Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Nhân tế bào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.43 KB, 14 trang )

Nhân tế bào
Tất cá các tế bào (trừ nhóm sinh vật tiền nhân -
prokaryota) đều chứa một
khối hình cầu ở giữa gọi là nhân. Nhân tế bào lần đầu
tiên được nhà thực vật học
người Anh là R.Brown tìm thấy năm 1831.
Nhân tế bào là một trong những thành phần quan
trọng bậc nhất của tế bào.
Đó là trung tâm của các quá trình tổng hợp và trao
đổi chất cũng như các hoạt động
sống khác của tế bào.
a. Số lượng, hình dạng, kích thước và vị trí của nhân
Trong mỗi tế bào thực vật thường chỉ có một nhân,
tuy vậy cũng có một số
trường hợp đặc biệt:
Hình 1.4. Cấu tạo thể golgi
1. Các túi dẹp; 2. Các bọng nhỏ
16
Các tế bào vi khuẩn, tảo lam - không có nhân chính
thức, chất nhân nằm phân
tán trong chất tế bào (nhóm sinh vật tiền nhân -
prokaryota).
Ở tảo không đốt (Vaucheria), tảo thông tâm
(Caulerpa) hay nấm mốc (Mucor)
tế bào có nhiều nhân, ở các nấm bậc cao (nấm túi và
nấm đảm) tế bào có giai đoạn
mang hai nhân.
Ở thực vật bậc cao, những tế bào kéo dài hình thành
các sợi libe có chứa một
số nhân, tế bào của lớp bao quanh túi phấn thường có
hai nhân. Chỉ có ống rây


(thuộc mô dẫn) là tế bào trưởng thành duy nhất ở
trạng thái sống là không có nhân.
Nhân có hình dạng rất đa dạng, khi quan sát dưới
kính hiển vi quang học, nhân
thường có dạng hình cầu trong các tế bào có kích
thước đồng đều, còn trong những
tế bào dài và hẹp thì nhân thường có dạng sợi, dạng
hình thoi kéo dài hay hình thấu
kính...
Nhân tế bào có thể biến dạng dưới ảnh hưởng của sự
chuyển động của chất tế
bào. Khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử, nhân
thường có dạng amip với những
thùy không đều nhau và có những chỗ rất sâu, hình
dạng đó làm tăng bề mặt tiếp
xúc của nhân với chất tế bào.
Kích thước trung bình của nhân dao động trong
khoảng 5 - 50m. Ở các tế bào
nấm mốc (Mucor) nhân có kích thước rất bé (1m),
ngược lại ở một số loài cây họ Tuế
(Cycadaceae) nhân có kích thước rất lớn (50m).
Thường kích thước của nhân phụ
thuộc vào từng loài, từng dạng tế bào, trạng thái và
kích thước của tế bào. Tế bào lớn
thường có nhân lớn và ngược lại.
Giữa thể tích của nhân và thể tích của tế bào thường
có một tỷ lệ nhất định: ở
tế bào còn non, tỷ lệ đó thường là 1/3 còn ở những tế
bào già hơn thì tỷ lệ đó
thường nhỏ hơn. Sự thay đổi tỷ lệ đó dẫn đến sự phân

chia tế bào hoặc hủy hoại tế
bào.
Trong tế bào còn non nhân thường nằm ở giữa, khi tế
bào già nhân thường
nằm sát màng, đôi khi nhân có bị lôi cuốn theo sự
chuyển động của chất tế bào
hoặc có thể di chuyển đến chỗ tế bào hoạt động mạnh
nhất (ví dụ trong tế bào lông
hút của rễ cây, nhân thường nằm ở đầu ngọn của lông
hút, nơi mà sự hấp thụ xảy ra
mạnh nhất).
b. Thành phần hóa học của nhân
Thành phần hóa học của nhân rất phức tạp, chứa
khoảng 80% protein; 10 % ADN;
3,7 % ARN; 5% phospholipid; 1,3 % ion kim loại.
c. Cấu tạo của nhân
Nhân tế bào ở trạng thái nghỉ giữa hai lần phân chia
gồm có các thành phần
chính sau đây: màng nhân, dịch nhân, chất nhiễm sắc
và hạch nhân.
17

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×