Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (LH tại Việt Nam):
-
Sự phát triển lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay được thông qua q trình
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong sự nghiệp đổi mới.
-
Quan hệ sản xuất của nước ta: sự phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, với các hình thức sỡ hữu phù hợp (sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể và sở hữu tư nhân), các chế độ phân phối và các thành phần kinh tế
được tổ chức tương ứng với các hình thức sở hữu nêu trên.
Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (LH tại Việt Nam):
-
Cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay: sự tồn tại của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu cùng tồn tại (sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu của yếu tố nước ngồi), trong đó
sở hữu nhà nước là yếu tố giữ vai trị cơ bản, định hướng các hình thức sở hữu
khác.
-
Kiến trúc thượng tầng của nước ta: Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam
cho mọi hành động, đặt dưới sự lãnh dạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt
Nam và vai trò quản lý xã hội của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện.
Quy luật về sự phù hợp của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (sự vận
dụng của Đảng):
-
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo kinh tế thị
trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
-
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-
Thể hiện trong đường lối đối ngoại, trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN.
Từ quy luật mâu thuẫn, quan điểm của em đối với công tác đấu tranh và bảo
vệ chủ quyền biển đảo của Đảng và Nhà nước ta hiện nay:
-
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đối với công tác đấu tranh và bảo
vệ chủ quyền biển đảo: Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ
quyền biển đảo thiêng liêng của mình bằng biện pháp hịa bình với các giải
pháp gồm: sử dụng các lực lượng thực thi pháp luật trên thực địa để bảo vệ và
khẳng định chủ quyền biển đảo; đấu tranh bằng con đường chính trị, ngoại giao,
đấu tranh bằng dư luận, kêu gọi cộng đồng quốc tế lên án mạnh mẽ hành vi vi
phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc; Việt Nam cân nhắc việc sử dụng
các biện pháp pháp lý theo luật pháp quốc tế nhằm bảo vệ chủ quyền thiêng
liêng và lợi ích chính đáng của mình.
-
Quan điểm cá nhân:
+ Trung Quốc là đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam.
+ Biển Đông là khu vực quan trọng trong vận tải, thương mại của quốc tế.
+ Việt Nam chủ trương con đường hịa bình, muốn ổn định chính trị để phát
triển kinh tế.
+ Xu hướng giải quyết tranh chấp hiện nay trên thế giới là đối thoại, hòa giải
trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Vai trò của sinh viên trong việc tiếp thu và truyền bá các tri thức khoa học
vào trong đời sống (từ việc phân tích vai trị của chân lý đối với thực tiễn):
Khơng ngừng nâng cao ý thức tự giác trong học tập, chủ động và sáng tạo trong việc
tiếp cận tri thức mới, biết ứng dụng những tri thức mới vào ngành nghề mình học tập,
ứng dụng vào trong đời sống hiện thực v.v„.
Vận dụng quy luật lượng – chất vào quá trình học tập và rèn luyện của sinh
viên:
Việc nhận thức đúng đắn quy luật lượng – chất trong quá trình học tập, rèn
luyện của sinh viên có ý nghĩa vô cùng to lớn.
Trong những năm học tập của sinh viên, lượng khơng ngừng được tăng lên, đó
chính là kiến thức. Cũng như học sinh phổ thông, sinh viên Đại học muốn có được
tấm bằng Đại học phải tích lũy đủ số tín chỉ học phần. Tuy nhiên việc tích lũy kiến
thức ở Đại học có nhiều khác biệt, đó là sinh viên không thể thụ động tiếp thu kiến
thức mà cịn phải tự tìm tịi, nghiên cứu từ những kiến thức mới qua những chỉ dẫn
của giảng viên. Nó không chỉ bao gồm những kiến thức cơ bản trong giáo trình mà
kiến thức cịn đến từ việc trải nghiệm các tình huống ngồi xã hội. Kiến thức cịn
vơ cùng phong phú từ đa dạng đến chuyên sâu, từ cơ bản đến nâng cao, từ ít đến
nhiều. Do vậy, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng
được thay đổi, tầm tri thức của sinh viên được nâng cao và cải thiện hơn qua từng
giai đoạn. Tuy nhiên q trình đó chưa đủ để làm thay đổi về chất. Chất của sinh
viên chỉ có thể được thay đổi khi lượng kiến thức của sinh viên đó đủ để vượt qua
các điểm nút tức là những kì thi, các kì kiểm tra. Trong đó điểm nút quan trọng
nhất là sau khi viết luận văn, luận án, đến ngày nhận bằng tốt nghiệp. Đó chính là
điểm nút lớn nhất đánh dấu “bước nhảy” từ một sinh viên trở thành một cử nhân.
Điều đó chứng minh rằng lượng (kiến thức) được tích lũy qua 4 năm học đã đủ để
làm chất của sinh viên thay đổi. Ngoài ra, là một sinh viên thì chúng ta phải tự
trang bị cho mình tính tích cực, tự chủ, nghiêm túc, trung thực. Trong một kì thi,
nếu gian lận để một kết quả tốt thì dù ta có thể qua được kì thi, nhưng về bản chất
thì vẫn chưa có được biến đổi nào về chất, khi học những kiến thức sâu hơn, khó
hơn chắc chắn ta sẽ không tiếp thu được. Và vì thế dù có trải qua 4 năm đào tạo hệ
đại học với tấm bằng loại Giỏi hay Xuất sắc thì ta vẫn khơng đáp ứng được u cầu
cơng việc sau này.
Bên cạnh đó, sau khi thay đổi chất mới cũng tác động ngược lại đến lượng. Đó là
khi trở thành cử nhân, việc tiếp thu kiến thức chuyên ngành hay kĩ năng xử lý các
tình huống và khả năng giao tiếp, ứng xử cũng trở nên tốt hơn khi còn là sinh viên.
Điều này thúc đẩy cử nhân tiếp tục tiếp thu những tri thức mới ở cấp độ cao hơn để
hồn thiện bản thân.
Từ tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, chứng minh đường lối đổi mới
đúng đắn là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội :
Việc đề ra đường lối đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, nhờ đó tác động trở
lại tồn tại xã hội theo hướng tích cực là thành tựu quan trọng nhất thể hiện việc vận
dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Từ ngày có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là chủ tịch Hồ
Chí Minh kính mến, dân tộc ta đã giành được những thắng lợi vô cùng vĩ đại, một
trong số đó là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thống nhất đất nước, cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó chính là kết quả của cơng cuộc đổi mới mang
tính cách mạng đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội và bước vào
một thời kỳ mới. Thắng lợi vĩ đại ấy chính là thắng lợi của sự kế thừa và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta, của sự
kết hợp và vận dụng sáng tạo sự tác động lẫn nhau của các hình thái ý thức xã hội,
mà trong đó cốt lõi nhất là thế giới quan. Công cuộc đổi mới do Đảng ta đề xướng
và lãnh đạo đã và đang đạt được những thành tựu quan trọng, càng khẳng định một
sự thật rằng: chỉ có nhận thức và vận đụng dúng đắn tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội mới góp phần đánh giá đúng đắn quá khứ, hiện tại, tương lai cũng như
những nguồn lực mạnh mẽ về vật chất và tinh thần của đất nước, nhờ đó mà tổ
chức, lãnh đạo cả dân tộc đi đến thắng lợi.
Bên cạnh những thành tựu vĩ đại, cũng có những giai đoạn mà cách mạng nước
ta gặp phải khó khăn, gian khổ khiến đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế- xã
hội. Một trong những nguyên nhân của những khó khăn ấy là sai lầm, khuyết điểm
của sự bảo thủ, trì trệ và chủ quan. Nếu xem xét sâu xa hơn dưới góc độ triết học
thì đó là những sai lầm của xu hướng không nhận thức và vận dụng đúng đắn tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chính sai lầm của xu hướng này đã gây nên
những hậu quả rất nặng nề đối với sự phát triển của đất nước.
Như vậy, cả thắng lợi và khó khăn, cả những sai lầm khuyết điểm trong cách
mạng nước ta đều liên quan ở các mức độ khác nhau tới việc nhận thức và vận
dụng tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Bởi thế, viêc vận dụng đúng đắn
tính độc lập tương đối của ý thức xã hội vào quá trình đổi mới tư duy là một địi
hỏi cấp bách, có như vậy ý thức xã hội mới có thể phát triển và tác động trở lại tồn
tại xã hội theo chiều hướng tiến bộ xã hội.
Vấn đề cơ bản của triết học
Trước năm 2017, người nông dân cày cấy luôn phải sử dụng sức người, công cụ
thô sơ nhưng trong thời kỳ công nghệ thế giới đang phát triển mạnh mẽ, máy móc
được tạo ra để giảm bớt sức người và thay thế cho cơng cụ thơ sơ, vì vậy đã có 1
bác nơng dân sáng chế ra chiếc máy cày để giảm bớt sức người để có thể theo kịp
xu hướng phát triển của xã hội.
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh tế, tức là các kiểu
tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất với các hình thức sở hữu khác nhau,
thậm chí đối lập nhau, cũng tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất. Đó
là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Có
nghĩa là có sự thống nhất ở mức độ nhất định về mặt lợi ích, nhưng nó cũng tồn tại
những mâu thuẫn nhất định.
Tương ứng với những mâu thuẫn là sự không đồng nhất về bản chất kinh tế do
sự tác động của nhiều hệ thống quy luật kinh tế. Đó là hệ thống các quy luật kinh tế
xã hội chủ nghĩa phát sinh trên cơ sở sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, hệ
thống các quy luật kinh tế sản xuất hàng hóa nhỏ và các quy luật kinh tề tư bản chủ
nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế sản xuất hàng hóa nhiều thành
phần thì sự quản lý của nhà nước khơng chỉ bó hẹp trong trong kinh tế quốc doanh
mà phải bao quát tất cả các thành phần kinh tế khác, nhằm từng bước xã hội hóa xã
hội chủ nghĩa với tất cả các thành phần kinh tế khác phục vụ cho q trình cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong đó kinh tế quốc doanh bao
giờ cũng giữ vai trị chủ đạo, quyết định đối với q trình xây dựng và phát triển cơ
sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa, kinh tế tập thể phải thu hút phần lớn những người sản
xuất nhỏ, kinh tế tư nhân và gia đình có khả năng phát huy được mọi tiềm năng
kinh tế góp phần vào q trình phát triển kinh tế.
Xây dựng kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng ta khẳng định
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng
Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng về sự giải
phóng con người khỏi chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội công bằng văn minh,
v.v… Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin với
chủ nghĩa yêu nước của nhân dân ta trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Xây
dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công nhân, đội
tiền phong của nó là sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, bảo đảm cho nhân dân ta là
người chủ thật sự của xã hội. Toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về xã hội thuộc về
nhân dân, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi khả năng sáng tạo,
tính tích cực chủ động của mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trong cuộc phát triển
kinh tế và văn hóa phục vụ ngày càng cao của đời sống nhân dân. Các tổ chức, thiết
chế xã hội, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
đều hướng về mục tiêu chung làm cho dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh và vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
-
Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay bao gồm các kiểu quan
hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở hữu khác nhau. Các hình thức sở hữu đó
tương ứng với các thành phần kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nhưng
cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế thống nhất theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ở Việt Nam hiện nay, các hình thức sở hữu cơ bản gồm sở hữu nhà nước (hay
sở hữu tồn dân, trong đó nhà nước là đại diện của nhân dân), sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân. Các thành phần kinh gồm kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể, hợp tác
xã; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư của nước ngồi.
Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường, đồng thời bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế,
có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế, các thành phần
kinh tế khác được khuyến khích phát triển hết mọi tiềm năng.
-
Kiến trúc thượng tầng:
Trong xây dựng kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt
Nam khẳng định:
+ Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng. Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang tính chất giai cấp
cơng nhân, do đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, bảo đảm để nhân dân là người làm chủ xã hội.
+ Các tổ chức, bộ máy thuộc hệ thống chính trị như Đảng Cộng sản, Quốc hội,
Chính phủ, qn đội, cơng an, tịa án, ngân hàng… khơng tồn tại vì lợi ích
của riêng nó mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện cho được phương châm
mọi lợi ích, quyền lực đều thuộc về nhân dân.
Mỗi bước phát triển của cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng là một bước
giải quyết mâu thuẫn giữa chúng. Việc phát triển và củng cố cơ sở hạ tầng, điều
chỉnh và củng cố các bộ phận của kiến trúc thượng tầng là một quá trình lâu dài,
gian khổ, diễn ra trong suốt thời kỳ quá độ.