Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.68 KB, 83 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 34 (2008 – 2012)
ĐỀ TÀI

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

Trƣơng Thanh Hùng
Bộ môn Luật Tƣ pháp

Nguyễn Bích Nhƣ
MSSV: 5085908
Lớp: Luật Tƣ pháp 2 - K34

Cần Thơ, tháng 5/2012


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này ngoài sự cố gắng và nổ lực hết mình của bản
thân thì em cũng nhận được sự ủng hộ, động viên khích lệ của mọi người xung
quanh em.
Em rất cảm ơn cha mẹ đã tạo điều kiện về vật chất và ủng hộ về mặt tinh
thần để em có thể vươn cao trong môi trường học tập và có được một công trình
nghiên cứu như ngày hôm nay.
Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa luật đã giảng dạy cho
em những kiến thức bổ ích và vững chắc để em có đủ khả năng vận dụng và
nghiên cứu hoàn thành luận văn này.


Xin chân thành cảm ơn những người bạn xung quanh đã luôn đồng hành
và khích lệ em mỗi khi em gặp khó khăn và thất bại.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy Trƣơng Thanh Hùng đã tận
tình chỉ dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu luận văn!
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Bích Nhƣ


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN PHẢN BIỆN
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

BLTTDS:

Bộ luật dân sự
Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTHS:
CQTHTT:
HĐXX:
NXB:

Bộ luật tố tụng hình sự
Cơ quan tiến hành tố tụng
Hội đồng xét xử
Nhà xuất bản

PGS. TS:

Phó giáo sư. Tiến sỹ

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao
TGTT:
Tham gia tố tụng
THTT:
TNHS:

Tiến hành tố tụng

Trách nhiệm hình sự

TTHS:

Tố tụng hình sự


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

Trang

1. Lý do nghiên cứu đề tài ................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 3
4. Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 3
6. Bố cục luận văn ............................................................................................... 4
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CỦA
NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................... 5
1.1. Khái quát chung về vụ án hình sự ............................................................. 5
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 5
1.1.2. Các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự .................................................. 7
1.1.2.1. Giai đoạn khởi tố ............................................................................ 7
1.1.2.2. Giai đoạn điều tra ........................................................................... 8
1.1.2.3. Giai đoạn truy tố............................................................................. 9
1.1.2.4. Giai đoạn xét xử ............................................................................. 9
1.2. Khái niệm và điều kiện hình thành tƣ cách nguyên đơn dân sự .............. 9
1.2.1. Khái niệm ............................................................................................... 9
1.2.1.1. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ......................................... 10

1.2.1.2. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ......................................... 12
1.2.2. Điều kiện hình thành tư cách nguyên đơn dân sự............................... 14
1.2.2.1. Bị thiệt hại do tội phạm gây ra ...................................................... 14
1.2.2.2. Có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại ............................................. 17
1.2.3. Phân biệt nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự và nguyên đơn
trong vụ án dân sự ............................................................................................ 18
1.3. Cơ sở lý luận về quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự ..... 20
1.3.1. Khái niệm ............................................................................................. 20
1.3.2. Nội dung............................................................................................... 21
1.3.3. Các nguyên tắc đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự .................................................................................................... 21
1.3.3.1. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản của công dân ............................................................................................... 21
1.3.3.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước
pháp luật .......................................................................................................... 22
1.3.3.3. Nguyên tắc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong


tố tụng hình sự ................................................................................................... 23
1.3.3.4. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự .............. 23
1.3.4. Tầm quan trọng của việc đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự .................................................................................................... 25
1.4. Lƣợc sử hình thành quyền của nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự.................................................................................................... 26
1.4.1. Giai đoạn trước năm 1988 ................................................................... 26
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003 ................................................. 26
1.4.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay ........................................................... 26
1.5. Sự cần thiết nghiên cứu về quyền của nguyên đơn dân sự
trong vụ án hình sự ......................................................................................... 27
1.5.1. Về mặt lý luận ...................................................................................... 27

1.5.2. Về mặt thực tiễn ................................................................................... 27
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ .......... 29
2.1. Quyền đƣa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu ..................................................... 29
2.2. Quyền đƣợc thông báo kết quả điều tra .................................................. 31
2.3. Quyền đề nghi thay đổi ngƣời tiến hành tố tụng, ngƣời giám định, ngƣời
phiên dich ......................................................................................................... 33
2.4. Quyền tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến; tranh luận tại phiên tòa .. 35
2.5. Quyền đề nghị mức bồi thƣờng và các biện pháp bảo đảm bồi thƣờng . 39
2.6. Quyền có ngƣời đại diện hợp pháp tham gia tố tụng và quyền có ngƣời
bảo vệ quyền lợi ............................................................................................... 41
2.7. Quyền đƣợc khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố tụng .......................................................... 44
2.8. Quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần
bồi thƣờng thiệt hại ......................................................................................... 46
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG BẢO VỆ VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO
QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ .......... 49
3.1. Thực trạng xác định tƣ cách nguyên đơn dân sự, nguyên nhân và
giải pháp .......................................................................................................... 49
3.1.1. Thực trạng ........................................................................................... 49
3.1.2. Nguyên nhân
......................................................... 52
3.1.3. Giải pháp .............................................................................................. 52
3.2. Một số bất cập về quyền của nguyên đơn dân sự, nguyên nhân và
giải pháp......................................................................................................... 53


3.2.1. Bất cập về quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, nguyên nhân và
giải pháp ........................................................................................................ 53
3.2.1.1. Bất cập ....................................................................................... 53

3.2.1.2. Nguyên nhân ............................................................................... 54
3.2.1.3. Giải pháp .................................................................................... 55
3.2.2. Bất cập về quyền được thông báo kết quả điều tra, nguyên nhân và
giải pháp ........................................................................................................ 57
3.2.2.1. Bất cập ....................................................................................... 57
3.2.2.2. Nguyên nhân ............................................................................... 58
3.2.2.3. Giải pháp .................................................................................... 59
3.2.3. Bất cập về quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám
định, người phiên dịch, nguyên nhân và giải pháp ........................................ 59
3.2.3.1. Bất cập ....................................................................................... 59
3.2.3.2. Nguyên nhân ............................................................................... 60
3.2.3.3. Giải pháp .................................................................................... 61
3.2.4. Bất cập về quyền tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến; tranh luận tại
phiên tòa, nguyên nhân và giải pháp ............................................................. 62
3.2.4.1. Bất cập ....................................................................................... 62
3.2.4.2. Nguyên nhân ............................................................................... 63
3.2.4.3. Giải pháp .................................................................................... 65
3.2.5. Bất cập về quyền có người đại diện hợp pháp và quyền có người bảo
vệ quyền lợi, nguyên nhân và giải pháp ......................................................... 66
3.2.5.1. Bất cập ....................................................................................... 66
3.2.5.2. Nguyên nhân ............................................................................... 67
3.2.5.3. Giải pháp .................................................................................... 68
KẾT LUẬN ................................................................................................ .…70
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài
Nhằm thực hiện mục tiêu “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản” được đề ra tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, trong những
năm qua, Nhà nước ta đã quyết tâm thực hiện công cuộc cải cách tư pháp. Sự ra
đời của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/1/2002 của Bộ Chính trị “Về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” (Nghị quyết 08) và
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” (Nghị quyết 49) là cột mốc quan trọng, đặt cơ sở
nền tảng cho thực hiện đổi mới cải cách tư pháp ở Việt Nam.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình cải cách tư pháp mà
Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 đặt ra là yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con
người nói chung, đảm bảo quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng của các chủ thể
tham gia hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Bảo vệ quyền con người vừa là
mục tiêu, vừa là động lực và là cái gốc của cải cách tư pháp. Tố tụng hình sự là
lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Hơn ở
đâu hết, quyền con người trong tố tụng hình sự dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả
của sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng. Vì thế, bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự được xác định có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tiến
trình cải cách tư pháp. Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự sẽ bao gồm:
bảo vệ quyền con người của các chủ thể tiến hành tố tụng và các chủ thể tham gia
tố tụng. Trong các chủ thể tham gia tố tụng, nguyên đơn dân sự là một chủ thể
khá đặc biệt, tham gia tố tụng hình sự với mục đích là giải quyết phần “Trách
nhiệm dân sự”. Lẽ ra, trách nhiệm dân sự thì phải được giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự. Nhưng vì thiệt hại là do tội phạm gây ra nên phải được giải quyết
trong vụ án hình sự. Nhiệm vụ chủ yếu của việc giải quyết vụ án hình sự là truy
cứu trách nhiệm hình sự, tìm ra kẻ phạm tội, đem lại công bằng cho xã hội. Thế
nên, trách nhiệm dân sự, tức là vấn đề bồi thường thiệt hại cho người tham gia tố
tụng nói chung, nguyên đơn dân sự nói riêng chưa được quan tâm đáng kể.
Ngoài ra, trong khoa học pháp lý Việt Nam mặc dù có nhiều công trình
nghiên cứu đề cập đến nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên, người
viết chưa tìm thấy một công trình chuyên biệt nào nghiên cứu về “Quyền của

nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự”.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Như vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan đến
quyền của nguyên đơn dân sự, đánh giá tính khả thi của những quy định này và
nghiên cứu việc đảm bảo quyền của chủ thể này trên thực tế, từ đó đưa ra giải
pháp hoàn thiện là vấn đề có ý nghĩa thiết thực.
Tất cả những luận điểm nêu trên là lý do thúc đẩy người viết chọn đề tài
“Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong sách báo pháp lý Việt Nam đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến nguyên đơn dân sự. Một số công trình nghiên cứu chung về nguyên đơn
dân sự như: “Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003 về xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”, của Đinh Văn Quế, NXB. Tổng hợp thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2004. “Bình luận án”, của Đinh Văn Quế, NXB. Tổng
hợp thành phố Hồ Chí Minh, năm 2004. Giáo trình luật tố tụng hình sự của Đại
học luật Hà Nội, NXB. Công an nhân dân, năm 2007. “Bình luận khoa học
BLTTHS năm 2003”, của Viện khoa học pháp lý, năm 2005, v.v... Các công trình
nghiên cứu này có phân tích về nguyên đơn dân sự, nhưng chủ yếu là phân tích
khái niệm nguyên đơn dân sự, chưa nghiên cứu về quyền của chủ thể này. Một số
công trình nghiên cứu về quyền của nguyên đơn dân sự như: “Một số vấn đề về
người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003”, của
Trần Quang Tiệp. “Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của người bị hại và
nguyên đơn dân sự tại phiên tòa hình sự sơ thẩm theo yêu cầu của cải cách tư
pháp”, của Nguyễn Trương Tín. “Người đại diện hợp pháp trong tố tụng hình

sự”, của Nguyễn Đức Dũng, v.v…Các công trình nghiên cứu trên mặc dù có đề
cập đến quyền của nguyên đơn dân sự, nhưng chỉ là một số quyền cụ thể, chưa
nghiên cứu toàn diện về hệ thống quyền của nguyên đơn dân sự. Với tình hình
nghiên cứu như trên cũng là lý do để người viết chọn đề tài này cho công trình
nghiên cứu của mình.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Với đề tài này người viết tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 về quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự,
thực trạng và tồn tại vướng mắc về việc thực hiện và đảm bảo quyền của nguyên
đơn dân sự trên thực tế. Người viết nghiên cứu trên cơ sở so sánh với một số quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 để thấy được điểm tiến bộ của Bộ luật
tố tụng hình sự hiện hành. Ngoài ra, người viết còn so sánh đối chiếu với các quy

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
định về nguyên đơn trong vụ án dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành để
thấy được nguyên đơn dân sự có được đảm bảo quyền lợi khi tham gia vào pháp
luật tố tụng hình sự hay không. Để làm sáng tỏ vấn đề, chứng minh cho những
hạn chế của pháp luật hiện hành thì người viết còn nghiên cứu so sánh với một số
Điều luật liên quan của Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp và Bộ
luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga.
4. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phân tích các quy định về quyền của nguyên đơn dân sự, xu
hướng điều chỉnh về vấn đề này trong pháp luật của nước ta từ khi ban hành
BLTTHS năm 2003, những tồn tại và bất cập trong thực tiễn về quyền của chủ
thể này trong thời gian qua. Người viết đặt ra cho mình mục tiêu nghiên cứu một

cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống về quyền của chủ thể này nhằm làm sáng
tỏ về mặt lí luận, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết về mặt lập pháp, những
tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó đề
xuất một số giải pháp khắc phục các bất cập trên thực tế nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng cho nguyên đơn dân sự. Mục đích của người viết là mong muốn góp
phần vào việc thực hiện mục tiêu chung của định hướng cải cách tư pháp ở nước
ta hiện nay là thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự thông
qua việc bảo vệ quyền lợi của người tham gia tố tụng, cụ thể là nguyên đơn dân
sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu có ý nghĩa khá quan trọng trong quá trình nghiên
cứu đề tài, vì đối với những vấn đề khác nhau người viết có thể phải sử dụng
những phương pháp nghiên cứu khác nhau thì mới đạt được hiệu quả. Để hoàn
thành luận văn này người viết sử dụng chủ yếu ba phương pháp. Thứ nhất, là
phương pháp tổng hợp tài liệu và chọn lọc tài liệu, với phương pháp này người
viết tập hợp tất cả các tài liệu liên quan đến đề tài sau đó phân loại tài liệu cho
từng chương vì đây là phương pháp áp dụng cho cả ba chương. Thứ hai, là
phương pháp phân tích luật viết được áp dụng chủ yếu cho chương hai, nhằm
làm rõ quy định của pháp luật về quyền của nguyên đơn dân sự. Thứ ba, là
phương pháp phân tích thực tiễn được áp dụng đối với chương ba, để có thể đưa
ra những giải pháp hoàn thiện mang tính khả thi.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Ngoài ba phương pháp chủ yếu trên thì người viết còn sử dụng một số
phương pháp khác như phương pháp so sánh, đối chiếu quy định của pháp luật,

phương pháp sưu tầm, tra cứu tài liệu, internet, v.v...
6. Bố cục luận văn
Đề tài được chia làm ba phần: Lời nói đầu, Phần nội dung, Kết luận.
Trong đó, phần nội dung được cấu trúc thành ba chương, cụ thể:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quyền của nguyên đơn dân sự
trong vụ án hình sự.
Chương này người viết tập trung vào phân tích những cơ sở lý luận chung
nhất về nguyên đơn dân sự, cơ sở đảm bảo quyền của chủ thể này cũng như là sự
cần thiết nghiên cứu về quyền của nguyên đơn dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật về quyền của nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự.
Người viết tập trung phân tích những quy định của pháp luật về quyền của
nguyên đơn dân sự. Từ đó, chỉ ra những hạn chế của pháp luật thực định và
những quy định chưa khả thi về quyền của nguyên đơn dân sự, làm cơ sở cho
những đề xuất trong chương tiếp theo.
Chương 3: Thực trạng bảo vệ nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự và
giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự.
Trong chương này người viết làm rõ thực trạng bảo vệ nguyên đơn dân sự.
Đồng thời đưa ra giải pháp đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN
ĐƠN DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người được xem là chính sách nhất quán

của Nhà nước Việt Nam, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của
Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc
thực hiện và phát huy ngày càng tốt hơn các quyền và tự do của người dân ở tất
cả các lĩnh vực1. Tuy nhiên, trong lĩnh vực tố tụng hình sự thì quyền công dân
chưa thật sự được đảm bảo. Điều này được thể hiện trong vấn đề đảm bảo quyền
lợi cho các chủ thể tham gia tố tụng như bị can, bị cáo, người bị tạm giam, người
bị hại, nguyên đơn dân sự.... Nguyên đơn dân sự là chủ thể tham gia tố tụng hình
sự với mục đích là được giải quyết phần dân sự, phần thiệt hại do tội phạm gây
ra. Những hạn chế của pháp luật cùng với thực tiễn áp dụng pháp luật trong thời
gian qua cho thấy địa vị và quyền lợi của nguyên đơn dân sự chưa được quan tâm
đúng mức theo tinh thần của định hướng cải cách tư pháp 2. Vì vậy, chương này
tập trung vào việc nghiên cứu một cách có hệ thống về nguyên đơn dân sự, phân
tích những điều kiện cụ thể để được trở thành nguyên đơn dân sự, phân biệt
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự và nguyên đơn trong vụ án dân sự. Đồng
thời, phân tích cơ sở lý luận đảm bảo quyền của nguyên đơn dân sự khi tham gia
quan hệ pháp luật TTHS. Qua đó, làm cơ sở cho việc phân tích hệ thống quyền
của nguyên đơn dân sự và đưa ra giải pháp hoàn thiện đảm bảo quyền của
nguyên đơn dân sự trong các chương tiếp theo.
1.1. Khái quát chung về vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm
Hiện nay, tình hình tội phạm ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp và
đang có chiều hướng gia tăng. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải
nâng cao hơn nữa vai trò và trách nhiệm của mình trong việc đấu tranh và phòng
chống tội phạm. Để có thể tìm ra tội phạm và đem lại công bằng cho xã hội thì
các chủ thể có trách nhiệm phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm giải quyết vụ án
hình sự. Hoạt động giải quyết vụ án hình sự có thể được hiểu là tổng thể các hành

1 Người phát ngôn Bộ ngoại giao Lê Dũng đã trả lời trong cuộc họp báo ngày 7/3/2007
. vn/vi/tt-baochi/pbnfn/ns07307162033
2 Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề về người bị hại, nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự năm

2003, tạp chí kiểm sát, số 4/2006, tr.16.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
vi pháp lý do những chủ thể có trách nhiệm thực hiện trong quá trình truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Vậy vụ án hình sự là gì? Định nghĩa vụ án hình sự không được đề cập đến
trong BLTTHS năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, mặc dù Bộ luật
này quy định trình tự, thủ tục nhằm giải quyết vụ án hình sự. Tuy nhiên, trên thực
tế khi có tội phạm xảy ra thì các cơ quan có thẩm quyền lại xác định đó là vụ án
hình sự và nhiệm vụ của các cơ quan này là giải quyết vụ án hình sự đó.
Theo sổ tay pháp luật điều tra viên của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh có
định nghĩa “Vụ án hình sự là sự việc phạm tội do cơ quan tiến hành tố tụng thụ
lý để giải quyết. Theo pháp luật TTHS Việt Nam, việc khởi tố vụ án hình sự được
thực hiện khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm (Điều 100 BLTTHS năm 2003).
Các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố và giải quyết vụ án hình sự bao
gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và thủ trưởng cơ quan của lực lượng Công
an nhân dân và Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số nhiệm
vụ điều tra”3. Theo khái niệm trên thì “Vụ án hình sự là sự việc phạm tội được
thụ lý giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền”. Điều này không phù hợp với
nguyên tắc “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật”. Tức là khi có một hành vi phạm pháp xảy ra thì chưa
chắc chắn rằng hành vi đó là tội phạm, chỉ được xem là tội phạm khi Tòa án đã ra
bản án kết tội và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật.
Theo từ điển luật học của NXB Từ Điển Bách Khoa Hà Nội thì “Vụ án

hình sự là vụ việc phạm pháp có dấu hiệu là tội phạm được quy định trong Bộ
luật hình sự đã được cơ quan điều tra ra lệnh khởi tố về hình sự để tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử theo các trình tự, thủ tục đã được quy định ở Bộ luật tố
tụng hình sự. Người vi phạm pháp luật đã bị khởi tố về hình sự để tiến hành điều
tra, truy tố, xét xử theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tức đã liên quan
đến án hình sự sẽ bị áp dụng một số biện pháp do luật quy định như phải khai
cung, phải có mặt tại nơi vào thời gian do các cơ quan tiến hành tố tụng - Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quy định, có trường hợp bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế như tạm giam, khám xét, v.v…Có thể bị phạt tù, bị cấm hành
nghề nếu qua xét xử Tòa án đã chứng minh là phạm tội và đã ra quyết định bằng
một bản án hình sự”.

3 Nguyễn Ngọc Anh, Sổ tay pháp luật điều tra viên, Nxb. Tư pháp, 2004, tr.282.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Từ những quan điểm trên, người viết cho rằng khái niệm vụ án hình sự
theo từ điển luật học của NXB Từ Điển Bách Khoa Hà Nội là tương đối hoàn
chỉnh về vụ án hình sự và trên thực tế thì vụ án hình sự được hiểu như khái niệm
trên. Bởi vì, khi có một vụ việc phạm pháp xảy ra thì vụ việc ấy chưa hẳn là sự
việc phạm tội. Được xác định là vụ án hình sự khi có một vụ việc phạm pháp xảy
ra và vụ việc ấy có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và
người thực hiện hành vi phạm pháp đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố về hình
sự để tiến hành điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của BLTTHS. Ví dụ:
Nguyễn Văn A lái xe ôtô chạy quá tốc độ, không làm chủ được tay lái gây tai nạn
dẫn đến chết người. Hành vi của A có dấu hiệu vi phạm tội vi phạm các quy định

về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202
BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đây là cơ sở để cơ quan điều tra, nơi
có vụ việc xảy ra khởi tố vụ án hình sự vi phạm quy định về điều khiển phương
tiện giao thông đường bộ.
Việc tìm hiểu khái niệm vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng giúp người
bị thiệt hại có thể biết được mình nên có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại để trở
thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự hay khởi kiện vụ án dân sự. Tức là,
nếu chủ thể gây thiệt hại cho mình đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định
khởi tố thì phải làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại để được xem xét phần dân
sự trong vụ án hình sự chứ không thực hiện thủ tục khởi kiện dân sự.
1.1.2. Các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự là toàn bộ những hoạt động của các cơ quan THTT, người
THTT, người TGTT, của cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân có liên
quan nhằm tham gia vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan, kịp thời vụ án
hình sự. Như vậy, các giai đoạn giải quyết vụ án hình sự chính là các giai đoạn tố
tụng hình sự. Giai đoạn tố tụng là khoảng thời gian tính từ khi bắt đầu đến khi kết
thúc một nhiệm vụ tố tụng. Để giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác,
khách quan yêu cầu vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn tố tụng. Các giai
đoạn tố tụng đều có mối liên hệ mật thiết với nhau, mỗi giai đoạn đều có nhiệm
vụ riêng và mang những nét đặc thù riêng.
1.1.2.1. Giai đoạn khởi tố
Để xác định sự kiện đã xảy ra mang dấu hiệu của một vụ án hình sự cần
phải được chính thức giải quyết bằng con đường tố tụng hình sự theo quy định
của pháp luật, cơ quan có thẩm quyền phải xác minh và tìm hiểu những thông tin

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như



LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
cơ bản ban đầu để phục vụ cho việc ra quyết định xác định sự việc đã xảy ra là
vụ án hình sự và chính thức đưa vụ án vào giai đoạn điều tra làm rõ. Những hoạt
động tố tụng ban đầu này được thực hiện trong giai đoạn đầu tiên của vụ án là
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự4. Như vậy, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu
tiên của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền thu thập, xử
lý các thông tin ban đầu và ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
không khởi tố vụ án hình sự.
Việc hiểu biết về khoảng thời gian cũng như nắm bắt được thông tin về
việc ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự sẽ giúp nguyên đơn
dân sự – người bị thiệt hại bởi hành vi có dấu hiệu tội phạm có thể xác định được
mình phải làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại hay phải làm đơn khởi kiện vụ án
dân sự để yêu cầu được bồi thường. Trong trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã
ra quyết định khởi tố và người bị thiệt hại đã làm đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại nhưng sau đó cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra do không có tội
phạm xảy ra thì người bị thiệt hại phải làm đơn khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu
bồi thường và trong trường hợp này thì khoảng thời gian khởi tố là một trở ngại
khách quan không thể khởi kiện vụ án dân sự (Điều 161 BLDS năm 2005). Nếu
người bị thiệt hại đã gửi đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng chưa có quyết
định khởi tố và sau đó không có quyết định khởi tố thì khoảng thời gian này sẽ
không được xác định là trở ngại khách quan để khởi kiện vụ án dân sự.
1.1.2.2. Giai đoạn điều tra
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng
hình sự do cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập
đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm. Giai đoạn điều tra là giai đoạn tiếp
theo sau của giai đoạn khởi tố được tiến hành trên cơ sở quyết định khởi tố của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giai đoạn điều tra bắt đầu từ khi có quyết định
khởi tố và kết thúc khi cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra và ra
quyết định đề nghị truy tố người phạm tội ra trước Tòa án hoặc ra quyết định
đình chỉ điều tra.

Người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cần nắm bắt được khoảng
thời gian bắt đầu giai đoạn điều tra cũng như thời điểm kết thúc giai đoạn này,
nếu có những tài liệu, đồ vật chứng minh cho tổn thất của mình thì nên giao cho
cơ quan điều tra để việc điều tra được khách quan và nhanh chóng. Đồng thời,
4 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007,
tr.53.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
nguyên đơn dân sự có thể yêu cầu cơ quan điều tra thông báo về kết quả điều tra
vụ án hình sự.
1.1.2.3. Giai đoạn truy tố
Truy tố là một giai đoạn của quá trình tố tung hình sự, do Viện kiểm sát
nhân danh Nhà nước thực hiện sự buộc tội bị can với một tội danh nhất định và
khung hình phạt nhất định để đề nghị tòa án xét xử. Giai đoạn truy tố do Viện
kiểm sát thực hiện nhằm đảm bảo việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị
can là có căn cứ và hợp pháp.
1.1.2.4. Giai đoạn xét xử
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử nói chung được coi là đặc biệt
quan trọng và là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các
giai đoạn tố tụng trước đó từ khởi tố, điều tra và truy tố chỉ là giai đoạn xác định
và tìm kiếm thông tin, chứng minh sự việc đã xảy ra một cách toàn diện nhưng
vẫn chưa phải là quá trình định tội. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Để xác
định một người là có tội và phải chịu hình phạt thì điều đòi hỏi bắt buộc là họ
phải được đưa ra xét xử công khai trước phiên tòa, tại đó, cơ quan THTT, người

THTT và các bên tham gia tố tụng sẽ đưa ra quan điểm, lập luận để bảo vệ mình.
Việc xét xử vụ án hình sự phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau bao
gồm cấp xét xử: sơ thẩm và phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật là giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong giai đoạn này nguyên đơn
dân sự có thể được tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến; tranh luận để bảo vệ
quyền lợi của mình. Đồng thời, nếu có thêm tài liệu, chứng cứ mới thì có thể
trình lên hội đồng xét xử. Ngoài ra, nguyên đơn dân sự có thể đề nghị mức bồi
thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường để hội đồng xét xử xem xét.
1.2. Khái niệm và điều kiện hình thành tƣ cách nguyên đơn dân sự trong vụ
án hình sự
1.2.1. Khái niệm
Theo Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Pháp thì “Người bị thiệt
hại do trọng tội hoặc khinh tội gây ra khi có đơn gửi dự thẩm có thẩm quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại là nguyên đơn dân sự” 5. Như vậy, luật tố tụng hình sự
của Pháp xác định nguyên đơn dân sự chính là người bị hại có đơn yêu cầu bồi
5 Quyển 1, Thiên III, Mục 2 Điều 85 Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
thường thiệt hại. Ngược lại với luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp, luật tố
tụng hình sự của nước ta quy định nguyên đơn dân sự và người bị hại là hai chủ
thể hoàn toàn khác nhau, với địa vị pháp lý khác nhau.
Ở góc độ pháp lý, trước khi có BLTTHS năm 1988, nguyên đơn dân sự
được định nghĩa tại Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối cao
như sau: “Nguyên đơn dân sự là: 1) Cơ quan, xí nghiệp, hợp tác xã, hoặc các
đoàn thể xã hội, đã bị kẻ phạm pháp xâm phạm đến tài sản (tham ô, trộm cấp,

lừa đảo...); 2) Công dân không bị kẻ phạm pháp trực tiếp xâm phạm đến thể
chất, tài sản, nhưng đã bị thiệt hại về vật chất do việc phạm pháp gây ra. Ví dụ:
- Người đã can thiệp để ngăn cản bị cáo đánh, giết người, nhưng bản thân
cũng bị rách quần áo, mất đồng hồ, v.v…
- Người mà người bị hại khi còn sống có trách nhiệm nuôi dưỡng.
- Người mà bị cáo đã bán cho tài sản đã trộm cấp, lừa đảo được, nhưng
tài sản đó đã trả cho sở hữu chủ, do đó, người đã mua đòi bị cáo phải bồi
thường thiệt hại, v.v...”.
Năm 1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta ra đời, khái niệm nguyên
đơn dân sự tiếp tục được ghi nhận và hiện nay là BLTTHS năm 2003, cả hai Bộ
luật này đều có định nghĩa về nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. Tuy nhiên,
hai Bộ luật này có cách định nghĩa không giống nhau về nguyên đơn dân sự.
1.2.1.1. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
BLTTHS năm 1988 là Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khái niệm nguyên đơn dân sự được BLTTHS năm
1988 định nghĩa tại Điều 40 “Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan hoặc tổ
chức bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường
thiệt hại”. Từ khái niệm trên cho thấy nguyên đơn dân sự có thể là một con
người cụ thể (cá nhân), cơ quan hay tổ chức phải gánh chịu hậu quả từ hành vi
của kẻ phạm tội. Cá nhân là nguyên đơn dân sự là người bị thiệt hại một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp bởi tội phạm. Ví dụ: A có chiếc xe gắn máy Dream cho B
mượn nhưng B lại bị C dùng vũ lực cướp chiếc xe này trong khi B đang đi trên
đường và đem bán lấy 10 triệu đồng tiêu xài hết. Khi vụ án bị phát hiện trong quá
trình điều tra cơ quan điều tra đã xác định chiếc xe bị chiếm đoạt là của A nên đã
đưa A vào tham gia tố tụng với tư cách nguyên đơn dân sự, còn B là người bị hại.
Nguyên đơn dân sự là cá nhân có thể tự mình thực hiện quyền hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp bảo vệ quyền lợi của mình. Cụ thể trong trường hợp
GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như



LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên, người bị nhược điểm về thể chất và
tinh thần thì sẽ thực hiện quyền của mình thông qua người đại diện hợp pháp của
họ.
Nếu nguyên đơn dân sự là cơ quan thì chỉ có cơ quan có tư cách pháp
nhân (pháp nhân công pháp) mới được nhân danh chính mình để tham gia vào
các quan hệ pháp luật còn các bộ phận, đơn vị phụ thuộc, văn phòng đại diện khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật không thể nhân danh chính mình mà phải
nhân danh cơ quan mà mình phụ thuộc. Do đó, năng lực pháp luật và năng lực
hành vi của đơn vị phụ thuộc bị phụ thuộc vào cơ quan có tư cách pháp nhân.
Chính vì lẽ đó, nguyên đơn dân sự là cơ quan thì phải là cơ quan có tư cách pháp
nhân, còn cơ quan không có tư cách pháp nhân thì không thể trở thành nguyên
đơn dân sự trong vụ án hình sự. Để có thể kiểm tra cơ quan có tư cách pháp nhân
hay không thì cơ quan có thẩm quyền có thể yêu cầu đại diện của nguyên đơn
dân sự là cơ quan xuất trình quyết định thành lập cơ quan đó để kiểm tra tư cách
pháp nhân theo quy định tại Điều 84 BLDS năm 2005.
Trong trường hợp nguyên đơn dân sự là tổ chức: Tổ chức bao gồm các
dạng sau: Tổ chức là pháp nhân, tổ chức phụ thuộc pháp nhân, tổ chức không
phải là pháp nhân và tổ chức phụ thuộc tổ chức không phải pháp nhân. Trong các
loại tổ chức trên, chỉ các tổ chức là pháp nhân và các tổ chức không phải là pháp
nhân mới là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự. Các tổ chức phụ thuộc pháp
nhân và các tổ chức phụ thuộc tổ chức không phải là pháp nhân do không có tư
cách riêng mà phải nhân danh pháp nhân hoặc nhân danh tổ chức không có tư
cách pháp nhân để tham gia vào các quan hệ pháp luật, mọi hoạt động của các tổ
chức phụ thuộc pháp nhân đều phải thông qua người đại diện có quyền nhân
danh pháp nhân (theo ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của pháp nhân)
hoặc tổ chức không có tư cách pháp nhân nên các tổ chức phụ thuộc ấy không
phải là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.

Dựa vào định nghĩa tại Điều 40 BLTTHS năm 1988 cho thấy Bộ luật này
xác định nguyên đơn dân sự chỉ bị một loại thiệt hại duy nhất đó là thiệt hại về
vật chất do tội phạm gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế chủ thể này không chỉ bị thiệt
hại về vật chất mà còn bị thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Đây là điểm hạn chế
của BLTTHS năm 1988 và đã được khắc phục ở BLTTHS năm 2003.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
1.2.2.2. Theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
Theo quy định tại Điều 52 BLTTHS năm 2003 thì “Nguyên đơn dân sự là
cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi
thường thiệt hại”. Về cơ bản thì BLTTHS năm 2003 định nghĩa nguyên đơn dân
sự không có sự khác biệt nhiều so với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên, theo
BLTTHS năm 2003 thì nguyên đơn dân sự có thể bị thiệt hại bất kỳ, có thể là
thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản chứ không bó gọn trong thiệt hại “vật
chất” như BLTTHS năm 1988. Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã định nghĩa
nguyên đơn dân sự theo hướng mở rộng hơn.
Nguyên đơn dân sự có thể là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra, những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc những thiệt hại
khác dẫn đến những tổn thất về vật chất như những thiệt hại do danh dự, uy tín bị
xâm phạm, v.v... Nguyên đơn dân sự cũng có thể là cá nhân bị thiệt hại về thể
chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra6. Trên thực tế, rất ít trường hợp
nguyên đơn dân sự là cá nhân vì nếu là cá nhân thì có thể họ đồng thời là người
bị hại và trong trường hợp này họ có cả quyền của người bị hại và quyền của
nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, họ chỉ sử dụng quyền của người bị hại tham gia
tố tụng là đủ. Ví dụ: một người bị người khác gây thương tích có tỷ lệ thương tật

là 31%, họ tham gia tố tụng vừa với tư cách người bị hại, vừa với tư cách là
nguyên đơn dân sự vì họ bị thiệt hại về vật chất do tội phạm gây ra (tiền thuốc
chữa bệnh, các khoản chi phí khác...). Thực tiễn xét xử thì các cơ quan THTT chỉ
cần xác định họ là người bị hại mà không cần xác định họ là nguyên đơn dân sự
vì không cần thiết7. Tuy vậy, vẫn có trường hợp nguyên đơn dân sự là cá nhân,
nhưng nguyên đơn dân sự là cá nhân không phải là nạn nhân trực tiếp của tội
phạm, mặc dù bị thiệt hại nhưng thể chất, tinh thần, tài sản không phải là đối
tượng mà tội phạm muốn hướng đến. Ví dụ: A cố ý gây thương tích đối với B, C
trông thấy đến ngăn cản hành vi của A. Trong quá trình xô xát nhau A đã gây ra
thương tích nhẹ cho C. Cơ quan có thẩm quyền đã vào cuộc, trong quá trình điều
tra đã xác định B là người bị hại, còn C là nguyên đơn dân sự trong vụ án.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để phân biệt được người bị hại và
nguyên đơn dân sự trong trường hợp “Người bị hại bị thiệt hại về thể chất, tinh
thần, tài sản do tội phạm gây ra” và “Nguyên đơn dân sự là cá nhân bị thiệt hại
6 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005,
tr.108.
7 Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, 2004, tr. 96.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra”. Để phân biệt người bị hại và
nguyên đơn dân sự trong trường hợp này, trong khoa học pháp lý hiện nay có hai
quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng, “Người bị hại trong vụ án
hình sự phải là người bị thiệt hại mà thiệt hại đó phải là hậu quả một dấu hiệu
thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm”. Quan điểm thứ hai được thể hiện

trong Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án tối cao cho rằng, “Người
bị hại là người bị thiệt hại do chính hành vi phạm tội trực tiếp gây ra” 8.
Từ những quan điểm trên, người viết đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi
vì: Thứ nhất, bất cứ tội phạm nào cũng đều có thể gây ra những hậu quả nguy
hiểm cho xã hội, gây ra sự biến đổi tình trạng bình thường của những đối tượng
tác động nhất định, được thể hiện dưới dạng : Thiệt hại về vật chất, thiệt hại về
thể chất, thiệt hại về tinh thần. Điểm khác nhau giữa cấu thành tội phạm vật chất
và cấu thành tội phạm hình thức là ở chỗ: Đối với cấu thành tội phạm vật chất,
nhà làm luật quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, còn
đối với cấu thành tội phạm hình thức thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc
của cấu thành tội phạm (nếu riêng hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thể hiện đầy
đủ tính nguy hiểm của tội phạm hoặc hậu quả nguy hiểm cho xã hội là hậu quả
khó xác định, thì cấu thành tội phạm được nhà làm luật xây dựng là cấu thành tội
phạm hình thức). Không có lẽ chỉ vì nhà làm luật không quy định hậu quả là dấu
hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, mà đối với các vụ án về các tội phạm có
cấu thành hình thức như tội làm nhục người khác, tội vu khống... thì không có
người bị hại?9.
Thứ hai, quan điểm cơ bản để phân biệt giữa người bị hại và nguyên đơn
dân sự trong trường hợp được đề cập ở trên là ở chỗ người bị hại là người bị thiệt
hại về thể chất, tinh thần, tài sản do chính hành vi phạm tội trực tiếp gây ra, còn
nguyên đơn dân sự là cá nhân không bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm phạm,
nhưng bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
Nguyên đơn dân sự còn là người không bị kẻ phạm tội trực tiếp xâm hại
nhưng bị thiệt hại vì tội phạm đã gây ra. Ví dụ: Một người bị kẻ phạm tội xâm
phạm đến sức khỏe nên một người trong gia đình họ phải nghỉ việc để chăm sóc,
vì vậy bị giảm thu nhập. Do đó, người này có quyền đòi bồi thường phần thu
nhập bị giảm do nghỉ việc. Nếu nạn nhân chết thì người mà nạn nhân đã nuôi
8 Đinh Văn Quế, Pháp luật-thực tiễn và án lệ, Nxb. Đà Nẵng, Đà Nẵng, 1999, tr.53.
9 Trần Quang Tiệp, Một số vấn đề về người bị hại và nguyên đơn dân sự trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, tạp chí kiểm sát, số 4/2006, tr.16.


GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
dưỡng, trợ cấp khi còn sống có quyền đòi bồi thường vì thu nhập bị mất hoặc bị
giảm sút. Đối với trường hợp này thì người có yêu cầu bồi thường thiệt hại phải
làm đơn chứng minh mức giảm sút thu nhập.
Việc xác định khái niệm nguyên đơn dân sự có ý nghĩa rất lớn, tạo tiền đề
cho việc tìm hiểu về quyền của chủ thể này. Bởi vì, khi muốn tìm hiểu về địa vị
pháp lý của một chủ thể thì trước hết phải biết chủ thể đó là ai. Tuy nhiên, để trở
thành nguyên đơn dân sự trên thực tế thì chúng ta cần phải xác định điều kiện cần
và đủ để trở thành nguyên đơn dân sự.
1.2.2. Điều kiện hình thành tư cách nguyên đơn dân sự
BLTTHS năm 2003 không quy định cụ thể những điều kiện cần và đủ để
trở thành nguyên đơn dân sự, nhưng dựa vào khái niệm ở khoản 1 Điều 52 thì có
thể xác định được hai điều kiện đó là bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1.2.2.1. Bị thiệt hại do tội phạm gây ra
BLTTHS năm 1988 đã xác định nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
chỉ bị một loại thiệt hại duy nhất đó là thiệt hại “vật chất” và thiệt hại đó nhất
thiết phải do tội phạm gây ra. Nếu bị thiệt hại vật chất nhưng không phải do tội
phạm gây ra thì cũng không thể trở thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Do đó, Tòa án khi xét xử về hình sự chỉ giải quyết những khoản thiệt hại nào do
tội phạm gây ra, còn những thiệt hại vật chất khác tuy có liên quan đến vụ án
nhưng không do tội phạm gây ra thì không thuộc phạm vi giải quyết trong vụ án
hình sự.
Việc quy định nguyên đơn dân sự chỉ bị thiệt hại vật chất do tội phạm gây

ra đã không thể giải quyết được các trường hợp xảy ra trên thực tế. Bởi lẽ,
nguyên đơn dân sự còn bị thiệt hại khác chứ không chỉ là thiệt hại vật chất. Vì
vậy, BLTTHS năm 2003 đã quy định theo hướng mở rộng hơn “Nguyên đơn dân
sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra, v.v...”. Thiệt hại
mà tội phạm gây ra cho nguyên đơn dân sự chính là trách nhiệm dân sự trong vụ
án hình sự. Đây là trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng “Trách nhiệm dân sự
ngoài hợp đồng là trách nhiệm hình thành từ việc thực hiện một hành vi cố ý
hoặc vô ý gây thiệt hại cho một người và hành vi đó không liên quan đến bất kỳ
một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt”.10

10 Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật dân sự 2, Nxb. Đại học Cần Thơ, 2003, tr.55.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Thiệt hại mà nguyên đơn dân sự phải gánh chịu là thiệt hại ngoài hợp
đồng. Theo phần I, mục 1, tiểu mục 1.1 của Nghị Quyết số 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 8-7-2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
thì thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều
608 BLDS năm 2005, thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy định tại Điều 609
BLDS năm 2005, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm (Điều 610 BLDS năm
2005), thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm (Điều 611 BLDS
năm 2005).
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng

bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau
thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè
xa lánh do bị hiểu nhầm, v.v... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và
các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do
danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi tín nhiệm, lòng
tin...vì bị hiểu nhầm và cần được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà
tổ chức phải chịu. Có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm
gây thiệt hại cho các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự chỉ được xác định trong phạm vi “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng” theo quy định tại chương XXI BLDS năm 2005 là những quan hệ bồi
thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại.
Hiện nay, việc xác định thế nào là thiệt hại do tội phạm gây ra còn rất
nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến thứ nhất, cho rằng nguyên đơn dân sự chỉ là
người bị thiệt hại do người phạm tội trực tiếp gây ra. Ý kiến thứ hai, cho rằng
nguyên đơn dân sự còn là người không bị người phạm tội trực tiếp gây thiệt hại
nhưng bị thiệt hại vì tội phạm gây ra. Vấn đề này đến nay vẫn chưa có hướng dẫn
chính thức, vì thế thực tiễn xét xử mỗi nơi xác định khác nhau, đa số Tòa án xác
định người bị thiệt hại do tội phạm gián tiếp gây ra là người có quyền lợi liên
quan đến vụ án, có Tòa án xác định họ là người bị hại, và một số ít Tòa án xác
định họ là nguyên đơn dân sự.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
Căn cứ vào khoản 1 Điều 52 BLTTHS năm 2003 thì cần phải hiểu thiệt

hại do tội phạm gây ra bao gồm những thiệt hại do người phạm tội trực tiếp gây
ra và những thiệt hại do người phạm tội gián tiếp gây ra 11. Ví dụ: A tham ô số
tiền là 500.000.000 đồng và do hành vi này của A nên đã gây thiệt hại cho công
ty không hoàn thành kế hoạch sản xuất, nợ ngân hàng quá hạn không trả phải
chịu lãi suất cao, tính ra thiệt hại do việc A tham ô lên tới 200.000.000 đồng.
Công ty có đơn yêu cầu Tòa án buộc A phải bồi thường 500.000.000 đồng A
tham ô và 200.000.000 đồng là thiệt hại gián tiếp do hành vi tham ô của A gây ra.
Trong trường hợp này Tòa án buộc người phạm tội là A phải bồi thường cho
công ty (nguyên đơn dân sự) 500.000.000 đồng A trực tiếp gây ra và
200.000.000 đồng A gián tiếp gây ra. Người viết đồng tình với cách giải quyết
như trên của Tòa án. Bởi vì, thiệt hại do tội phạm gây ra sẽ bao gồm những thiệt
hại do người phạm tội trực tiếp gây ra và những thiệt hại người phạm tội gián
tiếp gây ra.
Đối với trường hợp thiệt hại do người có hành vi phạm tội trực tiếp gây ra
nhưng thiệt hại về vật chất đó không phải là hậu quả của tội phạm do người có
hành vi phạm tội thực hiện mà đó chỉ là thiệt hại do hành vi thực hiện một tội
phạm khác gây ra, thì người bị thiệt hại cũng được coi là nguyên đơn dân sự. Ví
dụ: Một số người gây gổ đánh nhau trong rạp hát, trong lúc đánh nhau đã dùng
gạch đá ném làm một số người bị thương nhẹ phải nằm viện điều trị và không
xác định được ai đã gây ra thương tích cho những người này. Các người gây gổ
đánh nhau bị kết án về tội gây rối trật tự công cộng, còn đối với những người bị
thương nhẹ đều có đơn yêu cầu phải bồi thường thiệt hại do hành vi gây rối trật
tự công cộng gây ra, những người này phải được xác định là nguyên đơn dân sự.
Hiện nay các Tòa án thường xác định họ là người có quyền lợi liên quan chứ
không xác định họ là nguyên đơn dân sự.
Việc xác định không thống nhất thế nào là thiệt hại do tội phạm gây ra đã
đặt ra một vấn đề là tội phạm phải bồi thường những thiệt hại nào? Tội phạm chỉ
bồi thường thiệt hại do hành vi của mình trực tiếp gây ra hay là cả những thiệt hại
không do họ trực tiếp gây ra nhưng lại phát sinh bởi chính hành vi của họ. Những
thiệt hại được bồi thường phải là thiệt hại gây ra cho người trực tiếp gánh chịu

hậu quả của sự kiện làm phát sinh thiệt hại. Một người nhận bảo lãnh không thể
kiện người gây ra tai nạn khiến người bảo lãnh chết, với lý do nếu người bảo lãnh
11 Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ
Chí Minh, 2004, tr. 97.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


LVTN: Quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự
còn sống thì người này sẽ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh và người nhận bảo lãnh sẽ
không bị mất tài sản. Trái lại, những người thân thuộc được người bảo lãnh cấp
dưỡng có thể kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại bởi do cái chết của người này mà
họ lâm vào cảnh sống khó khăn. Cần nhấn mạnh rằng người trực tiếp chịu thiệt
hại không nhất thiết là người trực tiếp bị xâm hại về tài sản, tính mạng, sức khỏe,
việc một người bị xâm hại có thể dẫn đến việc một người khác bị thiệt hại trực
tiếp12. Như vậy, thiệt hại do tội phạm gây ra sẽ bao gồm thiệt hại do tội phạm
trực tiếp gây ra và thiệt hại do tội phạm gián tiếp gây ra nhưng cả hai trường hợp
này thì người bị thiệt hại sẽ được xác định là người trực tiếp gánh chịu hậu quả.
Từ những phân tích trên, theo quan điểm của người viết thì tội phạm phải bồi
thường những thiệt hại do họ trực tiếp gây ra và những thiệt hại do họ gián tiếp
gây ra.
Nói tóm lại, điều kiện bị thiệt hại do tội phạm gây ra là điều kiện bắt buộc
để xác định một chủ thể có phải là nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự hay
không. Nếu đã đáp ứng được điều kiện này nhưng người bị thiệt hại không có
đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì cũng không phải là nguyên đơn dân sự trong
vụ án hình sự.
1.2.2.2. Có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại
Người bị thiệt hại thì có quyền khởi kiện người phải chịu trách nhiệm về

thiệt hại đó để yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, nếu bị thiệt hại bởi tội phạm gây
ra thì không khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu bồi thường mà phải làm đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại để trở thành nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Theo khoản 1 Điều 52 BLTTHS năm 2003 thì đây là điều kiện bắt buộc để được
xác định là nguyên đơn dân sự. Tuy nhiên, đây chỉ là quy định mang tính hình
thức. Bởi lẽ, không phải trường hợp nào yêu cầu của nguyên đơn dân sự đều
được thể hiện bằng hình thức đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại mà có thể thể hiện
yêu cầu bồi thường của mình trong đơn trình báo hoặc cơ quan điều tra sẽ ghi
nhận yêu cầu của họ qua lời trình bày về thiệt hại do tội phạm gây ra và có thể
hiện yêu cầu bồi thường13.
BLTTHS năm 2003 không quy định hình thức, trình tự, cách thức gửi đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại như thế nào và phải gửi cho cơ quan nào để yêu cầu
bồi thường. Trong khi đó nguyên đơn trong vụ án dân sự thì có quyền khởi kiện
12 Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình luật dân sự 2, Nxb. Đại học Cần Thơ, tr. 55.
13 Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
2007, tr.52.

GVHD: Trương Thanh Hùng

SVTH: Nguyễn Bích Như


×