vẻ hờ hững:
- Chưa…
Nhĩ tập trung hết sức còn lại để nói ra cái điều ham muốn cuối cùng của đời mình:
- Bây giờ con sang bên kia sơng hộ bố…
- Để làm gì ạ?
18
- Chẳng để làm gì cả. - Nhĩ có vẻ ngượng nghịu vì cái điều anh sắp nói ra q ư kì quặc - Con hãy qua đị
đặt chân lên bờ bên kia, đi chơi loanh quanh rồi ngồi xuống nghỉ chân ở đâu đó một lát, rồi về…
Anh con trai cười:
- Bố đang sai con làm cái việc gì lạ thế?
- Hay là thế này nhé. - Nhĩ vẫn không hề thay đổi ý kiến - Con cầm đi mấy đồng bạc xem bên ấy có hàng
quán người ta bán bánh trái gì, con mua cho bố.
Anh con trai miễn cưỡng mặc quần áo, đội chiếc mũ nan rộng vành đề phịng đến trưa có thể nắng to theo lời yêu cầu khẩn khoản của Nhĩ - giắt vào người mấy đồng bạc.
[…]
Ngay lúc ấy, cái vật mà Nhĩ nhìn thấy trước tiên khi được ngồi sát ngay sau khn cửa sổ là một cánh
buồm vừa bắt gió căng phồng lên. Con đò ngang mỗi ngày chỉ qua lại một chuyến giữa hai bờ ở khúc
sông Hồng này vừa mới bắt đầu chống sào ra khỏi chân bãi bồi bên kia, cánh buồm nâu bạc trắng vẫn
còn che lấp gần hết cái miền đất mơ ước.
[…] Nhĩ nhìn mãi đám khách nhưng vẫn khơng tìm thấy cái mũ cói rộng vành và chiếc sơ mi màu trứng
sáo đâu cả.
Thì ra thằng con trai của anh chỉ mới đi được đến hàng cây bằng lăng bên kia đường. Thằng bé vẫn cắp
cuốn sách bên nách đang sà vào một đám người chơi phá cờ thế trên hè phố. Suốt đời Nhĩ cũng đã từng
chơi phá cờ thế trên nhiều hè phố, thật là không dứt ra được. Không khéo rồi thằng con trai anh lại trễ
mất chuyến đò trong ngày. Nhĩ nghĩ một cách buồn bã, con người ta trên đường đời thật khó tránh được
những cái điều vịng vèo hoặc chùng chình, vả lại, nó đã thấy có gì đáng hấp dẫn ở bên kia sông đâu?
Họa chăng chỉ có anh đã từng trải, đã từng in gót khắp mọi chân trời xa lạ mới nhìn thấy hết sự giàu có
lẫn mọi vẻ đẹp của một cái bãi bồi sông Hồng ngay bờ bên kia, cả trong những nét tiêu sơ, và cái điều
riêng anh khám phá thấy giống như một niềm mê say pha lẫn với nỗi ân hận đau đớn, lời lẽ khơng bao giờ
giải thích hết.
Nhĩ chợt nhớ ngày bố mẹ anh mới cưới Liên từ một làng bên kia sông về làm vợ anh Liên vẫn đang cịn
mặc áo nâu và chít khăn mỏ quạ. So với ngày ấy bây giờ Liên đã trở thành một người đàn bà thị thành.
Tuy vậy, cũng như cánh bãi bồi đang nằm phơi mình bên kia, tâm hồn Liên vẫn giữ nguyên vẹn những nét
tần tảo và chịu đựng hy sinh từ bao đời xưa, và cũng chính nhờ có điều đó mà sau nhiều ngày tháng bơn
tẩu, tìm kiếm… Nhĩ đã tìm thấy được nơi nương tựa là gia đình trong những ngày này.
Con đị đã sang q nửa sơng, ngồi đây Nhĩ đã có thể nhìn thấy rõ từng mảnh vá trên lá buồm cánh dơi in
bật trên một vùng nước đỏ.
[…] Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng cịn sót lại để đu mình nhơ người ra ngồi, giơ
một cánh tay gầy guộc ra phía ngồi cửa sổ khốt khốt y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào
đó.
Ngay lúc bấy giờ, chiếc đị ngang mỗi ngày một chuyến chở khách qua lại hai bên sông Hồng vừa chạm
mũi vào cái bờ đất lở dốc đứng phía bên này.
(Nguyễn Minh Châu, Trích Bến quê, NXB Hội nhà văn 1991)
Qua đoạn trích trên, em hãy viết một văn bản nghị luận bàn về vẻ đẹp nghệ thuật của truyện
Bến quê – Nguyễn Minh Châu.
Đề bài 02
19
: Hãy viết bài nghị luận phân tích, đánh giá nghệ thuật kể chuyện của Nguyễn Công Hoan qua đoạn
truyện ngắn sau:
Đố ai biết anh phu xe lững thững dắt cái xe không ở đằng ngã tư đầu phố kia, đi như thế từ bao giờ đấy?
Trơng anh ấy có vẻ "đói"khách lắm. Có lẽ thế thật. Vì ai lại tám giờ tối ba mươi Tết rồi, còn lang thang phố
nọ sang phố kia thế?
[…]
Khốn nhưng anh ấy vừa mới ốm dậy, ốm một trận tưởng mười mươi chết, thành ra không những mất một
dịp kiếm tiền vào lúc cuối năm, mà bao nhiêu tiền dành dụm trong bấy lâu, sạch sành sanh cả.
Bởi vậy hôm nay, anh ấy cố vay được cái vốn để đi mua xe, kiếm bữa gạo để ăn tết.
[…] Anh ấy đi lững thững như thế, qua Hàng Trống, quặt ra phố Nhà Thờ, xuyên thẳng ra lối nhà thương
Phủ Dỗn, thì bỗng đứng dừng, quay cổ lại nhìn.
- Xe!
- Đây!
[…]
Qua chợ Đồng Xn, vịng về Hàng Cót, lại rẽ sang Cửa Đơng, bà khách bỗng hỏi:
- Anh có bằng lịng kéo tơi giờ nữa khơng?
- Vâng, nhưng bà có cho cháu hai hào thì cháu kéo hầu bà giờ nữa.
- Được.
- À, anh có hào lẻ không, cho tôi vay mấy hào, chốc nữa tơi giả cả đồng cho tiện.
Anh xe móc bao phục, lấy ra hai hào, đưa cho bà khách. Bà khách vào hiệu, mua gói thuốc lá, bao diêm,
cịn tiền mua cả hạt dưa để cắn.
Anh xe nhấp nhổm chạy rảo cẳng vài bước, rồi lại tiến bước như trước. Một lúc, anh mới đánh bạo hỏi
một câu rõ khôn:
- Bà tìm ai, thưa bà?
- Tơi tìm người quen.
- Người quen bà ở phố nào?
- Anh cứ kéo đi.
Anh xe lại cứ kéo như thế, ra Ga, vòng về đường Sinh Từ, quặt về Hàng Bông, Hàng Mành, Hàng Vải
Thâm, vân vân. Mãi mãi, mà người khách vẫn khơng tìm thấy ai quen.
- Thưa bà bây giờ mấy giờ rồi?
- Mười một giờ kém năm.
- Con kéo hết giờ này, xin bà cho tiền để con đi đón khách ở ga về.
- Anh có bằng lịng kéo tơi giờ nữa khơng?
- Thưa bà, con đón khách ở ga hay ở nhà chớp bóng thì một cuốc cũng được hai hào chỉ.
- Anh đã chắc có khách chưa? Hay là mật ít ruồi nhiều, rồi dắt xe về không. Anh lại cố kéo tôi giờ nữa, đi
thủng thỉnh thế này mà được tiền, chả hơn chạy mửa mật ra ư?
Anh xe nghe bùi tai, lại bằng lòng kéo […]. Lúc ấy, bốn bên im lặng như tờ, chỉ thấy tiếng lách tách bà
khách cắn hạt dưa thơi, thì bỗng một tràng pháo nổ, đì đẹt pháo giao thừa.
- Mấy giờ rồi, thưa bà?
- Phải gió nhà nào bây giờ đã đốt pháo giao thừa! Mới có mười hai giờ kém mười lăm.
[…] Tới chỗ khi nẫy, anh dừng xe lại, nói:
- Bây giờ có lẽ mười hai giờ, xin bà cho cháu tiền.
20