Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BÀI THU HOẠCH LỚP BD CDNN GVMN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.85 KB, 15 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ...

BÀI KIỂM TRA
KẾT THÚC CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG THEO TIÊU
CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP GVMN

Họ và tên học viên: ...
Giáo viên trường: ...

THÁNG 08 NĂM 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ...

Độc lập -Tự do -Hạnh phúc

ĐỀ KIỂM TRA KẾT THÚC CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG
THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN MN

ĐỀ BÀI
Câu 1 (5 điểm). Phân tích thực trạng triển khai chương trình Giáo dục
mầm non mới (2018) hiện nay. Nêu rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước và
đề xuất giải pháp.
Câu 2 (5 điểm). Phân tích cơ sở xác định các yêu cầu phát triển năng lực
nghề nghiệp của giáo viên mầm non.


BÀI LÀM
Câu 1: Phân tích thực trạng triển khai chương trình Giáo dục mầm non
mới (2018) hiện nay. Nêu rõ trách nhiệm quản lý Nhà nước và đề xuất
giải pháp.
Phát triển giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo
là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của xã hội, là nhu cầu, nguyện vọng của mỗi
gia đình, cộng đồng và địa phương. Giáo dục mầm non thời gian tới cần có bước
phát triển mới, chuyển biến lớn, đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh mới.
1. Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục, đặt nền
móng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam. Giáo dục mầm non nhằm
phát triển toàn diện trẻ em về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành
yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp 1. Chính vì vậy,
giáo dục mầm non cho trẻ em giai đoạn 0 đến 6 tuổi giữ vai trị đặc biệt quan
trọng, có tính chất quyết định tạo nên thể lực, nhân cách, năng lực phát triển trí
tuệ trong tương lai và được coi là “Giai đoạn vàng”, “Thời kỳ vàng” đối với phát


triển của con người, tạo nền móng cho sự phát triển của trẻ em trong tương
lai. Trẻ em được tiếp cận với giáo dục mầm non càng sớm, càng thúc đẩy quá
trình học tập và phát triển của trẻ ở các cấp học tiếp theo.
Nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trị, tầm quan trọng của giáo dục mầm
non đối với phát triển kinh tế-xã hội, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện
con người Việt Nam, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước và
triển khai thực hiện chủ trương giáo dục là quốc sách hàng đầu, ngày
28/12/2000 Bộ Chính trị khóa VIII ban hành Chỉ thị số 61-CT/TW về phổ cập
giáo dục trung học cơ sở. Sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 61-CT/TW, năm 2010
cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, công tác phổ cập giáo
dục tiểu học thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, chất lượng phổ cập
giáo dục các cấp học chưa vững chắc, nhiều xã ở vùng sâu, vùng xa chưa đạt
chuẩn, giáo dục mầm non chất lượng còn thấp và chưa được đầu tư thỏa đáng.

Quán triệt quan điểm phổ cập giáo dục là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị, nhằm tạo nền tảng dân trí vững chắc để phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, góp phần thực hiện thành công một trong ba khâu đột phá trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, với mục tiêu nâng
cao trình độ dân trí một cách toàn diện, mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành
mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; phấn đấu cả nước hoàn
thành mục tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào năm 2015, Bộ
Chính trị ban hành Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 về phổ cập giáo dục
mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục tiểu học và trung học
cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và xóa mù chữ cho
người lớn.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, tạo điều kiện phát triển giáo dục mầm
non, ngày 09/02/2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 239/QĐTTg phê duyệt đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi giai đoạn
2010-2015 xác định rõ quan điểm phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm
tuổi là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong giáo dục mầm non nhằm chuẩn bị tốt
cho trẻ em vào lớp 1 đối với tất cả các vùng miền trong cả nước; việc chăm lo


để mọi trẻ em năm tuổi được đến trường, lớp mầm non là trách nhiệm của các
cấp, các ngành, của mỗi gia đình và tồn xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa với trách
nhiệm hơn của Nhà nước, của xã hội và gia đình để phát triển giáo dục mầm
non; đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục mầm non theo
nguyên tắc bảo đảm đồng bộ, phù hợp tiên tiến, gắn với đổi mối giáo dục phổ
thơng, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục; bảo đảm hầu
hết trẻ em năm tuổi ở mọi vùng miền được đến lớp để thực hiện chăm sóc, giáo
dục 2 buổi/ngày, đủ một năm học, nhằm chuẩn bị tốt về thể chất, trí tuệ, tình
cảm, thẩm mỹ, tiếng Việt và tâm lý sẵn sàng đi học, bảo đảm chất lượng để trẻ
em vào lớp 1.
Thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Quyết định số
239/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, giáo dục mầm non đã có bước phát

triển vượt bậc, tạo niềm tin trong nhân dân, phụ huỵnh yên tâm lao động sản
xuất, phát triển kinh tế. Mạng lưới trường, lớp mầm non được củng cố, mở rộng
và phân bố đến hầu hết các địa bàn dân cư xã, phường, thôn, bản đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu đưa trẻ đến trường, trong đó bao gồm cả các nhóm trẻ có
hồn cảnh khó khăn, trẻ em dân tộc thiểu số. Các cấp ủy, chính quyền địa
phương quan tâm bố trí nguồn lực, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
trang thiết bị theo hướng kiên cố, chuẩn hóa; thực hiện khá tốt công tác quản lý,
sử dụng, tuyển dụng đội ngũ giáo viên góp phần bổ sung giáo viên mầm non, cơ
bản đáp ứng yêu cầu thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Toàn quốc hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi vào
năm 2017. Đến nay, năm học 2020-2021 cả nước có 63/63 tỉnh, thành phố đạt
chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, 713/713 (100%) đơn vị cấp
huyện đạt chuẩn phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi, 99,3% số đơn vị cấp xã đạt
chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; năm học 2021-2022, cả
nước có 63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi; 713/713 đơn vị cấp huyện (100%) duy trì phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; 99,94% đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo
dục cho trẻ em 5 tuổi. Hằng năm việc huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi vào học mẫu


giáo đều tăng. Cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ 2 buổi/ngày từng bước được
nâng dần về số lượng và chất lượng, trẻ được chuẩn bị tốt các điều kiện sẵn sàng
vào học lớp 1. Tỷ lệ huy động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi của cả nước đạt 99,78%,
tỷ lệ trẻ em được học 2 buổi/ngày đạt 99,9% và hồn thành chương trình giáo
dục mầm non là 99,7%.
Các địa phương thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục mầm non, lấy trẻ em là trung tâm của q trình giáo dục, bảo đảm an
tồn và phòng chống bạo hành trẻ trong các cơ sở giáo dục mầm non, đặc biệt là
các cơ sở giáo dục mầm non ngồi cơng lập, đồng thời quan tâm phát triển đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non để từng bước nâng cao năng

lực cho đội ngũ. Bên cạnh đó, trong thời gian trẻ khơng thể đến trường do dịch
Covid-19, ngành giáo dục đã chỉ đạo xây dựng cẩm nang hướng dẫn phụ huynh
về nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non ở nhà.
Tuy nhiên, cho đến nay, việc thực hiện các chủ trương chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục mầm non ở nước ta vẫn còn những hạn
chế, một số mặt chưa được như mong đợi. Tỷ lệ huy động trẻ mầm non các độ
tuổi được học mẫu giáo có sự chênh lệch đáng kể giữa các vùng, miền. Tỷ lệ
huy động trẻ mẫu giáo 3 đến 4 tuổi cả nước thấp (mới đạt 90,4%); tỷ lệ trẻ em
độ tuổi nhà trẻ được tiếp cận giáo dục mầm non còn thấp (đạt 28%) đã ảnh
hưởng đến sự bền vững kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Mặc dù, cả nước hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi,
nhưng vẫn cịn 7 xã chưa đạt chuẩn.
Cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ có nơi chưa bảo đảm theo yêu cầu, hoạt
động giáo dục thể chất ít được chú ý, trẻ em 5 tuổi các vùng khó khăn chưa được
chuẩn bị tốt các điều kiện (tiếng Việt, kỹ năng, thể lực, tâm lý…) sẵn sàng vào
học lớp 1. Mạng lưới trường, lớp mầm non ở một số địa phương còn bất cập,
nhất là vùng núi cao, vùng kinh tế - xã hội khó khăn thiếu nhiều trường, lớp,
thiếu cơng trình vệ sinh và trang thiết bị. Ở các thành phố lớn, khu công nghiệp,
khu chế xuất chưa giành đủ quỹ đất để xây dựng trường, lớp mầm non. Tỷ lệ
giáo viên/lớp ở nhiều địa phương tỷ lệ cịn thấp. Tình trạng thiếu giáo viên mầm


non ở nhiều địa phương vẫn chưa được khắc phục. Đặc biệt, tỷ lệ giáo viên/lớp
ở vùng núi cao, ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên, Bắc Trung
Bộ và Duyên hải miền Trung rất thấp. Năng lực, kỹ năng tổ chức hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ, phát triển chương trình giáo dục mầm non của giáo viên
chưa tương thích với trình độ đào tạo. Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo
viên mầm non chậm đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin thúc
đẩy đổi mới sáng tạo trong hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ để đáp
ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non. Chế độ lương và các thu

nhập khác của giáo viên mầm non chưa tương xứng với công sức và áp lực nghề
nghiệp, thời gian làm việc trên lớp thường kéo dài từ 09 đến 10 giờ/ngày. Ở một
số địa phương vùng cao, cô giáo kiêm ln việc đưa đón trẻ, nấu ăn và tắm cho
trẻ. Giáo viên cắm bản tại các điểm trường còn thiếu nhà công vụ. Công tác
quản lý giáo dục mầm non khu vực ngồi cơng lập cịn hạn chế, nhất là đối với
lớp, nhóm trẻ độc lập tư thục ở gần khu công nghiệp, khu chế xuất. Vấn đề bạo
hành trẻ cá biệt vẫn còn xảy ra ở một số địa phương, cơ sở giáo dục mầm non
gây tâm lý lo lắng cho phụ huynh và bức xúc trong dư luận xã hội.
Bên cạnh đó, dịch Covid-19 bùng phát nhiều lần đã tác động nghiêm
trọng đến giáo dục mầm non, trong đó trẻ nhà trẻ, mẫu giáo là những đối tượng
chịu thiệt thịi, phần lớn thời gian trẻ khơng được đến trường, khơng có điều
kiện giao tiếp, vận động, sinh hoạt theo yêu cầu phát triển của độ tuổi, chưa đủ
điều kiện về thể chất để được tiêm phòng vắc xin đã ảnh hưởng đến chất lượng
chăm sóc, giáo dục trẻ theo chương trình giáo dục mầm non và việc chuẩn bị
cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào lớp 1. Một số trẻ em thuộc hộ nghèo, trẻ dân tộc
thiểu số (không được ăn trưa tại trường), trẻ khuyết tật học hịa nhập, trẻ em là
con cơng nhân mất việc làm… có nguy cơ chậm phát triển. Cơ sở giáo dục mầm
non ngồi cơng lập trong thời gian dài khơng có doanh thu, đời sống giáo viên
hết sức khó khăn, nhiều giáo viên mầm non sau một thời gian nghỉ dịch đã bỏ
nghề, chuyển sang các công việc khác. Nhiều trường mầm non ngồi cơng lập
giải thể, đóng cửa trường, đối mặt với nguy cơ vỡ nợ về tài chính. Theo báo cáo
của địa phương, từ đợt dịch tháng 5/2021, có trên 28.500 cơ sở giáo dục mầm


non phải tạm dừng hoạt động để phòng chống dịch, trong đó hơn 20.000 cơ sở
đã phải dừng hoạt động từ 3- 6 tháng (khoảng 7.900 trường và hơn 12.000 cơ sở
giáo dục mầm non độc lập). Có trên 100.000 cán bộ giáo viên, nhân viên trong
cơ sở giáo dục mầm non ngồi cơng lập khơng có thu nhập từ 3 tháng trở lên,
trong số đó, hầu hết khơng có thu nhập trong hơn 6 tháng qua; 101.845 cán bộ
giáo viên, nhân viên trong các cơ sở giáo dục mầm non ngồi cơng lập khơng đủ

điều kiện hưởng hỗ trợ do chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Những hạn
chế này là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng giáo dục
mầm non chưa đạt yêu cầu của các cấp học tiếp theo.
2. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII tiếp tục nhấn mạnh
nhiệm vụ chăm lo phát triển giáo dục mầm non “Tăng cường giáo dục, kiến
thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em. Tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em
dưới 5 tuổi. Phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em. Giảm tỷ suất tử vong trẻ
em dưới 5 tuổi xuống còn 18,5%, dưới 1 tuổi xuống còn 12,5%. Thực hiện chế
độ dinh dưỡng hợp lý, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm
xuống 20%”; trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, hợp tác với những diễn
biến khó lường, yêu cầu đặt ra là cần tập trung nâng cao chất lượng, trọng tâm
hiện đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo để đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế- xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
Phát triển giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo
là vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của xã hội, là nhu cầu, nguyện vọng của
mỗi gia đình, cộng đồng và địa phương. Giáo dục mầm non thời gian tới cần có
bước phát triển mới, chuyển biến lớn, đáp ứng yêu cầu mới phù hợp với xu thế
phát triển giáo dục mầm non của thế giới, giúp trẻ phát triển toàn diện về thể
chất, tình cảm, trí tuệ và thẩm mỹ, mở rộng khả năng tiếp cận, cải thiện chất
lượng chăm sóc, giáo dục, hình thành nhân cách, kỹ năng sống cần thiết phù hợp
với lứa tuổi và chuẩn bị tốt nhất cho trẻ em 5 tuổi sẵn sàng vào tiểu học ở mọi
vùng miền, đặc biệt là trẻ em vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải
đảo, góp phần tích cực cho việc nâng cao chất lượng giáo dục, liên thông với


giáo dục phổ thông. Để thực hiện sứ mạng kỳ vọng của giáo dục, hồn thành
nhiệm vụ đặt nền móng phát triển toàn diện của con người Việt Namgiáo dục
mầm non cần được quan tâm những vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu, quán triệt, tổ chức thực hiện tốt chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giáo dục mầm non. Đẩy mạnh
công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức, cho các cấp, các
ngành, gia đình và cộng đồng về phát triển giáo dục mầm trong tình hình mới.
Đa dạng, linh hoạt, lồng ghép bằng nhiều hình thức thiết thực, phù hợp với từng
đối tượng, huy động sự tham gia, phối hợp của hệ thống chính trị và các tổ chức
xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các bậc cha mẹ và tồn xã hội vào cơng tác
phát triển giáo dục mầm non.
Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy
định hoạt động và quản lý chất lượng giáo dục mầm non. Tiếp tục rà sốt, bổ
sung, hồn thiện cơ chế, chính sách phát triển giáo dục mầm non cho phù hợp
với thực tiễn. Có cơ chế chính sách phát triển giáo dục mầm non ở các địa
phương có khu cơng nghiệp, khu chế xuất và vùng đặc biệt khó khăn. Nghiên
cứu xây dựng cơ chế, chính sách chuyển đổi một số cơ sở giáo dục mầm
non cơng lập thành ngồi cơng lập ở những nơi có điều kiện thực hiện tốt xã hội
hóa.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả cơng tác quản lý nhà nước về quy
hoạch phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non theo hướng kiên cố hóa, chuẩn
hóa đáp ứng nhu cầu học tập của trẻ em trong độ tuổi mẫu giáo, nhu cầu gửi trẻ
trong độ tuổi nhà trẻ ở mọi vùng miền được đến lớp và chăm sóc, giáo dục 2
buổi/ngày. Củng cố kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, từng
bước triển khai thực hiện phổ cập giáo dục trẻ em mẫu giáo từ 3 - 4 tuổi, ưu tiên
trẻ em người dân tộc thiểu số, miền núi, vùng bãi ngang, ven biển, hải đảo, trẻ
em khuyết tật, trẻ em yếu thế. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc bảo đảm
ngân sách chi thường xuyên cho hoạt động chăm sóc, giáo dục mầm non; ưu tiên
ngân sách để thực hiện công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em mẫu giáo
3-4 tuổi và ngân sách để duy trì, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm


non cho trẻ 5 tuổi. Quan tâm bảo đảm ngân sách chi thường xuyên và bố trí đội
ngũ để tổ chức các loại hình trường, lớp mầm non phù hợp, tạo cơ hội cho trẻ

em mẫu giáo được đến trường đối với vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó
khăn, đặc biệt khó khăn, vùng miền núi, biên giới, vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục và đáp ứng nhu cầu học tập
của người dân.
Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục mầm non, khuyến khích, tạo điều kiện để
các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp đầu tư
phát triển trường, lớp mầm non ngồi cơng lập theo tinh thần Nghị quyết số 35/
NQ-CP ngày 04/06/2019 của Chính phủ về tăng cường huy động các nguồn lực
của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-2025, coi
đây là giải pháp quan trọng trong công tác phổ cập giáo dục mầm non. Nâng cao
hiệu quả, tính thiết thực đối với công tác phát triển giáo dục mầm non gắn với
việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước; Đề án tổng thể
phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Chương
trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững; Chương trình mục tiêu quốc gia
xây dựng nông thôn mới.
Bốn là, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục mầm
non phù hợp điều kiện thực tiễn Việt Nam, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và hội nhập quốc tế góp phần nâng cao chất lượng cơng tác
ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Tăng cường dạy học tiếng nói, chữ viết
của dân tộc thiểu số cho trẻ em trên cơ sở tiếng mẹ đẻ nhằm gìn giữ và phát huy
giá trị ngơn ngữ, văn hóa của dân tộc thiểu số. Đổi mới hoạt động chun
mơn, hình thức tổ chức chăm sóc, giáo dục trẻ và đánh giá sự phát triển của
trẻ theo hướng coi trọng chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phát triển
tồn diện theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của trẻ em, chuẩn bị cho
trẻ vào học lớp 1, bảo đảm liên thông, gắn kết với giáo dục phổ thông. Thực
hiện tốt cơng tác phối hợp giữa nhà trường, gia đình, cộng đồng trong việc phổ
biến kiến thức, kỹ năng cơ bản chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non. Ðẩy mạnh hợp
tác quốc tế, ứng dụng môi trường số, công nghệ số thúc đẩy đổi mới sáng



tạo, học tập, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động ni dưỡng, chăm sóc, giáo
dục trẻ mầm non và nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục mầm non.
Năm là, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Thực
hiện hiệu quả việc sắp xếp, đổi mới căn bản mạng lưới các cơ sở đào tạo giáo
viên gắn với quy hoạch nhân lực giáo dục địa phương, vùng, miền theo hướng
hình thành các đại học sư phạm trung tâm, đào tạo nhân lực chất lượng cao; hình
thành các trường sư phạm vệ tinh. Nâng cao năng lực và chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở các trường sư phạm. Đổi
mới chương trình, đa dạng các phương thức đào tạo, bồi dưỡng giáo viên mầm
non đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục mầm non và phát triển giáo dục mầm
non. Phát triển năng lực nghề nghiệp, thực hành nghề nghiệp chú trọng rèn
luyện đạo đức, nhân cách nghề nghiệp, lòng yêu ngành, yêu nghề cho đội
ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non. Thực hiện tốt việc liên kết
giữa trường sư phạm với địa phương trong xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, trong đó có giáo viên mầm non bảo đảm đủ số
lượng, cân đối về cơ cấu, khắc phục triệt để tình trạng thừa, thiếu giáo viên và
phù hợp với thực tiễn địa phương, vùng, miền.
Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và bảo đảm nguồn lực thực
hiện chính sách cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục mầm non nhằm
cải thiện mức sống, nâng cao trình độ và chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục mầm non. Có cơ chế, chính sách hỗ trợ giáo viên mầm non
người dân tộc thiểu số, giáo viên mầm non khu vực dân lập, tư thục được hưởng
đầy đủ chế độ cho giáo viên mầm non theo quy định hiện hành; quan tâm phát
triển đội ngũ giáo viên mầm non người dân tộc thiểu số có trình độ về sư phạm,
kiến thức chun môn phù hợp từng vùng, từng dân tộc, địa bàn khó khăn; chú
trọng bồi dưỡng dạy tiếng dân tộc cho giáo viên mầm non cơng tác tại các vùng
có đồng bào dân tộc thiểu số, giúp giáo viên yên tâm cơng tác và cống hiến.
Khuyến khích giáo viên mầm non phát huy tính độc lập, sáng tạo, tự nghiên cứu,



tự học tập suốt đời nâng cao năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
3. Để thực hiện thành công các đột phá chiến lược xác định trong nhiệm
kỳ Đại hội lần thứ XIII của Đảng, tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; tạo bước chuyển mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục,
việc nghiên cứu đề xuất Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Chỉ thị mới về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phổ cập, phân luồng trong giáo
dục, xóa mù chữ đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo” thay thế Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 05/12/2011 của Bộ Chính trị khóa XI
“về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, củng cố kết quả phổ cập giáo dục
tiểu học và trung học cơ sở, tăng cường phân luồng học sinh sau trung học cơ sở
và xóa mù chữ cho người lớn” trong tình hình mới là rất cấp thiết. Một Chỉ thị
mới đánh giá lại các kết quả đạt được, nhận diện những khó khăn, thách thức,
hạn chế và các quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp trong bối cảnh mới sẽ
tạo tiền đề vững chắc cho giáo dục mầm non phát triển, hội nhập với xu thế
quốc tế, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục mầm non cho trẻ em được
đến trường chăm sóc, giáo dục, phát triển tồn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ,
thẩm mỹ, hình thành nhân cách sẵn sàng vào học lớp 1.
Theo kế hoạch, năm 2024 Bộ GD&ĐT sẽ ban hành Chương trình GDMN
mới. Bộ GD&ĐT đang tổ chức các hội thảo, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các
chuyên gia, địa phương và đơn vị liên quan để có những định hướng xây dựng
Chương trình GDMN phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của thế giới.
Hội nghị đã nghe báo cáo kết quả tổng hợp đóng góp ý kiến của cán bộ
quản lý, giáo viên, đánh giá về thực trạng thực hiện Chương trình GDMN, trong
đó thể hiện rõ quan điểm và đề xuất quan điểm xây dựng Chương trình GDMN
mới sau năm 2020.
Các chun gia đã đóng góp ý kiến về Chương trình GDMN hiện hành và
đề xuất quan điểm xây dựng Chương trình GDMN mới sau năm 2020, có tham

chiếu chương trình ở một số quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.


Phát biểu tại Hội nghị, PGS.TS Nguyễn Bá Minh – Vụ trưởng Vụ GDMN
cho rằng: Quan điểm về Chương trình GDMN sau năm 2020 là kim chỉ nam
xuyên suốt quá trình xây dựng và triển khai thực hiện.
Chương trình GDMN được ban hành vào năm 2009, ngay khi xây dựng
Bộ GDĐT đã xác định quan điểm:
Chương trình mang tính chất khung quốc gia, mang tính mở, trao quyền
chủ động cho các địa phương và các cơ sở GDMN tự chủ trong phát triển. Trên
cơ sở Chương trình khung Quốc gia, các cơ sở GDMN phát triển chương trình
giáo dục phù hợp với thực tế của nhà trường, văn hóa địa phương, nhu cầu và
khả năng của trẻ.
Chương trình GDMN phải thể hiện quan điểm giáo dục tồn diện, tích
hợp, lấy trẻ làm trung tâm, với phương châm giáo dục “trẻ chơi mà học, học
bằng chơi”. Chương trình đảm bảo tính liên thông giữa các đội tuổi nhà trẻ và
mẫu giáo, liên thơng giữa chương trình GDMN và giáo dục phổ thơng.
Thực tiễn cho thấy, việc thực hiện Chương trình GDMN 10 năm qua đã
góp phần quan trọng nâng cao chất lượng GDMN. Tuy nhiên, các cơ sở GDMN
cịn gặp khơng ít khó khăn trong thực hiện. Từ đó đặt ra những yêu cầu phải có
cách tiếp cận và quan điểm mới để có điều chỉnh phù hợp, hiệu quả nhằm nâng
cao chất lượng ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.
PGS.TS Nguyễn Bá Minh đặc biệt nhấn mạnh: Quan điểm về Chương
trình thể hiện rõ trong mục tiêu, nội dung, kết quả mong đợi, điều kiện thực
hiện, yêu cầu về mục tiêu, nội dung, phương pháp và hướng dẫn thực hiện
chương trình.
Ý kiến đánh giá của các chuyên gia về quan điểm của Chương trình
GDMN hiện hành, cũng như kinh nghiệm quốc tế, đồng thời tư vấn về Chương
trình GDMN mới sẽ là cơ sở để đề xuất, xây dựng lộ trình nghiên cứu để đổi
mới chương trình GDMN.



Câu 2. Phân tích cơ sở xác định các yêu cầu phát triển năng lực nghề
nghiệp của giáo viên mầm non.
Trước những yêu cầu đổi mới của ngành giáo dục, năng lực của giáo
viên mầm non và các cấp bậc khác cũng cần được nâng cao. Vậy liệu năng lực
cần thiết của giáo viên mầm non hiện nay như thế nào? Cùng tìm hiểu nội
dung bài viết dưới đây để giải đáp những thắc mắc trên nhé.
Những phẩm chất cần có của người giáo viên mầm non
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, ngành giáo dục cũng ngày
càng được chú trọng đẩy mạnh, nâng cao hơn. Theo đó yêu cầu về năng lực của
giáo viên mầm non cũng ngày một tăng cao. Để tạo được lòng tin đối với quý
phụ huynh và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, giáo viên cần có những phẩm
chất tốt đẹp sau:
Yêu nghề, mến trẻ
Để trở thành một giáo viên mầm non tốt, trước hết bạn cần phải yêu nghề,
yêu trẻ bởi đây là tấm gương hàng ngày của trẻ em. Nhờ có sự yêu mến trẻ nhỏ
mà các giáo viên mầm non mới có động lực để gắn bó và thực hiện các cơng
việc chăm sóc trẻ nhỏ hàng ngày.
Có thể nói yêu nghề, mến trẻ là một trong những yếu tố quyết định đến
hoạt động trong lĩnh vực sư phạm của giáo viên. Bởi sư phạm mầm non là
ngành mang tính chất đặc thù, có rất nhiều khó khăn, vất vả, nếu như không thực
sự yêu nghề, bạn sẽ rất khó có thể vượt qua được thử thách.
Biết kiên trì nhẫn lại
Giáo viên mầm non cần có những năng lực gì? Đó chính là sự kiên trì,
nhẫn nại. Sự kiềm chế nhẫn nại sẽ giúp cho giáo viên dễ dàng gần gũi với các
bạn nhỏ hơn, giúp trẻ khơng cịn thấy sợ mà sẽ có cảm giác mỗi ngày đến trường
là một ngày vui.
Đặc biệt ở giai đoạn mầm non, mọi cư xử của trẻ đều theo bản năng, thích
làm những gì bản thân muốn, thích khám phá nhưng lại chưa có được suy nghĩ

logic. Do đó, nếu bạn là một giáo viên mầm non kiên nhẫn, bạn sẽ biết cách


kiềm chế trước những hành động của trẻ và hướng trẻ dần dần có suy nghĩ đúng
đắn hơn.
Có tinh thần trách nhiệm cao
Một trong những năng lực của giáo viên mầm non phải kể đến tinh thần
trách nhiệm cao. Là một giáo viên tốt, bạn cần phải làm gì để trẻ cảm thấy được
u q, chăm sóc tận tình, chu đáo. Đặc biệt giáo viên mầm non rất cần phải
phối hợp tốt với các bộ phận liên quan để có thể tổ chức các chương trình phịng
chống suy dinh dưỡng hoặc các bệnh tật với tinh thần trách nhiệm cao.
Bên cạnh đó, giáo viên mầm non cịn đóng vai trị là những chuyên gia
tâm lý của trẻ, mỗi trẻ sẽ có một đặc điểm tâm lý khác nhau, điều đó buộc giáo
viên phải nắm bắt được tâm lý của trẻ.
Có khả năng xử lý tình huống sư phạm
Nói đến năng lực cần có của giáo viên mầm non khơng thể bỏ qua khả
năng xử lý tình huống sư phạm.
Trong một môi trường sư phạm mầm non, mỗi ngày trôi qua đều xảy ra
rất nhiều tình huống sư phạm khác nhau. Chính vì vậy, là một giáo viên mầm
non tốt, bạn cần có khả năng xử lý, giải quyết các tình huống đó một cách khéo
léo nhất để mọi vấn đề trở nên nhẹ nhàng hơn.
Giáo viên mầm non cần có những năng lực gì?
Khác với giáo viên ở các cấp bậc khác. Họ đảm nhận cơng việc chính là
ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ nên giáo viên mầm non cần có những năng
lực sau:


Năng lực xây dựng chương trình giáo dục




Năng lực lập kế hoạch giáo dục dài hạn



Năng lực xây dựng môi trường giáo dục thân thiện cho trẻ



Năng lực tổ chức hoạt động giáo dục



Năng lực thái độ ứng xử



Năng lực truyền đạt, hướng dẫn trẻ thực hiện các yêu cầu



Năng lực tổ chức thực hiện chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ



Năng lực sư phạm bao gồm: Nhân cách, dạy học, tổ chức, giao tiếp…





Năng lực chuyên biệt: Hát hay, múa dẻo, đàn giỏi, vẽ đẹp, làm đồ chơi

khéo léo, kể chuyện hấp dẫn…
Các biện pháp nâng cao năng lực nghề nghiệp của giáo viên mầm non
Để nâng cao năng lực của giáo viên mầm non, cần thực hiện các với các
biện pháp sau đây:


Không ngừng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng sư phạm với nhiều hình thức

khác nhau.


Thành lập câu lạc bộ để giao lưu học hỏi cũng như thỏa mãn nhu cầu

khám phá của bản thân.


Tổ chức các hội thi theo nhu cầu phù hợp với khả năng của giáo viên

mầm non


Đa dạng hóa các hình thức đánh giá giáo viên



Giáo viên mầm non được hưởng đầy đủ các chế độ theo năng lực.




Tuyển dụng giáo viên mầm non nên thực hiện một cách khách quan nhất.



Xây dựng một tập thể sư phạm lành mạnh, đoàn kết.



Giáo viên mầm non cần biết tự làm đẹp cho bản thân.



×