Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THANH HÙNG

NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRƯƠNG THANH HÙNG

NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Luật hình sự và Tố tụng hình sự – Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS.LS. Phan Trung Hồi

TP.HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong luận văn là trung thực


và đây là đề tài của chính tơi dưới sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Các nội
dung trong đề tài này chưa được cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào!
TP. Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…năm 2012
Học viên thực hiện

Trương Thanh Hùng


LỜI CẢM ƠN
Thắm thoát thời gian học tập hệ cao học tại Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh cũng đã hết. Trong khoảng thời gian ấy, có biết bao chuyện vui
buồn mà tôi đã trải qua. Tuy nhiên, tất cả những điều đó giờ đây chỉ cịn là những
kỷ niệm đẹp. Trong suốt khoảng thời gian học tập ấy, tơi ln được sự hướng dẫn
tận tình của q thầy, cô của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh cũng
như q thầy, cơ khác đã giảng dạy và truyền đạt những kiến thức quý báu để tôi có
thể nghiên cứu, học tập và hồn thành luận văn này. Nhân đây tơi xin chân thành
kính gửi đến q thầy, cô lời cảm ơn sâu sắc nhất.
Tôi cũng xin gửi đến các bạn bè của tôi lời cảm ơn chân thành nhất, những
người đã cùng tôi chia sẻ, động viên nhau để cùng nhau vượt qua những khó khăn,
vất vả trong cuộc sống cũng như trọng việc học tập.
Đặc biệt, tơi kính gửi đến thầy Phan Trung Hồi lời cảm ơn sâu kính nhất,
người đã tận tụy hướng dẫn tôi viết luận văn này.
Trong thành công của tôi ngày hơm nay, ln ln có bóng dáng của của
q thầy cô và các bạn. Một lần nữa, cho tôi xin kính lời cảm ơn và chúc sức khỏe
đến quý thầy, cơ cùng các bạn!
TP.Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng……năm 2012
Học viên thực hiện

Trương Thanh Hùng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:
BLTTDS:
BLTTHS:
CQTHTT:
HĐXX:
NXB:
PGS. TS:
TAND:
TANDTC:
TGTT:
THTT:
TNHS:
TTHS:

Bộ luật dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự
Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan tiến hành tố tụng
Hội đồng xét xử
Nhà xuất bản
Phó giáo sư. Tiến sỹ
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Tham gia tố tụng
Tiến hành tố tụng
Trách nhiệm hình sự
Tố tụng hình sự



MỤC LỤC
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1

NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về địa vị pháp lý của nguyên đơn dân sự trong tố tụng
hình sự Việt Nam ....................................................................................................... 4
1.1.1. Khái quát chung về tố tụng hình sự và vụ án hình sự Việt Nam............... 4
1.1.2. Khái quát chung về nguyên đơn dân sự .................................................. 14
1.2. Khái quát chung về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................. 22
1.2.1. Khái niệm về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự ..................... 23
1.2.2. Các nguyên tắc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự
trong vụ án hình sự ........................................................................................... 24
CHƯƠNG 2

NỘI DUNG PHÁP LÝ VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT
2.1. Nội dung pháp lý về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự................. 28
2.1.1. Lược sử pháp luật về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự ......... 29
2.1.2. Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự trong pháp luật thực định .. 29
2.1.3. Nguyên đơn dân sự trong quan hệ pháp luật so sánh ............................ 49
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến nguyên đơn dân sự trong vụ án
hình sự ...................................................................................................................... 53
2.2.1. Thực tiễn tham gia vụ án hình sự của nguyên đơn dân sự và việc xác
định tư cách nguyên đơn dân sự ....................................................................... 53
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của

nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự ............................................................ 58


CHƯƠNG 3

ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH
NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc nghiên cứu và hoàn thiện chế định
nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự ............................................................. 62
3.1.1. Cơ sở lý luận ........................................................................................... 62
3.1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 63
3.2. Nhu cầu và định hướng hoàn thiện chế định về nguyên đơn dân sự trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................. 64
3.1.1. Định hướng hoàn thiện chế định nguyên đơn dân sự trong bối cảnh xây
dựng nhà nước pháp quyền............................................................................... 64
3.1.2. Định hướng hoàn thiện chế định nguyên đơn dân sự trong bối cảnh đảm
bảo quyền con người trong xã hội đương đại................................................... 66
3.1.3. Định hướng hoàn thiện chế định nguyên đơn dân sự trong bối cảnh hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự ......................................................................... 68
3.3. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế định nguyên đơn dân sự trong tố
tụng hình sự ............................................................................................................. 71
3.3.1. Về hồn thiện các quy định cụ thể .......................................................... 72
3.3.2. Giải pháp hoàn thiện về thực tiễn áp dụng và khái niệm khoa học về
nguyên đơn dân sự ............................................................................................ 87
Kết luận .................................................................................................................... 93
Danh mục tài liệu tham khảo


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người được xem là chính sách nhất quán của
nhà nước Việt Nam. Đây cũng là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của
một quốc gia. Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc
thực hiện và đã từng bước phát huy ngày càng tốt hơn các quyền của người dân ở
tất cả các lĩnh vực1. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì quyền cơng dân là
vấn đề luôn được quan tâm sát sao hơn, bởi lẽ đây là lĩnh vực trực tiếp tác động đến
quyền con người. Hơn nữa, trong thời gian qua, trong một số trường hợp thì các
quyền ấy của người dân khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự chưa
thật sự được đảm bảo. Đâu đó vẫn cịn trường hợp oan sai, quyền và lợi ích hợp
pháp của những người tham gia tố tụng chưa thật sự được đảm bảo, trong đó có cả
người bị hại, nguyên đơn dân sự...
Nguyên đơn dân sự là chủ thể tham gia tố tụng hình sự với mục đích là được
giải quyết yêu cầu về phần dân sự, phần thiệt hại do tội phạm gây ra. Những hạn
chế của pháp luật cùng với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời gian qua cho thấy
địa vị và quyền lợi của nguyên đơn dân sự chưa được quan tâm đúng mức theo tinh
thần của định hướng cải cách tư pháp2. Vì vậy, việc nghiên cứu về mặt lý luận cũng
như thực tiễn đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự trở nên
vấn đề cấp thiết. Do đó, tác giả chọn nghiên cứu lĩnh vực này với hy vọng đề tài
“Nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự Việt Nam” sẽ góp phần làm sáng tỏ
hơn và hệ thống hơn về mặt lý luận từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết vụ án hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là một
vấn đề rộng và phức tạp. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học tuy có quan tâm nhưng
mức độ chưa nhiều, hơn nữa chưa có các bài viết, cơng trình mang tính hệ thống
nhằm làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như những khó khăn vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng và thực hiện, hoặc nghiên cứu về đảm bảo quyền của người bị hại
trong vụ án hình sự hoặc các vấn đề liên quan đến người bị hại trong vụ án hình

sự… Trong số các tác phẩm hiện có, có thể kể đến bài viết của tác giả Trần Quang
Tiệp (2006), “Một số vấn đề về người bị hại và nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003”, Tạp chí kiểm sát, số 4; Lê Nguyên Thanh (2010), Quyền
của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong tố tụng hình sự Việt Nam,
1 />2 Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003”, Tạp chí kiểm sát, (4), tr.16.


2

NXB Đại học quốc gia TP. Hồ Chí Minh; Nguyễn Trương Tín (2010), “Một số vấn
đề về sự tham gia tranh tụng của người bị hại và nguyên đơn dân sự tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm theo u cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí luật học, số 3; luận văn
thạc sĩ của Bạch Ngọc Chí Thanh (lớp Thành Ủy khóa 2), Người bị hại trong tố
tụng hình sự Việt Nam… Như vậy, đa phần các bài viết, công trình nghiên cứu chủ
yếu nghiên cứu về vấn đề người bị hại cũng như đảm bảo quyền của người bị hại.
Chưa có cơng trình nghiên cứu chun biệt về ngun đơn dân sự trong vụ án hình
sự. Do vậy, việc nghiên cứu về vấn nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự có ý
nghĩa thiết thực trong việc bảo vệ quyền của công dân, quyền của người bị thiệt hại
và cả người bị hại trong vụ án hình sự.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự Việt Nam, tác giả hướng
đến mục tiêu của luận án là tìm hiểu, phân tích các quy định của pháp luật về
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự; các quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân
sự cũng như cơ chế đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự trong luật tố tụng hình
sự. Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành tác giả sẽ làm rõ một số vấn đề
về mặt lý luận và từ đó phân tích, đánh giá những hạn chế để tìm ra nguyên nhân và
đưa ra đề xuất hoàn thiện về vấn đề đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân
sự trong vụ án hình sự.
Về đối tượng nghiên cứu, tác giả nghiên cứu những nội dung pháp lý về

nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự Việt Nam trên cơ sở các quy phạm pháp
luật thực định. Bên cạnh đó, luận văn còn liên hệ với thực tiễn áp dụng pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự liên quan đến quyền của nguyên đơn dân
sự. Trong quá trình nghiên cứu tác giả có chọn lọc những ý kiến, quan điểm của các
nhà nghiên cứu xoay quanh lĩnh vực này nhằm hướng đến vấn đề nâng cao hiệu quả
của hoạt động xét xử vụ án hình sự hiện nay.
Về phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ nghiên cứu những khái niệm khoa học về
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, làm rõ các quyền và nghĩa vụ cũng như cơ
chế đảm bảo quyền của chủ thể này trên cơ sở pháp luật hình sự. Trong quá trình
nghiên cứu, tác giả có so sánh, đánh giá góc độ lý luận cũng như thực tiễn áp dụng
pháp luật. Từ việc nghiên cứu đó sẽ tìm ra những hạn chế trong luật thực định cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật và đưa ra đề xuất hoàn thiện những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng luật tố tụng hình sự. Do đó, đề tài khơng nghiên cứu các chủ
thể khác và cũng khơng nghiên cứu về trình tự thủ tục giải quyết vụ án hình sự.


3

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài vận dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-Lênin
và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và pháp lý liên quan đến quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự,
cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện quyền này trong pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam. Trong đó chú trọng phương pháp logic pháp lý, phương pháp lịch sử và
phương pháp so sánh pháp luật để làm rõ một số vấn đề về nội dung và thực tiễn áp
dụng pháp luật trong việc đảm bảo quyền của chủ thể này. Đề tài cũng sử dụng
phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong một vài vấn đề cụ thể và phương pháp
khảo sát đánh giá thực tiễn để tìm hiểu thêm quan điểm của các luật gia, của người
làm công tác thực tiễn pháp lý, qua đó góp phần làm rõ thêm thực trạng áp dụng
pháp luật có liên quan đến vấn đề này trong tố tụng hình sự ở Việt Nam.

Cách nghiên cứu đề tài theo “chiều dọc” nhằm là rõ toàn bộ các nội dung pháp
lý liên quan đến quyền của nguyên đơn dân sự cũng như cơ chế đảm bảo quyền này.
Mặt khác, trong mỗi vấn đề, tác giả cũng lồng ghép cách thức truyền thống là đi từ
nghiên cứu lý thuyết cơ bản cho đến thực trạng pháp luật cũng như thực tiễn áp
dụng, và cuối cùng là các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài hồn thành sẽ góp phần hồn thiện hơn nữa vào cơ sở lý luận pháp luật
tố tụng hình sự, tạo điều kiện để người nghiên cứu phát triển hơn nữa những quan
điểm khoa học về pháp luật tố tụng hình sự đồng thời cũng giúp những người thực
hành pháp luật có cơ sở lý luận để áp dụng pháp luật liên quan đến chế định nguyên
đơn dân sự trong tố tụng hình sự. Những nội dung pháp lý cũng như những giải
pháp mà tác giả đề ra cũng dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn áp dụng gặp phải, do
vậy, đề tài cũng có giá trị nhất định đối với cơ quan lập pháp trong việc nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành theo định hướng cải cách tư
pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
6. Bố cục của luận văn
Xuất phát từ những định hướng trên, học viên dự kiến bố cục của đề tài như
sau: Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo… phần nội
dung tác giả trình bày thành ba chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Nhận thức chung về nguyên đơn dân sự trong tố tụng hình sự.
Chương 2: Nội dung pháp lý về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự
trong tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp hoàn thiện chế định nguyên đơn
dân sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.


4

CHƯƠNG 1


NHẬN THỨC CHUNG VỀ NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Khi một chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định thì vấn đề xác
định đúng tư cách chủ thể, xác định khách thể cũng như quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể ấy là vấn đề cần thiết nhầm đảm bảo quyền lợi của họ. Bởi lẽ, nếu không
xác định được họ là ai thì cũng khơng thể xác định được họ có các quyền và nghĩa
vụ gì theo quy định của pháp luật. Trong TTHS cũng vậy, việc xác định đúng tư
cách tham gia tố tụng cũng rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cho việc giải quyết
đúng đắn vụ án. Bởi lẽ mỗi chủ thể đều có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt nhất
định mà pháp luật đã ghi nhận và nếu xác định sai tư cách chủ thể cũng đồng nghĩa
với việc không đảm bảo được quyền lợi của chủ thể và riêng trong lĩnh vực tố tụng
còn có thể dẫn đến bản án, quyết định khơng phù hợp thực tế khách quan hoặc
nghiêm trọng hơn cịn có thể dẫn đến oan sai trong quá trình tố tụng. Do vậy, việc
nhận thức đúng tư cách của các chủ thể nói chung và nguyên đơn dân sự nói riêng
cũng là vấn đề quan trọng khi giải quyết vụ án hình sự và đây cũng là nội dung
chính mà học viên muốn đề cập trong chương này.
1.1. Nhận thức chung về địa vị pháp lý của nguyên đơn dân sự trong tố
tụng hình sự Việt Nam
Khác với vụ án dân sự thơng thường, trong TTHS thì tư cách ngun đơn
dân sự dường như khá mờ nhạc và thậm chí khi xem một vụ án, người ta cũng
không quan tâm nhiều đến nguyên đơn dân sự là ai, họ có quyền và nghĩa vụ gì…
điều đó khơng thật sự khó hiểu bởi tính thu hút của các chủ thể khác so với nguyên
đơn dân sự. Đa phần mọi người trong xã hội đều quan tâm đến bị can, bị cáo, người
bị hại… vì đây là những chủ thể trực tiếp và “trung tâm” của vụ án hình sự và được
cho rằng đây là đối tượng cần được bảo vệ. Điều này chưa thật sự hợp lý, bởi lẽ,
trong chừng mực nào đó, nguyên đơn dân sự cũng bị thiệt hại trực tiếp từ hành vi
phạm tội và cũng cần được bảo vệ. Do vậy, đối tượng này cũng đáng được quan tâm
và nghiên cứu khi nghiên cứu về tố tụng hình sự Việt Nam nói chung, các chủ thể
trong quan hệ pháp luật tố tụng hình sự nói riêng.
1.1.1. Khái qt chung về tố tụng hình sự và vụ án hình sự Việt Nam

1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của tố tụng hình sự Việt Nam
- Khái niệm tố tụng hình sự
Theo Hán Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh (Trường Thi xuất bản, Sài
Gịn, 1957, tr. 302) có giải thích: "tố tụng" là việc thưa kiện (procès), "tố tụng pháp
lý" là pháp luật quy định những thủ tục về cách tố tụng (code deprocédure)". Sách


5

Tiếng nói nơm na của Lê Gia, dẫn giải 30.000 từ tiếng Việt thường dùng có liên
quan đến từ Hán Việt (NXB Văn Nghệ TP HCM, 1999, trang 1027-1028) giải thích
chi tiết hơn: "Tố tụng" là vạch tội và đưa ra cửa công để phân giải phải trái do chữ
"tố" là vạch tội; chữ "tụng" là thưa kiện ở cửa công để xin phân phải trái3.
Như vậy, nguồn gốc hai chữ "tố tụng" có thể được hiểu là "việc thưa kiện ở
Tịa án".
Tuy nhiên, khi "vận dụng" hai từ đó vào lĩnh vực pháp luật để đặt tên cho
ngành luật, người ta lại hiểu đó là pháp luật quy định về thủ tục giải quyết các vụ
án, vụ kiện ở tịa án. Hay nói cách khác, khi vận dụng từ này vào pháp luật, người ta
có khuynh hướng mở rộng nội hàm của từ “tố tụng” hơn. Tố tụng trong lĩnh vực
pháp luật không chỉ dừng lại ở “việc thưa kiện tại tịa án” mà cịn chỉ cả trình tự, thủ
tục (quá trình) giải quyết vụ án. Cụ thể, đến thời Pháp thuộc, người ta bắt đầu dùng
hai chữ "tố tụng" để dịch chữ "procédure" (chữ Pháp procédure hay chữ Anh
procedure đều bắt nguồn từ chữ La tinh processus nghĩa là quá trình, trình tự, thủ
tục),như hai bộ luật Bắc kỳ dân sự, thương sự tố tụng; Trung kỳ dân sự, thương sự
tố tụng. Ở miền Nam trước giải phóng năm 1975, cũng có Bộ luật Hình sự tố tụng,
Bộ luật Dân sự và Thương sự tố tụng (năm 1972). Nói chung, bộ luật tố tụng (Code
de procédure) dù là Bộ luật tố tụng hình sự (Code de procédure pesnale hoặc Code
de procédure criminelle) hay Bộ luật tố tụng dân sự (Code de procédure civile) đều
là những hình thức pháp luật quy định về thủ tục làm việc của các cơ quan Nhà
nước và những người có liên quan khi giải quyết, xử lý một vụ án.

Như vậy, qua xem xét nguồn gốc và nội hàm của từ “tố tụng” cũng như cách
hiểu, cách vận dụng để định nghĩa về tố tụng hình sự ở một số học giả, nhà nghiên
cứu có thể thấy, có hai khuynh hướng định nghĩa khái niệm về “tố tụng hình sự”
dựa trên từ “tố tụng”. Nếu xem xét về ngữ nghĩa của từ “tố tụng” để đưa ra khái
niệm thì “tố tụng hình sự” được xem là “việc thưa kiện vụ án hình sự ở tòa án” –
theo nghĩa hẹp. Khuynh hướng thứ hai là xem xét theo nghĩa rộng, tức là không
bám sát vào ngữ nghĩa của từ “tố tụng” mà có xu hướng thiên về thực tiễn áp dụng
và vận dụng để mở rộng hơn, xem “tố tụng hình sự là hình thức pháp luật quy định
về thủ tục làm việc của các cơ quan Nhà nước và những người có liên quan khi giải
quyết, xử lý một vụ án”.
Theo Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học luật Hà
Nội định nghĩa thì:

3

/>

6

Tố tụng hình sự là trình tự (quá trình) tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo
quy định của pháp luật (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự). Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố
tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án); người tiến hành tố tụng (thủ
trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên, viện trưởng, phó viện
trưởng viện kiểm sát, kiểm sát viên, chánh án, phó chánh án tòa án, thẩm
phán, hội thẩm nhân dân và thư ký tòa án), người tham gia tố tụng (người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan đến vụ án, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, người làm chứng, người giám định và người phiên
dịch), của cá nhân, cơ quan tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án

theo quy định của Luật Tố tụng hình sự 4.
Như vậy, giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường đại học Luật
Hà Nội cũng định nghĩa “tố tụng hình sự” theo khuynh hướng rộng. Tác giả cũng
đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ:
Thứ nhất, việc xem xét “tố tụng hình sự” vừa bao hàm cả việc kiện tụng tại
tịa án vụ án hình sự và cả về thủ tục làm việc của các cơ quan Nhà nước và những
người có liên quan khi giải quyết, xử lý vụ án là phù hợp và toàn diện. Đảm bảo đầy
đủ và tồn diện mang tính ngun tắc cho mọi hoạt động cần thiết của các cơ quan
tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án
hình sự.
Thứ hai, việc xem xét “tố tụng hình sự” theo nghĩa rộng một mặt phản ánh
được tính chất “nệ thức”– phụ thuộc yếu tố hình thức, thủ tục trong hoạt động giải
quyết vụ án hình sự bảo đảm hạn chế tính độc đốn của chủ thể tiến hành tố tụng
cũng như giúp các chủ thể tham gia có thể bảo vệ được mình thơng qua những quy
định mang tính chất thủ tục.
Thứ ba, xem xét “tố tụng hình sự” theo nghĩa rộng cịn đảm bảo sự bình đẳng
của cơng dân trước pháp luật. Bởi lẽ, việc ghi nhận tố tụng bao gồm cả trình tự kiện
tụng và cả việc tiến hành giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng
đã đặt các chủ thể vào khuôn khổ như nhau “đều phải tuân theo các quy định của
pháp luật khi tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự. Hơn nữa, điều này
hồn tồn phù hợp với ngun tắc “bảo đảm quyền bình đẳng của mọi cơng dân
trước pháp luật” được quy định tại Điều 5 của BLTTHS.

4

Trường Đại học luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr 9-10.


7


Từ những phân tích trên, có thể thấy “tố tụng hình sự” được hiểu là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự).
- Đặc điểm của tố tụng hình sự Việt Nam
Tố tụng hình sự (TTHS) nước ta trong quá trình phát triển chịu ảnh hưởng lớn
từ mơ hình TTHS Pháp và Xơ Viết (hai mơ hình TTHS vốn bắt nguồn từ truyền
thống luật Châu Âu lục địa) và đã tiếp thu đậm nét những yếu tố của mơ hình TTHS
thẩm vấn. Hệ thống pháp luật, hệ thống tư pháp của Pháp đã hiện diện ở nước ta
hơn 100 năm - bên cạnh hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp phong kiến bản xứ đã ảnh hưởng nhất định đến truyền thống, tư duy pháp lý ở nước ta. Các Bộ luật
TTHS (BLTTHS) được ban hành và áp dụng trong thời kỳ Pháp thuộc là sự sao
chép cơ bản BLTTHS của Pháp thời đó. Sau năm 1945, từ Hiến pháp năm 1959 đến
Hiến pháp năm 1980, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan tư pháp và hệ
thống pháp luật nước ta chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của mơ hình Xơ Viết. Trong
lĩnh vực TTHS, sự ảnh hưởng này được thể hiện đậm nét trong BLTTHS đầu tiên
của nước ta ban hành năm 1988 và tiếp tục duy trì ảnh hưởng trong BLTTHS năm
2003.
Đến nay, trong quá trình phát triển, chúng ta đã tiếp thu một số hạt nhân của
mơ hình TTHS tranh tụng, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội cụ thể
của Việt Nam5. Vì vậy, có thể thấy đặc trưng của TTHS ở nước ta thể hiện qua
những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, TTHS Việt Nam không coi vụ án hình sự là tranh chấp, xung đột
pháp lý giữa các bên
Khác với mơ hình TTHS tranh tụng, TTHS Việt Nam khơng coi vụ án hình sự
là tranh chấp, xung đột pháp lý giữa các bên. Vụ án hình sự xảy ra bị xem là đã xâm
hại tới trật tự cơng cộng, lợi ích chung của xã hội và Nhà nước phải có trách nhiệm
giải quyết. Việc giải quyết vụ án hình sự hồn tồn phụ thuộc vào ý chí của Nhà
nước.
Do khơng coi vụ án hình sự là tranh chấp pháp lý giữa các bên nên TTHS
nước ta không giải quyết vấn đề theo cách của mô hình TTHS tranh tụng là trang bị

cho các bên “sự cân bằng về vũ khí” trong q trình giải quyết vụ án, mà giải quyết
theo hướng trao trọn vẹn trách nhiệm và thẩm quyền trong việc đi tìm sự thật của vụ
án cho các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Trong TTHS Việt
Nam, khơng hình thành một cách rõ nét về các bên, mà thay vào đó là vai trị tích
5

/>

8

cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Bị can, bị
cáo có vai trị thụ động trong q trình giải quyết vụ án, phụ thuộc rất lớn vào các
cơ quan tiến hành tố tụng và gần như là đối tượng xem xét của các cơ quan tiến
hành tố tụng. Người bị hại khơng có quyền lựa chọn cách thức giải quyết vụ việc.
Khởi tố hay không khởi tố vụ án không phụ thuộc vào ý muốn của người bị hại, mà
hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng (trừ một số ít
vụ việc theo quy định của pháp luật).
Thứ hai, TTHS Việt Nam đặt mục tiêu tìm đến chân lý khách quan của sự việc
Mục tiêu xuyên suốt của TTHS nước ta là tìm ra sự thật, tìm đến chân lý khách
quan của sự việc. Mục tiêu này chi phối mọi trình tự, thủ tục, cũng như thẩm quyền
của các chủ thể trong TTHS.
Cách thức để đạt được mục tiêu này là pháp luật trao trọn vẹn trách nhiệm tìm
kiếm chứng cứ, xác định sự thật của vụ án cho các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng. Cũng xuất phát từ mục tiêu này, trong TTHS Việt Nam
không tồn tại chế định “tuỳ nghi truy tố” hay “mặc cả thú tội” như trong mơ hình
TTHS tranh tụng. Việc phát hiện và xử lý tội phạm mang tính bắt buộc.
Thứ ba, phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án là
phương pháp điều tra, thẩm vấn
TTHS Việt Nam xác định việc tìm kiếm sự thật vụ án bằng phương pháp điều
tra, thẩm vấn. Trong giai đoạn điều tra, Điều tra viên thực hiện mọi biện pháp điều

tra do pháp luật quy định để thu thập chứng cứ. Khi hồ sơ vụ án được chuyển sang
cho Viện kiểm sát, đề nghị truy tố, Viện kiểm sát tiếp tục kiểm tra hồ sơ vụ án để ra
quyết định truy tố hoặc không truy tố người phạm tội. Tại phiên toà, phương pháp
điều tra, thẩm vấn vẫn là phương pháp chủ yếu được áp dụng, mà không phải là sự
đối tụng, cạnh tranh giữa bên buộc tội và bên bào chữa. Phương pháp điều tra được
thực hiện dưới hình thức xét hỏi. Hội đồng xét xử đặt những câu hỏi về từng tình
tiết của vụ án nhằm xác minh tính trung thực, tính đúng đắn của các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án; thẩm tra các nhân chứng; xem xét những vật chứng liên quan...
Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.
Thứ tư, TTHS Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án thành các giai
đoạn tố tụng
TTHS Việt Nam phân chia quá trình giải quyết vụ án hình sự thành các giai
đoạn tố tụng. Ở từng giai đoạn khác nhau, có những thành phần chủ thể khác nhau,
nhưng đều hướng đến một mục tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật khách quan, tìm
đến chân lý của sự việc. Trong mỗi giai đoạn tố tụng có sự phân định tương đối


9

rành mạch về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của từng cơ quan tiến hành tố tụng, quy
định cụ thể và chặt chẽ thời hạn của từng hoạt động tố tụng và thời hạn áp dụng
từng biện pháp cưỡng chế tố tụng. Các giai đoạn tố tụng được tiến hành gắn liền và
kế tiếp nhau, giai đoạn tố tụng trước làm tiền đề cho giai đoạn tố tụng sau, giai đoạn
tố tụng sau kiểm nghiệm lại kết quả đạt được của giai đoạn tố tụng trước. Việc phân
chia cụ thể các giai đoạn của TTHS, gắn nhiệm vụ, quyền hạn của từng chủ thể và
ấn định thời hạn với từng hoạt động tố tụng tạo cho các các chủ thể tiến hành tố
tụng có tính chun nghiệp trong hoạt động tố tụng, là điều kiện quan trọng tạo nên
hiệu quả hoạt động tố tụng đáp ứng được yêu cầu điều tra, xử lý tội phạm phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam, hạn chế việc vi phạm quyền của bị can,

bị cáo và những người tham gia tố tụng khác. Đặc biệt, sự tham gia của Viện kiểm
sát ở tất cả các giai đoạn tố tụng với hai chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp đã góp phần quan trọng, bảo đảm cho các giai đoạn tố
tụng tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo vệ quyền con người trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự.
Thứ năm, vị trí, vai trò của các chủ thể trong TTHS mang đậm nét của mơ
hình tố tụng thẩm vấn
Mơ hình TTHS tranh tụng phân chia các chủ thể tố tụng dựa vào tiêu chí là các
chức năng cơ bản của TTHS: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng
xét xử, trên cơ sở đó hình thành các bên trong quan hệ tố tụng: bên buộc tội, bên gỡ
tội và Toà án trung lập. TTHS Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai
loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng.
Chủ thể tiến hành tố tụng được pháp luật trao trọn vẹn thẩm quyền chứng minh
trong vụ án hình sự, được độc quyền trong việc thu thập chứng cứ. Những người
tham gia tố tụng khơng có quyền thu thập chứng cứ của vụ án, chỉ có quyền cung
cấp tài liệu, đồ vật, đưa ra u cầu. Trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình
sự, cơ quan tiến hành tố tụng ln ở thế chủ động, từ việc thu thập, kiểm tra, đánh
giá các chứng cứ đến việc đưa ra các quyết định tố tụng liên quan đến việc giải
quyết vụ án.
Cơ quan điều tra được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra, xác minh, thu thập
chứng cứ và có vai trị quan trọng trong việc lập hồ sơ vụ án. Giai đoạn điều tra có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong TTHS. Thời hạn điều tra được pháp luật quy định
tương đối dài, tạo điều kiện cho cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra,
thu thập đầy đủ các chứng cứ của vụ án. Giai đoạn điều tra tạo dựng “hệ thống cơ
sở dữ liệu” làm cơ sở cho hoạt động truy tố và xét xử sau này. Cơ quan điều tra,


10

Viện kiểm sát có nhiệm vụ xác định sự thật của vụ án, tìm kiếm cả chứng cứ buộc

tội và gỡ tội.
Viện kiểm sát có vị trí, vai trị đặc biệt trong TTHS, không chỉ thực hiện chức
năng công tố, truy tố người phạm tội ra toà, thực hiện việc buộc tội tại phiên tồ, mà
cịn được giao thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS,
nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vơ tội. Viện kiểm
sát có vai trị và thẩm quyền rất lớn trong hoạt động điều tra. Quan hệ giữa Viện
kiểm sát với cơ quan điều tra là quan hệ chế ước và phối hợp. Viện kiểm sát được
giao trách nhiệm phê chuẩn các quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn
điều tra và chịu trách nhiệm về các trường hợp oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của Viện kiểm sát.
Tồ án có vai trị tích cực, chủ động trong việc xác định sự thật của vụ án. Toà
án hồn tồn khơng giữ vai trị trung gian, khơng phải là “trọng tài” trong “trận đối
tụng” giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội như trong mơ hình TTHS tranh tụng.
Việc xét xử tại Toà án là giai đoạn tiếp theo của quá trình đi tìm sự thật vụ án. Tồ
án đóng vai trị chủ động, tích cực, phối hợp chặt chẽ với Viện kiểm sát trong quá
trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Cũng như Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát, Toà án được giao trách nhiệm chứng minh tội phạm, bảo đảm cho việc xét xử
được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo quy định của pháp luật, Toà án
tiếp xúc với hồ sơ vụ án từ rất sớm; thời gian nghiên cứu hồ sơ vụ án của Toà án
được pháp luật quy định tương đối dài. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Tồ án có
quyền trả lại hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung khi thấy cần xem xét
thêm chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tồ được;
khi có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác; khi
phát hiện có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên tồ, Hội đồng xét xử
đóng vai trị tích cực, chủ động trong việc thẩm tra các chứng cứ. Diễn biến tại
phiên tồ khơng phải là sự tranh tụng giữa bên buộc tội và gỡ tội mà thực chất là sự
tiếp tục của hoạt động điều tra để đi tìm sự thật của vụ án.
Có thể thấy, cách thức tổ chức các cơ quan tư pháp hình sự ở nước ta hiện nay
giống như một “đường trục”. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án tuy có chức

năng, nhiệm vụ riêng trong từng giai đoạn tố tụng, nhưng đều có chung nhiệm vụ
phát hiện tội phạm, làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Đối lập với vai trò tích cực, chủ động của các cơ quan tiến hành tố tụng là vai
trò thụ động của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
không được xem là một bên trong quan hệ tố tụng như trong mơ hình tố tụng tranh


11

tụng và trên thực tế, nhiều trường hợp gần như là đối tượng xem xét của các cơ
quan tiến hành tố tụng.
Thứ sáu, trong TTHS Việt Nam luôn tồn tại “hồ sơ vụ án hình sự”
Nếu như trong mơ hình TTHS tranh tụng không tồn tại một hồ sơ vụ án chính
thức (bên buộc tội tự lập hồ sơ vụ án của mình để thực hiện chức năng buộc tội, bên
bào chữa tự lập hồ sơ của mình để thực hiện chức năng gỡ tội), thì trong suốt các
giai đoạn của TTHS nước ta luôn tồn tại một hồ sơ vụ án hình sự, được các cơ quan
tiến hành tố tụng lập thống nhất từ giai đoạn điều tra. Hồ sơ vụ án hình sự chứa
đựng tồn bộ các thơng tin, chứng cứ về tội phạm và người phạm tội, được các cơ
quan tiến hành tố tụng dựa vào đó để thực hiện các chức năng tố tụng của mình,
đồng thời được bổ sung, hoàn thiện qua từng giai đoạn tố tụng.
Thứ bảy, có sự phân định việc thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS
Dù áp dụng mô hình TTHS nào thì trong TTHS cũng ln tồn tại ba chức năng
cơ bản: buộc tội, bào chữa và xét xử. Vai trò của các chủ thể được phân định theo
các chức năng tố tụng. Việc phân định hợp lý thẩm quyền của các chủ thể gắn với
các chức năng cơ bản của TTHS là điều kiện quan trọng bảo đảm mục tiêu, hiệu quả
của TTHS.
Giống với mơ hình TTHS nhiều nước trên thế giới, TTHS Việt Nam quy định
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội; chức năng bào chữa
do người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ thực hiện; xét xử là
chức năng thuộc về Tòa án. Song, trong các quy định cụ thể về thẩm quyền, trình

tự, thủ tục TTHS và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự ở nước ta đang thể hiện sự
mâu thuẫn, chồng lấn giữa các chức năng cơ bản của TTHS; yêu cầu về sự bình
đẳng giữa các bên trong việc thực thi các chức năng tố tụng của mình, nhất là sự
bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội chưa được bảo đảm. Toà án là cơ quan
xét xử, nhân danh công lý ra phán quyết về vụ án, nhưng Toà án lại được giao cả
những thẩm quyền khác thuộc chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội.
Thứ tám, trong quá trình phát triển, TTHS Việt Nam có sự tiếp thu những hạt
nhân hợp lý của mơ hình tố tụng tranh tụng
TTHS Việt Nam khơng chỉ mang đậm nét của mơ hình tố tụng thẩm vấn mà
trong quá trình phát triển của mình, TTHS Việt Nam cũng có sự tiếp thu có chọn
lọc những ưu điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng. Tố tụng hình sự nước ta ngày
càng tăng cường vị trí, vai trị của người bào chữa trong các thủ tục tố tụng tư pháp
nói chung và tư pháp hình sự nói riêng. Đây cũng là một trong những yêu cầu quan
trọng của cải cách tư pháp được đề ra trong nhiều Nghị quyết của Đảng. Thể chế
hoá chủ trương này, các văn bản pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng


12

tăng cường các cơ chế bảo đảm để người bào chữa thực hiện ngày càng tốt hơn
chức năng bào chữa của mình. Người bào chữa khơng chỉ bào chữa cho bị can, bị
cáo như trước đây, mà còn bào chữa cho người bị tạm giữ. Thời điểm tham gia của
người bào chữa được quy định sớm hơn (người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
khởi tố bị can; trong trường hợp bắt người theo quy định về bắt khẩn cấp hoặc bắt
quả tang thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ). Nhiều
thẩm quyền mới đã được quy định bổ sung cho người bào chữa như: quyền có mặt
khi hỏi cung người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong các hoạt động điều tra khác;
được xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết
định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa...).
1.1.1.2. Khái niệm và ý nghĩa của vụ án hình sự

- Khái niệm về vụ án hình sự
Hiện nay, tình hình tội phạm ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp và đang
có chiều hướng gia tăng. Điều này địi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải nâng cao
hơn nữa vai trị và trách nhiệm của mình trong việc đấu tranh và phịng chống tội
phạm. Để có thể đấu tranh và phát hiện tội phạm, đem lại cơng bằng cho xã hội thì
các chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm giải quyết vụ án
hình sự. Hoạt động giải quyết vụ án hình sự có thể được hiểu là tổng thể các hành vi
pháp lý do những chủ thể có trách nhiệm thực hiện trong quá trình truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Vậy vụ án hình sự là gì? Định nghĩa vụ án hình sự khơng được đề cập đến
trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mặc dù Bộ luật này
quy định trình tự, thủ tục nhằm giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực tế khi
có tội phạm xảy ra thì các cơ quan có thẩm quyền lại xác định đó là vụ án hình sự
và nhiệm vụ của các cơ quan này là giải quyết vụ án hình sự đó.
Theo sổ tay pháp luật điều tra viên của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh có định
nghĩa:
Vụ án hình sự là sự việc phạm tội do cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý
để giải quyết. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, việc khởi tố vụ án hình sự
được thực hiện khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm (Điều 100 BLTTHS
năm 2003). Các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố và giải quyết
vụ án hình sự bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, bộ đội biên
phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển và thủ trưởng cơ quan
của lực lượng công an nhân dân và quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ
tiến hành một số nhiệm vụ điều tra6.
6 Nguyễn Ngọc Anh (2010), Sổ tay pháp luật điều tra viên, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.92.


13

Theo khái niệm trên thì “Vụ án hình sự là sự việc phạm tội được thụ lý giải

quyết bởi cơ quan có thẩm quyền”. Điều này cần được đặt ra và xem xét lại để
không trái với nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Tức là khi có một hành vi phạm pháp xảy ra thì
chưa chắc chắn rằng hành vi đó là tội phạm, chỉ được xem là tội phạm khi Tòa án
đã ra bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
Theo từ điển luật học của NXB Từ Điển Bách Khoa Hà Nội thì vụ án hình sự
là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự
đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét
xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật tố tụng hình sự. Người vi
phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo
các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tức đã liên quan đến án hình sự sẽ bị áp
dụng một số biện pháp do luật quy định như phải khai cung, phải có mặt tại địa
điểm và thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tịa án quy định. Có trường hợp bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế như tạm
giam, khám xét…Có thể bị phạt tù, bị cấm hành nghề nếu qua xét xử tòa án đã
chứng minh là phạm tội và đã ra quyết định bằng một bản án hình sự.
Từ những quan điểm trên, người viết cho rằng khái niệm vụ án hình sự theo
Từ điển luật học của NXB Từ điển Bách Khoa Hà Nội là tương đối hồn chỉnh về
vụ án hình sự và trên thực tế thì vụ án hình sự cũng được hiểu như trên. Bởi vì, khi
có một vụ việc phạm pháp xảy ra thì vụ việc ấy chưa hẳn là sự việc phạm tội. Được
xác định là vụ án hình sự khi có một vụ việc phạm pháp xảy ra và vụ việc ấy có dấu
hiệu của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và người thực hiện hành vi
phạm pháp đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình sự để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS. Ví dụ: Nguyễn Văn A lái xe ôtô chạy
quá tốc độ, không làm chủ được tay lái gây tai nạn dẫn đến chết người. Hành vi của
A có dấu hiệu vi phạm tôi vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao
thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009). Đây là cơ sở để cơ quan điều tra, nơi có vụ việc xảy ra khởi tố vụ án hình sự
vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
- Ý nghĩa của vụ án hình sự với nguyên đơn dân sự

Việc tìm hiểu khái niệm vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp người bị
thiệt hại có thể biết được mình nên có đơn u cầu bồi thường thiệt hại để trở thành
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự hay khởi kiện vụ án dân sự. Tức là nếu chủ
thể gây thiệt hại cho mình đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố thì


14

phải làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại để được xem xét phần dân sự trong vụ án
hình sự chứ không thực hiện thủ tục khởi kiện dân sự.
1.1.2. Khái quát chung về nguyên đơn dân sự
1.1.2.1. Khái niệm về nguyên đơn dân sự
Khái niệm về nguyên đơn dân sự trong pháp luật thực định có một q trình
lịch sử phát triển theo từng giai đoạn ở nước ta. Nhìn ra nước ngồi, theo BLTTHS
của nước Cộng hịa Pháp thì “Người bị thiệt hại do trọng tội hoặc khinh tội gây ra
khi có đơn gửi dự thẩm có thẩm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại là nguyên đơn
dân sự”7. Như vậy, luật tố tụng của Pháp xác định ngun đơn dân sự chính là
người bị hại có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Ngược lại với luật tố tụng của
Cộng hòa Pháp, luật tố tụng của nước ta quy định nguyên đơn dân sự và người bị
hại là hai chủ thể hoàn toàn khác nhau, với địa vị pháp lý khác nhau.
Ở góc độ pháp lý, trước khi có BLTTHS năm 1988, nguyên đơn dân sự được
định nghĩa tại Thơng tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tịa án tối cao như sau:
“Nguyên đơn dân sự là: 1) Cơ quan, xí nghiệp, hợp tác, hoặc các đồn thể xã hội,
đã bị kẻ phạm pháp xâm phạm đến tài sản (tham ô, trộm cấp, lừa đảo...); 2) Công
dân không bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể chất, tài sản, nhưng đã bị
thiệt hại về vật chất do việc phạm pháp gây ra. Ví dụ:
- Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người, nhưng bản thân
cũng bị rách quần áo, mất đồng hồ...
- Người mà người bị hại khi cịn sống có trách nhiệm nuôi dưỡng.
- Người mà bị cáo đã bán cho tài sản đã trộm cấp, lừa đảo được, nhưng tài

sản đó đã trả cho sở hữu chủ, do đó, người đã mua đòi bị cáo phải bồi thường thiệt
hại...”.
Trong BLTTHS đầu tiên của nước ta ra đời năm 1988, khái niệm
nguyên đơn dân sự tiếp tục được ghi nhận và hiện nay là BLTTHS năm 2003, cả hai
Bộ luật này đều có định nghĩa về nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. Tuy
nhiên, hai Bộ luật này có cách định nghĩa không giống nhau về nguyên đơn dân sự.
+ Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
BLTTHS năm 1988 là BLTTHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam. Khái niệm nguyên đơn dân sự được BLTTHS năm 1988 định nghĩa
tại Điều 40 “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức bị thiệt hại về
vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Từ khái niệm
trên cho thấy nguyên đơn dân sự có thể là một con người cụ thể (cá nhân), cơ quan
hay tổ chức phải gánh chịu hậu quả từ hành vi của kẻ phạm tội. Cá nhân là nguyên
7 Quyển 1, Thiên III, Mục 2 Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hịa Pháp


15

đơn dân sự là người bị thiệt hại một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi tội phạm.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân có thể tự mình thực hiện quyền hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp bảo vệ quyền lợi của mình. Cụ thể trong trường hợp
nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên hoặc là người bị nhược điểm về thể
chất và tinh thần thì sẽ thực hiện quyền của mình thơng qua người đại diện hợp
pháp của họ.
Nếu nguyên đơn dân sự là cơ quan thì chỉ có cơ quan có tư cách pháp nhân
mới được nhân danh chính mình để tham gia vào các quan hệ pháp luật còn các bộ
phận, đơn vị phụ thuộc, văn phòng đại diện khi tham gia vào các quan hệ pháp luật
khơng thể nhân danh chính mình mà phải nhân danh cơ quan mà mình phụ thuộc.
Do đó, năng lực pháp luật và năng lực hành vi của đơn vị phụ thuộc bị phụ thuộc
vào cơ quan có tư cách pháp nhân. Chính vì lẽ đó, ngun đơn dân sự là cơ quan thì

phải là cơ quan có tư cách pháp nhân, cịn cơ quan khơng có tư cách pháp nhân thì
khơng thể trở thành ngun đơn dân sự trong vụ án hình sự. Để có thể kiểm tra cơ
quan có tư cách pháp nhân hay khơng thì cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu đại
diện của nguyên đơn dân sự là cơ quan xuất trình quyết định thành lập cơ quan đó
để kiểm tra tư cách pháp nhân theo quy định tại Điều 84 BLDS năm 2005.
Trong trường hợp nguyên đơn dân sự là tổ chức, bao gồm các dạng sau: Tổ
chức là pháp nhân, tổ chức phụ thuộc pháp nhân, tổ chức không phải là pháp nhân
và tổ chức phụ thuộc tổ chức không phải pháp nhân. Trong các loại tổ chức trên, chỉ
các tổ chức là pháp nhân và các tổ chức không phải là pháp nhân mới là nguyên đơn
dân sự trong vụ án hình sự. Các tổ chức phụ thuộc pháp nhân và các tổ chức phụ
thuộc tổ chức không phải là pháp nhân do khơng có tư cách riêng mà phải nhân
danh pháp nhân hoặc nhân danh tổ chức không có tư cách pháp nhân để tham gia
vào các quan hệ pháp luật, mọi hoạt động của các tổ chức phụ thuộc pháp nhân đều
phải thông qua người đại diện có quyền nhân danh pháp nhân (theo ủy quyền của
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân) hoặc tổ chức khơng có tư cách pháp
nhân nên các tổ chức phụ thuộc ấy không phải là nguyên đơn dân sự trong vụ án
hình sự.
Dựa vào định nghĩa tại Điều 40 BLTTHS năm 1988 cho thấy Bộ luật này xác
định nguyên đơn dân sự chỉ bị một loại thiệt hại duy nhất đó là thiệt hại về vật chất
do tội phạm gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế chủ thể này khơng chỉ bị thiệt hại về vật
chất mà cịn bị thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Đây là điểm hạn chế của BLTTHS
năm 1988 và đã được khắc phục ở BLTTHS năm 2003.


16

+ Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Theo quy định tại Điều 52 BLTTHS năm 2003 thì “Nguyên đơn dân sự là cá
nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại”. Về cơ bản thì BLTTHS năm 2003 định nghĩa ngun đơn dân sự khơng

có sự khác biệt nhiều so với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, theo BLTTHS năm
2003 thì ngun đơn dân sự có thể bị thiệt hại bất kỳ, có thể là thiệt hại về thể chất,
tinh thần hoặc tài sản chứ khơng bó gọn trong thiệt hại “vật chất” như BLTTHS
năm 1988. Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã định nghĩa nguyên đơn dân sự theo
hướng mở rộng hơn.
Nguyên đơn dân sự có thể là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra, những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại khác
dẫn đến những tổn thất về vật chất như những thiệt hại do danh dự, uy tín bị xâm
phạm.v.v... Nguyên đơn dân sự cũng có thể là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra8. Trên thực tế, theo quan sát của tác giả thì
rất ít trường hợp ngun đơn dân sự là cá nhân vì nếu là cá nhân thì có thể họ đồng
thời là người bị hại9 và trong trường hợp này họ có cả quyền của người bị hại và
quyền của nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng quyền của người bị hại
tham gia tố tụng là đủ. Ví dụ: Một người bị người khác gây thương tích có tỷ lệ
thương tật là 31%, họ tham gia tố tụng vừa với tư cách người bị hại, vừa với tư cách
là nguyên đơn dân sự vì họ bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra (tiền thuốc
chữa bệnh, các khoản chi phí khác...). Thực tiễn xét xử thì các cơ quan THTT chỉ
cần xác định họ là người bị hại mà không cần xác định họ là ngun đơn dân sự vì
khơng cần thiết10. Tuy vậy, vẫn có trường hợp nguyên đơn dân sự là cá nhân, nhưng
nguyên đơn dân sự là cá nhân không phải là nạn nhân trực tiếp của tội phạm, mặc
dù bị thiệt hại nhưng thể chất, tinh thần, tài sản không phải là đối tượng mà tội
phạm muốn hướng đến. Ví dụ: A cố ý gây thương tích đối với B, C trơng thấy đến
ngăn cản hành vi của A. Trong q trình xơ xát nhau A đã gây ra thương tích nhẹ
cho C. Cơ quan có thẩm quyền đã vào cuộc, trong quá trình điều tra đã xác định B
là người bị hại, còn C là nguyên đơn dân sự trong vụ án.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để phân biệt được người bị hại và nguyên
đơn dân sự trong trường hợp “Người bị hại bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản

8 Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr.108.

9 Đinh Văn Quế (2004), Bình luận án, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, TP.Hồ Chí Minh, tr.96.
10 Đinh Văn Quế (2004), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tổng hợp thành phố
Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, tr.96.


17

do tội phạm gây ra” và “Nguyên đơn dân sự là cá nhân bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra”.
Để phân biệt người bị hại và nguyên đơn dân sự trong trường hợp này, trong
khoa học pháp lý hiện nay có hai quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho
rằng, “Người bị hại trong vụ án hình sự phải là người bị thiệt hại mà thiệt hại đó
phải là hậu quả một dấu hiệu thuộc mặt khách quan của cấu thành”11. Quan điểm
thứ hai được thể hiện trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối
cao cho rằng “Người bị hại là người bị thiệt hại do chính hành vi phạm tội trực tiếp
gây ra”.
Từ những quan điểm trên, người viết đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi vì:
Thứ nhất, bất cứ tội phạm nào cũng đều có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm cho
xã hội, gây ra sự biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng tác động nhất
định, được thể hiện dưới dạng: Thiệt hại về vật chất, thiệt hại về thể chất, thiệt hại
về tinh thần. Điểm khác nhau giữa cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội
phạm hình thức là ở chỗ: Đối với cấu thành tội phạm vật chất, nhà làm luật quy định
hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, còn đối với cấu thành tội
phạm hình thức thì hậu quả khơng phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm
(nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm của tội
phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả khó xác định , thì cấu thành tội
phạm được nhà làm luật xây dựng là cấu thành tội phạm hình thức). Khơng có lẽ chỉ
vì nhà làm luật khơng quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội
phạm, mà đối với các vụ án về các tội phạm có cấu thành hình thức như tội làm
nhục người khác, tội vu khống... thì khơng có người bị hại?12.

Thứ hai, quan điểm cơ bản để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn dân
sự trong trường hợp được đề cập ở trên là ở chỗ người bị hại là người bị thiệt hại về
thể chất, tinh thần, tài sản do chính hành vi phạm tội trực tiếp gây ra, cịn ngun
đơn dân sự là cá nhân khơng bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm phạm, nhưng bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
Ngun đơn dân sự cịn là người khơng bị kẻ phạm tội trực tiếp xâm hại
nhưng bị thiệt hại vì tội phạm đã gây ra. Ví dụ: Một người bị kẻ phạm tội xâm phạm
đến sức khỏe nên một người trong gia đình họ phải nghỉ việc để chăm sóc, vì vậy bị
giảm thu nhập. Do đó, người này có quyền địi bồi thường phần thu nhập bị giảm do
nghỉ việc. Nếu nạn nhân chết thì người mà nạn nhân đã ni dưỡng, trợ cấp khi cịn
sống có quyền địi bồi thường vì thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút. Đối với trường
11 Đinh Văn Quế (1999), Pháp luật-thực tiễn và án lệ, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.53.
12 Trần Quang Tiệp (2006), “Một số vấn đề về người bị hại và nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình
sự năm 2003”, Tạp chí kiểm sát, (4), tr.16.


18

hợp này thì người có u cầu bồi thường thiệt hại phải làm đơn chứng minh mức
giảm sút thu nhập.
Việc xác định khái niệm nguyên đơn dân sự có ý nghĩa rất lớn, tạo tiền đề
cho việc tìm hiểu về quyền của chủ thể này, bởi vì, khi muốn tìm hiểu về địa vị
pháp lý của một chủ thể thì trước hết phải biết chủ thể đó là ai. Tuy nhiên, để trở
thành nguyên đơn dân sự trên thực tế thì chúng ta cần phải xác định điều kiện cần
và đủ để trở thành nguyên đơn dân sự.
1.1.2.2. Điều kiện trở thành nguyên đơn dân sự
BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể những điều kiện cần và đủ để trở
thành nguyên đơn dân sự, nhưng dựa vào khái niệm ở khoản 1 Điều 52 thì có thể
xác định được hai điều kiện đó là bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu
bồi thường thiệt hại.

+ Bị thiệt hại do tội phạm gây ra
BLTTHS năm 1988 đã xác định nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự chỉ
bị một loại thiệt hại duy nhất đó là thiệt hại “vật chất” và thiệt hại đó nhất thiết phải
do tội phạm gây ra. Nếu bị thiệt hại vật chất nhưng không phải do tội phạm gây ra
thì cũng khơng thể trở thành ngun đơn dân sự trong vụ án hình sự. Do đó, tịa án
khi xét xử về hình sự chỉ giải quyết những khoản thiệt hại nào do tội phạm gây ra,
còn những thiệt hại vật chất khác tuy có liên quan đến vụ án nhưng khơng do tội
phạm gây ra thì khơng thuộc phạm vi giải quyết trong vụ án hình sự.
Việc quy định nguyên đơn dân sự chỉ bị thiệt hại vật chất do tội phạm gây ra
đã không thể giải quyết được các trường hợp xảy ra trên thực tế. Bởi lẽ, ngun đơn
dân sự cịn bị thiệt hại khác chứ khơng chỉ là thiệt hại vật chất. Vì vậy, BLTTHS
năm 2003 đã quy định theo hướng mở rộng hơn “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra...”. Thiệt hại mà tội phạm gây ra cho
nguyên đơn dân sự chính là trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Đây là trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng - là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một
hành vi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho một người và hành vi đó khơng liên quan
đến bất kỳ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt.
Hiện nay, việc xác định thế nào là thiệt hại do tội phạm gây ra còn rất nhiều
ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất cho rằng nguyên đơn dân sự chỉ là người bị thiệt
hại do người phạm tội trực tiếp gây ra, nhưng cũng có ý kiến cho rằng nguyên đơn
dân sự còn là người không bị người phạm tội trực tiếp gây thiệt hại nhưng bị thiệt
hại vì tội phạm gây ra. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chính thức, vì
thế thực tiễn xét xử mỗi nơi xác định khác nhau, đa số Tòa án xác định người bị
thiệt hại do tội phạm gián tiếp gây ra là người có quyền lợi liên quan đến vụ án, có


×