TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
MÔN ĐƢỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài: Kinh tế tri thức gắn với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam
Họ và tên : Bùi Lan Phƣơng
Lớp : A30 CLC Kinh tế
Khóa : 50
Giảng viên hƣớng dẫn : Thạc Sĩ Nguyễn Thu Hải
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 2
Mục lục
I. Lời mở đầu 3
II. Khái quát về nền kinh tế tri thức 4
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức: 4
2. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức: 5
3. Những điểm mới về tổ chức và cơ cấu vận hành của nền kinh tế tri thức:
8
III. Mối quan hệ giữa kinh tế tri thức và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của Việt Nam: 10
1. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa: 10
2. Thực trạng nền kinh tế tri thức Việt Nam: điểm sáng và hạn chế 10
3. Phát triển kinh tế tri thức phải gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa: . 12
4. Giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đi đôi với kinh tế tri thức: 13
IV. Kết luận 15
Tài liệu tham khảo 16
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 3
I. Lời mở đầu
Từ những năm giữa thế kỉ XVIII, nền kinh tế thế giới đặc biệt là ở các nước
tư bản, đế quốc đã chứng kiến nhiều cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật vĩ đại,
đem đến những bước đột phá mới mẻ trong lĩnh vực sản xuất. Có thể nói, khoa
học công nghệ đã trở thành một phần không thể thiếu làm nên thành công của
các nền kinh tế lớn và ngay từ thuở đầu yếu tố này đã được xem trọng và được
tích cực đầu tư phát triển.
Trong bối cảnh ấy của nền kinh tế thế giới, Việt Nam được biết đến là một
đất nước đi lên từ nền nông nghiệp lúa nước chậm tiến và lạc hậu với công cụ
lao động và kĩ thuật còn kém tiên tiến. Thêm vào đó, trải qua bao năm chiến
tranh, Việt Nam cho tới những năm 1980 vẫn còn đang mò mẫm trong bóng tối
của công nghệ thụt lùi và là một trong những nước kém phát triển trên thế giới.
Bước vào thời kì mới khi đất nước được thống nhất, thoát khỏi ách nô lệ thì
nhiệm vụ trước mắt chính là đưa đất nước đi lên, thoát khỏi nghèo nàn và khắc
phục hậu quả của chiến tranh. Một trong những biện pháp được coi là hang đầu
là tập trung vào chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, chú trọng vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, thu hẹp khoảng cách đối với các nền kinh tế
lớn khác trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức được điều này, trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội năm 2000-2001, Đảng ta đã xác định rõ: “Công
nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa ngay từ đầu và trong suốt giai đoạn phát
triển. Nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế xã hội,
từng bước phát triển kinh tế tri thức”
Như vậy, phát triển kinh tế tri thức dựa trên nguồn nhân lực trình độ cao và
công nghệ máy móc kĩ thuật hiện đại chính là chìa khóa thành công cho các nền
kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng trong thời đại ngày nay. Do
đó , em xin chọn đề tài: “ Kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam” làm tiêu đề cho tiểu luận này.
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 4
II. Khái quát về nền kinh tế tri thức
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức:
Ở các nước Bắc Mĩ và Tây Âu, kinh tế tri thức xuất hiện trong mỗi lĩnh vực
của nền kinh tế quốc dân. Hiện này riêng về kinh tế chủ yếu dựa vào công nghệ
thông tin chiếm khoảng 40 -50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức
chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động.
nhiều người ước tính khoảng năm 2030 các nước phát triển đều trở thành nước
có nền kinh tế tri thức.
Trong báo cáo kinh tế lấy tri thức làm nền tảng của tổ chức nghiên cứu
của Liên hợp quốc chỉ ra rằng: “Kinh tế tri thức là kinh tế được xây dựng trên cơ
sở sản xuất, phân phối, sử dụng tri thức và thông tin”. Bên cạnh khái niệm cơ
bản ấy, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD lại dịch nghĩa: “Kinh tế tri
thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và
sử dụng tri thức và thông tin”.
Mỗi định nghĩa có sự diễn giải đôi chút khác nhau nhưng chủ yếu kinh tế
tri thức được định nghĩa là nền kinh tế trong đó có sự sản sinh, phổ cập và sản
sinh và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế,
tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong kinh tế tri thức, đa số các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào
những thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ để sản xuất ra các sản
phẩm hang hóa khác nhau cũng như cung câp các dịch vụ thiết yếu cho đời sống
con người. Một ví dụ đơn giản có thể nhận thấy chính là ví dụ về sự cải tiến
trong việc sản xuất nông nghiệp. Tại Việt Nam, việc tưới nước hay bón phân
cho cây trồng vẫn cần có bàn tay của con người. Người nông dân được biết đến
với hình ảnh lam lũ, vụ mùa tới là phải ra ngoài đồng cày cấy hay tưới tiêu.
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 5
Trong khi đó, cũng là sản xuất lương thực nhưng ở Mĩ ta rất ít khi bắt gặp người
nông dân Mĩ phải đích thân ra bón phân cho cây. Những cánh đồng được trải dài
hang chục héc-ta và công cụ được sử dụng ở đây là những chiếc máy bay đem
nước tưới hay bón phân đều đặn cho cây.
Theo thống kê, khác với nền kinh tế nông nghiệp hay nền kinh tế nông
nghiệp, tỉ lệ đóng góp của khoa học công nghệ vào sự tăng trưởng kinh tế trong
nền kinh tế tri thức chiếm lên tới trên 80% . Trong khi đó, tỉ lệ ấy ở hai nền kinh
tế còn lại chỉ khoảng từ 10 đến 30%. Thêm nữa, trong khi nền kinh tế nông
nghiệp sử dụng súc vật, cơ giới hóa đơn giản để tiến hành sản xuât, nền kinh tế
công nghiệp thiên về cơ giới hóa, hóa học hóa, điện khí hóa, chuyên môn hóa thì
nền kinh tế tri thức lại chủ yếu dựa vào công nghệ cao, điện tử hóa, tin học
hóa…với tư cách là công nghệ chủ yếu thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy, tuy vẫn gắn bó chặt chẽ với các ngành kinh tế nông nghiệp và
công nghiệp nhưng nền kinh tế tri thức là nơi tập trung tri thức với hàm lượng
cao trong đó, tỷ trọng ngành sản xuất vật chất giảm dần và tỷ trọng ngành sản
xuất phi vật chất ngày càng tăng và chiếm ưu thế. Và do đó, nền kinh tế tri thức
chính là một động cơ phản lực mạnh nhất đưa nền kinh tế của một đất nước
thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.
2. Đặc trƣng của nền kinh tế tri thức:
Trong những thập kỉ gần đây, nền kinh tế toàn thế giới đã có những chuyển
biến đáng kinh ngạc xuất phát từ nền kinh tế tri thức. Đó là sự khôi phục thần kì
của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ hai hay là sự trỗi dậy của
các nền kinh tế nông nghiệp mới Đông Á như Hàn Quốc, Hong Kong, Đài Loan,
Singapore. Từ những hiện tượng từ thực tế, có thể rút ra được một số đặc trưng
của kinh tế tri thức :
a) Thứ nhất, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó khoa học là lực
lượng sản xuất trực tiếp.Hàm lượng tri thức, hay còn gọi là chất xám,
trong quá trình sản xuất phải chiếm phần quyết định.
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 6
Trước đây, khoa học cũng tham gia vào sản xuất nhưng chỉ đóng góp một
phần nhỏ, không nhiều. Tri thức chỉ góp phần tạo ra những công cụ lao động
tinh vi, sắc xảo hơn từ công cụ thô sơ bằng tay như gạch, đá, gỗ tới những công
cụ cơ khí điện tử như máy tuốt lúa, máy hàn xì, máy khâu… Còn ngày nay, khoa
học đã tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất thông qua cách áp dụng công
nghệ cao vào ngay từng bước để tạo ra được một sản phẩm, tạo ra phương pháp
tổ chức quản lý khoa học ngày một hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả lao động, đổi mới sản phẩm.
Nói đến sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, một ví dụ điển hình có thể
kể tới là sự xuất hiện của các người máy công nghiệp được sử dụng để thay thế
con người làm những công việc nguy hiểm, đảm bảo an toàn lao động. Đất nước
nổi tiếng với sản phẩm công nghệ này chính là Nhật Bản- năm 1995, Nhật Bản
có tới 441.000 người máy công nghiệp. Mĩ cũng có khoảng 62.000 còn ở các
nước Tây Âu thì có khoảng 125.000 người máy. Đây thực sự là những trợ thủ
đắc lực cả về công sức lẫn thời gian cho con người trong quá trình sản xuất.
Trong KTTT, Tri thức vừa được sử dụng để quản lý, điều khiển, tham gia
vào qúa trình sản xuất như công cụ sản xuất, vừa trực tiếp là thành tố trong sản
phẩm như nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hóa trong KTTT,
Tri thức- khác với hàng hóa trong kinh tế hàng hóa- cũng là tư liệu sản xuất.
b) Thứ hai, nếu trong các nền kinh tế trước, vốn và lao động là quan trọng
nhất thì trong kinh tế tri thức, yếu tố tinh thần là tri thức và tài nguyên
thông tin lại được coi là nhân tố hang đầu.
Trước hết, đó là sự chuyển biến từ một nền sản xuất dựa vào vốn, tài
nguyên, lao động là chính, sang nền sản xuất dựa vào trí tuệ con người là chính.
Trước kia, người ta cho rằng chỉ có lao động và vốn là các yếu tố của sản xuất,
còn tri thức, công nghệ, giáo dục là các yếu tố bên ngoài của sản xuất, chỉ có
ảnh hưởng tới sản xuất. Nay nhiều nhà kinh tế thừa nhận tri thức là yếu tố bên
trong của hệ thống kinh tế, coi tri thức là một trong ba yếu tố không thể thiếu
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 7
được của sản xuất(vốn, lao động và tri thức). Vì vậy mà về đầu tư, trước kia đầu
tư vào vốn là quan trọng hơn cả thì nay đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then
chốt cho sự tăng trưởng kinh tế. Trong các nước công nghiệp phát triển đầu tư
vô hình như giáo dục, đào tạo, vào khoa học công nghệ, văn hoá, việc tạo ra
nguồn lực con người đã tăng nhanh hơn đầu tư hữu hình.
Thêm nữa, nền kinh tế tri thức có thay đổi trên mọi lĩnh vực, trước hết là
lĩnh vực khoa học công nghệ. Từ những năm 1980 đến nay, hang năm có
khoảng 300.000 phát minh mới, trung bình mỗi ngày có tới 800-900 phát minh.
Khoảng cách giữa nghiên cứu phát minh với sáng chế công nghệ, tạo ra sản
phẩm mới ngày càng được rút ngắn. Điều này cho phép các nước kém và đang
phát triển như Việt Nam, bằng việc “đi tắt đón đầu” có cơ hội rút ngắn cách biệt
về kinh tế đối với các nước phát triển như Mĩ, Nhật, Đức…Nền kinh tế tri thức
có thể tạo ra cơ hội gần như bình đẳng đối với các quốc gia dân tộc bởi sự cạnh
tranh chủ yếu nằm ở tính sáng tạo và trí thông minh mà bất cứ dân tộc nào cũng
có thể phát huy được.
c) Thứ ba, trong nền kinh tế này, các công nghệ cao, truớc hết là công nghệ
thông tin là nguồn gốc mọi sự biến đổi lớn lao trong sản xuất xã hội, góp
phần đẩy mạnh cả sự đổi mới tư duy và tất yếu dẫn tới nền kinh tế tri thức
toàn cầu hoá.
Sự gia tăng công nghệ cao trong công nghiệp chế tạo khiến sản phẩm và
dịch vụ của nó góp phần đẩy mạnh sự cải tạo và hiện đại hoá các lĩnh vực kinh
tế khác. Hiện nay ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nơi kinh tế tri thức bắt đầu
hình thành thì kinh tế thông tin (bao gồm mọi ngành chủ yếu dựa và công nghệ
thông tin) đã chiếm khoảng 45-50% GDP. Trong các nước OECD, kinh tế tri
thức đã chiếm hơn 50% GDP. Theo đó, cơ cấu kinh tế chuyển đổi dẫn đến sự
thay đổi của cơ cấu xã hội. Việc làm được tạo ra nhiều hơn. Còn về lao động,
trong các doanh nghiệp tri thức, khoa học và sản xuất được nhất thể hoá. Những
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 8
người làm việc trong đó đa số là công nhân tri thức. Họ là những người vừa
nghiên cứu vừa sản xuất.
Quá trình hình thành nền kinh tế tri thức cũng là quá trình toàn cầu hoá nền
kinh tế, bởi vì bản chất của kinh tế thông tin là đã có tính quốc tế, có tính toàn
cầu. Trong nền kinh tế tri thức, thị trường và sản phẩm đều mang tính chất toàn
cầu. Với tính chất là kinh tế số- mọi thông tin đều được mã hóa và đưa lên mạng
Internet, các công ty tận dụng hình thức mạng làm các dịch vụ quảng cáo, giới
thiệu sản phẩm. Cho nên một sản phẩm ra đời ở bất kỳ một nơi nào cũng có thể
nhanh chóng có mặt trên toàn thế giới. Hơn nữa, rất ít sản phẩm chỉ do một nước
làm ra mà phần lớn là do kết quả của sự tập hợp các phần việc được thực hiện từ
nhiều nước trên thế giới. Toàn cầu hóa, do đó, cũng là một trong những hệ quả
của nền kinh tế tri thức.
3. Những điểm mới về tổ chức và cơ cấu vận hành của nền kinh tế tri
thức:
Đó là sự hình thành các khu công nghệ cao. Sự ra đời của các khu công
nghệ cao chính là sự đáp ứng nhu cầu phát triển tri thức và công nghệ thông tin.
Ở Mĩ hiện nay, khu công nghệ cao được biết đến nhiều nhất là “Thung lũng
Silicon”, các công ty công nghệ cao đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển rất
nhanh.
Nền kinh tế tri thức đòi hỏi sự không ngừng học hỏi trau dồi và đổi mới
thường xuyên của con người. Công nghệ cao có đặc điểm là đổi mới rất nhanh
và vòng đời công nghệ rất ngắn. Do đó, con người phải không ngừng sáng tạo
mới có thể bắt kịp với tốc độ ấy. Ví dụ điển hình trong thời đại ngày nay chính
là công nghệ sản xuất ra những chiếc điện thoại di động smartphone. Năm 2007,
chiếc Iphone đầu tiên được ra mắt công chúng và từ đó đến nay, trong vòng năm
năm, cho dù chiếc Iphone kia có hiện đại và mới mẻ với chúng ta tới mức nào,
Apple luôn cho ra một sản phẩm Iphone đời cao hơn trong năm tiếp theo. Điều
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 9
này cũng đủ thấy tốc độ thay đổi chóng mặt của lĩnh vực công nghệ nói chung
trên thế giới.
Trong nền kinh tế tri thức, vừa cạnh tranh vừa hợp tác là phương châm
hoạt động thích hợp để phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế này, do nảy sinh
nhiều công nghệ mới, sự ra đời của công ty mới gắn liền với sự ra đời của một
công nghệ mới, một sáng chế mới. Để tăng thêm sức mạnh các công ty phải
“mua” nhau để thành lập công ty lớn. Gần đây nhiều công ty khổng lồ có hàng
chục, hàng trăm tỷ USD đã “mua” nhau để trở thành các tập đoàn chi phối thế
giới- đơn cử là Google.Trên thực tế, Google đã mua thành công mảng di động
của Motorola cũng như mua lại website chuyên chia sẻ video Youtube và đang
trở thành ông trùm lớn trong giới công nghệ truyền thông. Mặt khác, các công ty
khổng lồ lại chia ra thành các công ty con trên toàn thế giới. Các công ty con
được quyền chủ động nhiều hơn, có thể linh hoạt, thích nghi với sự đổi mới.
Việc hợp nhất thành những công ty khổng lồ rồi lại chia nhỏ thành những công
ty con là hiện tượng đặc thù trong nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội. Sống trong thời đại
thông tin, trước các quyết định của nhà nước, công ty hay tổ chức có liên quan,
người dân luôn được thông tin kịp thời và nhanh chóng. Và ngay lập tức, nếu có
sự không thỏa đáng, họ có thể gửi ý kiến đóng góp để có sự sửa đổi phù hợp,
không cần thông qua bất kì một hình thức trung gian nào và không phân biệt
đẳng cấp. Nhờ các phương tiện thông tin nhanh chóng, nhất là mạng Internet,
giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi tạo điều kiện cho sự tiếp thu các tinh hoa văn
hoá của nhân loại để phát triển nền văn hoá riêng của từng dân tộc. Mặt khác các
nền văn hoá cũng đứng trước những rủi ro rất lớn, nhất là bị pha tạp, bị các sản
phẩm độc hại tấn công, phá hoại làm mất đi bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy đi
vào nền kinh tế tri thức đồng thời phải nâng cao trình độ văn hoá của mình, phải
coi trọng giáo dục, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống, phải “phát triển
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 10
nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc” như nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ IX.
III. Mối quan hệ giữa kinh tế tri thức và sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Việt Nam:
1. Tính tất yếu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội, từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công
nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội
cao.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua
CNH. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng
sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động. Đây
là thời kỳ tạo tiền đề vật chất để không ngừng củng cố và tăng cường vai trò của
kinh tế nhà nước trong điều tiết sản xuất và dẫn dắt thị trường. Đồng thời, CNH-
HĐH là động lực phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện tăng cường củng cố an
ninh-quốc phòng và là tiền đề cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự
chủ, đủ sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công và hợp tác quốc tế.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định: “Đường lối kinh tế
của Đảng ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp” và chỉ rõ “phát
triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn bó chặt chẽ với kinh tế tri
thức”
2. Thực trạng nền kinh tế tri thức Việt Nam: điểm sáng và hạn chế
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 11
Trong hơn hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ
tăng trưởng khá nhanh, cơ cấu kinh tế đã có những bước chuyển biến đáng kể
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và tính cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp, tốc độ đổi mới nói chung và tốc độ đổi mới công nghệ còn
chậm, tăng trưởng kinh tế còn dựa chủ yếu vào tài nguyên và vốn. Nền tảng phát
triển ít dựa vào tiến bộ khoa học-công nghệ và tiềm năng trí tuệ chưa được phát
huy đúng mức.
Tỉ lệ đóng góp của các ngành công nghệ cao như công nghệ thông tin, sinh
học, vật liệu, tự động hóa… vẫn thấp. Hàm lượng chất xám trong các sản
ohaamr do công nghiệp tạo ra vẫn còn thấp, chiếm khoảng 15-20% giá trị, tăng
trưởng chủ yếu dựa vào xuất khẩu, xuất khẩu dựa vào phân công giá rẻ lao động
phần lớn là giản đơn.
Câu hởi đặt ra là trình độ kinh tế tri thức của nước ta đang ở đâu trong tổng
thể nền kinh tế thế giới? Theo như báo cáo về Kinh tế tri thức của Ngân hang thế
giới (World Bank) năm 2010, chỉ số KEI của nước ta năm 2009 là 3.51, đứng
thứ 100 trên tổng số 146 quốc gia, so với con số 3.17 một năm trước đó. Đây
cũng là sự tăng trưởng đáng ghi nhận nhưng vẫn còn ở mức thấp so với quốc tế.
Bảng xếp hạng chỉ số kinh tế tri thức năm 2009
Xếp
hạng
Quốc gia
KEI
Môi trường kinh doanh và thể
chế
Đổi
mới
Đào
tạo
1
Mỹ
9.02
9.04
9.47
8.74
18
Đài Loan
8.45
7.42
9.27
7.97
19
Singapore
8.44
9.68
9.58
5.29
81
Trung
Quốc
4.47
3.9
5.44
4.2
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 12
89
Philippin
4.12
4.37
3.8
4.69
100
Việt Nam
3.51
2.79
2.72
3.66
103
Indonesia
3.29
3.66
3.19
3.59
104
Ấn Độ
3.09
3.5
4.15
2.21
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kinh tế tri thức World Bank năm 2010
3. Phát triển kinh tế tri thức phải gắn với công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
* Nếu chỉ đơn thuần là công nghiệp hóa, hiện đại hóa: tức là chỉ có giai đoạn
chuyển từ nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu sang nền sản xuất công nghiệp theo
hướng hiện đại hóa mà không gắn với kinh tế tri thức. Ta vẫn có thể đạt được
tốc độ tăng trưởng và phát triển cao, tuy nhiên, vì chưa gắn với kinh tế tri thức,
hàm lượng tri thức trong sản phẩm và quy trình sản xuất ra sản phẩm còn ít. Do
đó, chất lượng sản phẩm còn bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Thêm nữa, nhiều
vấn đề sẽ phát sinh nếu như việc tiếp tục bước tới phát triển công nghiệp hóa,
hiện đại hóa mà không gắn với phát triển kinh tế tri thức như vấn đề về môi
trường, phát triển không bền vững cũng như vấn đề sức khỏe con người.
* Ngược lại, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nếu gắn liền chặt chẽ
với kinh tế tri thức thì không những chất lượng sản phẩm mà còn là năng suất
lao động xã hội được cải thiện đáng kể, đẩy nhanh tốc độ biến nước ta trở thành
một nước công nghiệp mà vẫn đạt được sự phát triển bền vững, hạn chế các ảnh
hưởng tới môi trường và sức khỏe, lối sống của con người.
Trong nền kinh tế mà đường lối công nghiệp hóa gắn liền với kinh tế tri
thức có lợi thế là khoa học công nghệ trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
có thể tự thân tạo thành một ngành sản xuất như ngành công nghệ thông tin với
ngành công nghiệp sản xuất máy tính, nghiên cứu và phát triển các phần mềm
phục vụ công việc nghiên cứu cũng như sản xuất các sản phẩm khác đồng thời
còn tham gia vào quá trình quản lí. Trong thời đại ngày nay, rất khó có thể bắt
gặp một công ty hay một xí nghiệp sản xuất mà không sử dụng công nghệ tin
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 13
học để quản lí các số liệu cũng như máy móc của mình. Rõ ràng, kinh tế tri thức
là một trợ thủ đắc lực của nền kinh tế đang theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa mong muốn “đi tắt đón đầu”, rút ngắn nhanh chóng khoảng cách phát
triển đối với các nước lớn khác trên thế giới như Việt Nam.
4. Giải pháp phát triển kinh tế Việt Nam theo hƣớng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đi đôi với kinh tế tri thức:
Sự phát triển của kinh tế tri thức đồng hành và tỉ lệ thuận với chủ trương
chính sách của Đảng và nhà nước. Do đó, mấu chốt hiện nay là đổi mới cơ chế
quản lí kinh tế ở tầm vĩ mô và vi mô cũng như mọi chủ trương chính sách xã hội
nhằm phát triển lực lượng sản xuất cùng mọi nguồn lực sáng tạo. Việt Nam hiện
nay tuy còn nghèo, thu nhập còn tương đối thấp nhưng tầm vóc trí tuệ của nước
ta không hề thua kém các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều giải thưởng
giá trị về y học, toán học quốc tế đã được trao cho các nhà khoa học người Việt.
Đây chính là tiềm năng vô giá cần được quan tâm khai thác và bảo vệ phát triển
để sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất định thành công
Trong xu thế phát triển hiện nay, chúng ta không nên không nên chạy đua
với các nước phát triển đã có kinh nghiệm hàng trăm năm mà chúng ta nên đi từ
những gì mà chúng ta sẵn có, từ đó tập trung đầu tư vào những lĩnh vực kinh tế
mới phù hợp với tầm vóc và trí tuệ của người Việt Nam- đó là các ngành công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới. Đặc biệt, là một
quốc gia có đường bờ biển trải dài, Việt Nam cần nắm rõ thế mạnh của một
quốc gia biển, phát triển các ngành công nghiệp liên quan đến biển, phải đi lên
và làm giàu từ biển.
Có nhiều yếu tố quyết định sự thành công của “chiến lược công nghiệp hóa
dựa vào tri thức” song điều cơ bản nhất là Nhà nước phải hoạch định được chủ
trương chính sách phát triển kinh tế đúng đắn, phát huy được tiềm năng, thế
mạnh của đất nước và xu thế phát triển của thời đại. Đối với nước ta, chìa khóa
dẫn đến thành công là phải thực hiện đồng thời hai quá trình chuyển tiếp, từ kinh
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 14
tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế
tri thức”. Với lợi thế là nước đi sau trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nền kinh tế, chúng ta có quyền lựa chọn các đối tác, chuyển giao các công
nghệ và dịch vụ đi kèm khác để phát triển kinh tế, cải tiến sản xuất. Kinh tế tri
thức thế giới hiện nay đang ở giai đoạn phát triển cao, đó là thuận lợi lớn để
chúng ta lựa chọn các giải pháp tối ưu nhằm rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta.
Rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta thực chất là
một cuộc cách mạng mạnh mẽ và sâu sắc trên nhiều lĩnh vực khác nhau, song
“con người” chính là nhân tố quyết định. Do đó, việc phát triển nguồn nhân lực,
nuôi dưỡng trí tuệ và sức sáng tạo của con người chính là một trong những chính
sách trọng tâm cho bất kì nền kinh tế nào mà sự vận hành của nó gắn với kinh tế
tri thức. Như lời Hồ Chủ Tịch đã từng dạy: “Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Trong nền kinh tế tri thức, các thành viên được đòi hỏi phải luôn luôn trau dồi,
học tập để bắt kịp với tốc độ phát triển và thay đổi của thế giới. Vì vậy trong
những năm đầu thế kỉ XXI chúng ta cần chuyển trọng tâm từ phát triển kinh tế
sang phát triển con người, coi đây là vấn đề quyết định mang tính chiến lược lâu
dài. Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường trình độ hiểu biết về
khoa học công nghệ cho đội ngũ lao động Việt Nam ở mọi lứa tuổi, mọi tầng
lớp, nắm bắt kịp thời, nhanh chóng các công nghệ mới nhất. Chúng ta sẽ tiếp
tục chịu lép vế và thua thiệt trước các nước khác nếu như không có tri thức,
không đủ năng lực nội sinh về khoa học, công nghệ.
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 15
IV. Kết luận
Theo chủ trương của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước được gắn liền với kinh tế tri thức. Tức là,
phát triển kinh tế nền kinh tế công nghiệp chủ yếu dựa vào tri thức. Theo đó, sản
xuất công nghệ là loại hình sản xuất chính đồng thời nó còn tham gia vào quy
trình sản xuất nâng cao hiệu quả công việc, vốn quý nhất của nền kinh tế chính
là tri thức đòi hỏi con người phải luôn trau dồi học hỏi không ngừng.
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa vô cùng gian nan cùng bao nhiêu
khó khăn thử thách trên chặng đường dài phía trước đang chờ đợi chúng ta và để
đạt được thành công và mục tiêu cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2015 thì việc cần thiết là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn
liền với phát triển kinh tế tri thức. Tuy còn nhiều thách thức nhưng Việt Nam
cần nắm chắc thế mạnh của mình để có những đường lối đúng đắn phát triển nền
kinh tế thay vì chạy đua với các nước công nghệ phát triển khác.
Là một sinh viên, nằm trong tầng lớp trí thức của Việt Nam và sinh ra trong
thời đại đất nước đang trong giai đoạn đổi mới và chuyển mình mạnh mẽ, em tự
nhận thấy mình cần trau dồi và học hỏi nhiều hơn, không chỉ ở trong trường mà
còn ngoài thực tế, không chỉ kiến thức lý thuyết mà còn phải cập nhật các đổi
mới về công nghệ kĩ thuật cũng như công nghệ thông tin của thế giới. Bằng cách
ấy, em tin mình có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc đưa đất nước đi lên
sánh ngang tầm thế giới.
Kinh tế tri thức gắn với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
Bùi Lan Phương A30 CLC KT 16
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng Sản Việt Nam”
2. />voi-su-phat-trien-cua-viet-nam-dang-huu.1173578.html
3. />hien-cong-nghiep-hoa-hien-dai-hoa-o-viet-nam 672964.html
4. />thuc-Viet-Nam-dang-o-dau.html
5. />D=8001&ContentID=33800