Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

ĐÁNH GIÁ độc TÍNH các CHỦNG VI KHUẨN RALSTONIA SOLANACEARUM TRÊN các GIỐNG cà CHUA ở các TỈNH MIỀN bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC NÔNG LÂM HUẾ
KHOA NÔNG HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
ĐÁNH GIÁ ĐỘC TÍNH CÁC CHỦNG VI KHUẨN
RALSTONIA SOLANACEARUM TRÊN CÁC GIỐNG CÀ
CHUA Ở CÁC TỈNH MIỀN BẮC
Sinh viên: Lê Thị Ngọc Hằng
Lớp: Khoa học cây trồng - 44
Thời gian: 25/01/2014 - 10/05/2014
Địa điểm thực hiện: Viện nghiên cứu rau quả, thị trấn Trâu Qùy,
huyện Gia Lâm - Hà Nội
Giáo viên hướng dẫn: T.S. Nguyễn Thị Thu Thủy
Bộ môn: Bảo vệ thực vật
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành tới T.S. Nguyễn Thị Thu Thủy về sự giúp đỡ, hướng dẫn và chỉ đạo trong
suốt quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân thành cám ơn T.S. Trần Ngọc Hùng, Trưởng Bộ môn Công
nghệ Sinh học, Viện Nghiên cứu Rau quả Hà Nội đã giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng cám ơn đến Ban chủ nhiệm khoa Nông học
, trường Đại học Nông Lâm Huế về sự giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Nhân dịch này tôi cũng xin bày tỏ lòng cám ơn đến T.S. Trương Thị Hồng
Hải đã hỗ trợ kinh phí đi lại, nơi ở trong suốt quá trình thực hiện khóa luận. Cám
ơn Bộ môn Công nghệ Sinh học, Viện Nghiên cứu Rau quả Hà Nội đã cung cấp
giống cũng như các trang thiết bị cho các hoạt động của đề tài.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới gia đình, bạn bè
cùng tập thể lớp Khoa học cây trồng-44 đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho tôi trong qua trình học tập và hoàn thiện khóa luận.
Huế, tháng 5 năm


2014
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Ngọc Hằng
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
HXVK Héo xanh vi khuẩn
Isolate Chủng vi khuẩn phân lập
R. solanacearum Ralstonia solanacearum Smith
P. solanacearum Pseudomonas solanacearum Smith
Cs Cộng sự
CTV Cộng tác viên
TD Trích dẫn
TLB Tỷ lệ bệnh
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, ĐỒ THỊ
DANH MỤC CÁC HÌNH MINH HỌA
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết
Cây cà chua (Lyeopersicum esculentumMill) thuộc họ Cà (Solanaceae) là
một trong những cây rau chính, chiếm vị trí thứ hai sau khoai tây, được trồng
hầu hết các nước trên thế giới. Cà chua được sử dụng dưới nhiều hình thức khác
nhau như ăn tươi, làm salat, nước uống hoặc chế biến làm dạng dự trữ, sản phẩm
chế biến cũng có nhiều dạng như đống hộp dạng quả bốc vỏ, dạng cô đặc, dạng
ketchup, nước sốt cà chua, mứt cà chua, Cà chua là loại rau có giá trị dinh
dưỡng cao, chứa nhiều glucid, nhiều axit hữu cơ. Thành phần của cà chua chứa
nhiều chất khoáng và vitamin, trong chất khô gồm đường (glucoza, fructoza,
sucroza) 55%, chất không hòa tan trong rượi (protein, pectin, polysacarit )21%,
axit hữu cơ 12%, chất vô cơ 7% và các chất khác (carotenoit, ascobic, chất dễ
bay hơi, amino axit ) 5%. Về mặt dinh dưỡng cà chua còn chứa nhiều Vitamin
C (20-60mg trong 100g, Vitamin A (2-6mg trong 100g), sắt và các khoáng chất

cần thiết cho cơ thể con người. Cà chua cung cấp năng lượng và chất khoáng
làm tăng sức sống, làm cân bằng tế bào, khai vị, giải nhiệt, chống hoại huyệt,
chống độc. Cà chua còn dùng làm mỹ phẩm, chữa trứng cá
Cà chua là một trong số những cây rau màu quan trọng, được phân bốrộng
rãi ở nhiều nước trên thế giới.Tuy nhiên việc gieo trồng cà chua vẫn gặp nhiều
khó khăn, trở ngại.Một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển sản
xuất và làm giảm năng suất cà chua đó là sâu và bệnh hại. Trong đó đáng chú ý
hơn cả là bệnh héo xanh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây ra.
Bệnh héo xanh vi khuẩn (bệnh HXVK) do vi khuẩn Ralstonia
solanacearum Smith (R. solanacearum Smith) là một trong những bệnh có
nguồn gốc từ đất gây hại rất phổ biến và nghiêm trọng ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới. Bệnh HXVK gây hại trên cây cà chua ở hầu khắp các nước thế giới
nói chung và tất cả các vùng trồng cà chua ở nước ta nói riêng. Với phổ ký chủ
rộng nên phòng trừ bệnh này gặp rất nhiều khó khăn. Sử dụng giống kháng bệnh
hay cây ghép là giải pháp có hiệu quả cao.
Nguồn gene kháng bệnh đã được xác định ở một số mẫu giống:
PI127805A, PI129080, CRA66, AS52. Tuy nhiên tính kháng rất phụ thuộc vào
chủng vi khuẩn. Bên cạnh đó, nhân tố môi trường biến động cũng gây nên tính
kháng của chúng không ổn định.Hiện tương tương tự xảy ra đối với các giống
gốc ghép đã làm ngọn ghép cũng bị nhiễm bệnh.
Di truyền tính kháng bệnh héo xanh ở cà chua rất phức tạp và không đồng
nhất ở các mẫu giống.Tính kháng được xác định là lặn, trội không hoàn toàn, và
trội do 1 gene, hai gene hay nhiều gene quy định.
Bệnh này rất khó phòng chống do vi khuẩn có khả năng tồn tại lâu dài
trong đất, trong cơ thể ký chủ thực vật còn trong hạt giống, củ giống, vi khuẩn
có thể tồn tại được tới 7 tháng. Hơn nữa vi khuẩn R. solanacearum có phổ ký
chủ rất rộng, nó có thể ký sinh trên 35 họ cây trồng khác nhau và các kết quả
nghiên cứu cho đến nay cho thấy hầu hết các hóa chất bảo vệ thực vật đều có
hiệu quả rất thấp đối với bệnh này (Lê Lương Tề, Vũ Triệu Mân, 1998) [9].
Phòng chống dịch hại bảo vệ cây cà chua là một trong những biện pháp quan

trọng để cho năng suất, chất lượng sản phẩm cao và ổn định, ở dạng tươi đông
lạnh hay chế biến ra những sản phẩm có giá trị cao, qua đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của nông sản Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như trên thị
trường quốc tế.
Bệnh HXVK là một bệnh vi khuẩn quan trọng nhất trên cây họ cà
(solanacearum) ở vùng nhiệt đới, đặc biệt thời vụ trồng có thời tiết nóng ẩm.
Bệnh này là một thách thức lớn đối với sản xuất cà chua ở nước ta. Ngoài cây cà
chua, vi khuẩn R.solanacearum còn có khả năng ký sinh trên 200 loài cây trồng,
cây rừng. Bệnh này gây nên những thiệt hại nghiêm trọng về năng suất trên
nhiều cây trồng từ 15 đến 95%, thậm chí 100% trên cây cà chua, 70% trên cây
khoai tây, và 90% trên cây lạc .
Ở nước ta, với điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm, nhiều mưa,
rất thích hợp cho sự phát triển của bệnh HXVK.Trong thực tế, bệnh đã phát triển
và gây hại nghiêm trọng ở nhiều vùng trồng cà chua, khoai tây, thuốc lá, lạc và
cây cà. Tỷ lệ nhiễm bệnh HXVK trung bình trên cây cà chua tại các tỉnh miền
Bắc cao từ 13 đến 28%, thậm chí mất trắng.Vào từng giai đoạn sinh trưởng của
cây cà chua thì mức độ hại sẽ khác nhau. Không những làm giảm năng suất,
bệnh HXVK còn là nguyên nhân chính hạn chế việc trồng cà chua ở các vụ
trồng chính (vụ thu đông và vụ xuân hè) và nhiều vùng chuyên canh rau màu
trước đây đã phải bỏ cà chua chuyển sang trồng các loại cây khác cho thu nhập
thấp hơn nhưng ổn định và ít rủi ro hơn.
Những năm gần đây một số kết quả của công trình nghiên cứu về bệnh
HXVK trên cây lạc, cây thuốc lá và cây khoai tây đã được công bố.Các kết quả
này bước đầu đã được áp dụng trong sản xuất lạc, thuốc lá và khoai tây đã góp
phần đáng kể vào việc tăng năng suất và chất lượng của các cây trồng này.Tuy
nhiên trên cây cà chua và nhiều cây trồng khác các nghiên cứu về mức độ phổ
biến, mức độ gây hại của bệnh HXVK vẫn còn thiếu và chưa có hệ thống. Để
biết rõ hơn về mức độ phổ biến và gây hại của bệnh HXVK này chúng tôi đã
tiến hành thực hiện đề tài “Đánh giá độc tính của các chủng vi khuẩn
Ralstonia solanacearum trên các giống cà chua ở các tỉnh miền Bắc”

1.2.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Những kết quả nghiên cứu trên góp phần làm cơ sở khoa học cho việc
chọn giống cà chua có tính kháng cao để bố trí trồng ở những vùng thích hợp
với mục đích hạn chế bệnh cao nhất có thể.
1.3.Mục đích của đề tài
Đánh giá độc tính của các chủngvi khuẩn Rastonia solanacearum trên
mỗi giống cà chua được trồng phổ biến ở các tỉnh miền Bắc
Đánh giá khả năng kháng bệnh của các giống cà chua trên các dòng vi
khuẩn gây bệnh héo xanh được phân lập ở các tỉnh miền Bắc.
PHẦN 2: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI
2.1. Cây cà chua
2.1.1. Nguồn gốc
Cà chua có nguồn gốc ở vùng Nam Mỹ, được trồng phổ biến khắp nơi
trên thế giới. Có rất nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của cà chua trồng.
Một số tác giả cho rằng cà chua trồng có nguồn gốc từ L. esculentum var,
pimpinellifollum, tuy nhiên nhiều tác giả nhận định rằng L. esculentum var
ceresifarme (cà chua anh đào) là tổ tiên của cà chua trồng.
Theo tài liệu nghiên cứu của nhiều tác giả cho rằng: bờ biển Tây Nam Mỹ
nằm giữa dãy núi Andes và biển, trải dài từ Ecuador đến Peru là trung tâm khởi
nguyên của cà chua. Theo De candelle và nhiều tài liệu nghiên cứu của nhiều tác
giả cho rằng: cà chua trồng hiện nay có nguồn gốc từ Peru, Ecuador, Chile,
Bolivia và các nước vực Nam Mỹ thuộc khu vực nhiệt đới khô hạn.
Theo Luckwill (1943) cà chua từ Nam Mỹ được đưa vào Châu Âu từ những
năm đầu cuối thế kỹ 16 do những nhà buôn Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha [11].
Cà chua được đưa tới châu Âu vào thế kỹ 18, đầu tiên là Philippin,
Indonexia và Malaysia.Từ đây cà chua được trồng phổ biến đến các vùng khác
của châu Âu [12].
Cà chua được du nhập vào châu Âu tương đối sớm (giữa thế kỹ 16),
nhưng đến giữa thế kỹ 17 mới được trồng phổ biến, song tại thời điểm đó cà
chua chỉ được xem như cây cảnh và có quan niệm sai lầm là quả có chất độc vì

cà chua thuộc họ cà cứ họ hàng với cây cà độc dược. Năm 1650 ở Bắc Âu, thời
gian đầu cà chua chỉ được dùng để trang trí và thỏa mãn tính tò mò. Cho đến thế
kỹ 18, cà chua mới được xác nhận là cây thực phẩm, cây thực phẩm này lần đầu
tiên được trồng ở Italia và Tây Ban Nha, đến năm 1750, được dùng làm thực
phẩm ở Anh, sau đó được lan rộng ra khắp mọi nơi trên thế giới [13].
Cuối thế kỹ 18 cà chua được trồng ở các nước thuộc Liên Xô cũ, sau đó giữa
thế kỹ 19 mới được chấp nhận rộng rãi ở Hoa Kỳ, Pháp và các nước khác.
Ở nước ta, các giống cà chua được trồng chủ yếu thuộc 3 nhóm sau đây:
+ Cà chua múi: quả to, nhiều ngăn tạo thành múi. Quả có vị chua nhiều
hạt, ăn không ngon nhưng cây con mọc khỏe, sao quả, chống chịu sâu bệnh khá.
Giống điển hình là cà chua múi Hải Phòng .
+ Cà chua hồng: quả hình quả hồng, không có múi hoặc múi không rõ.
Thịt quả nhiều bột ăn ngon. Cây chống chịu sâu bệnh kém hơn cà chua múi, các
giống chính là : Đại Hồng, Yên Mỹ, số 7, Hp 5.
+ Cà chua bi: cây sai quả, quả ăn chua. Cây chống chịu sâu bệnh
khá.Nhóm cà chua này dễ trồng nhưng giá trị kinh tế thấp, thường nông dân
trồng trong vườn để tự túc trong vụ hè [11].
2.1.2. Giá trị của cà chua
2.1.2.1.Giá trị dinh dưỡng
Cà chua là loại rau ăn quả có giá trị dinh dưỡng cao, theo Tạ Thu Cúc và
CS, thành phần hóa học có trong quả cà chua chín như sau: nước 94-95%, chất
khô 5-6%, trong đó gồm các chất chủ yếu như: đường (glucoza, fructoza,
saccaroza) chiếm 55%, các chất không hòa tan trong rượu (protein, xenlulo,
pectin, polisaccarit) chiếm 21%, axits hữu cơ (xitric, malic, galacturonic,
pyrolidoncaboxylie) chiếm 12%, chất vô cơ 7%, các chất khác (carotenoid,
ascorbic axit, chất dễ bay hơi, amino axit…) 5%.
Kết quả phân tích 100 mẫu giống ở đồng bằng sông Hồng của tác giả Tạ
Thu Cúc và CS, trong quả cà chua có thành phần hóa học như sau: chất khô từ
4,3 – 6,4%, đường tổng số từ 2,6 – 3,5%, hàm lượng các chất tan từ 3,4 – 6,2%,
axit tổng số từ 0,22 – 0,72%và hàm lượng các vitamin C từ 17,1 – 38,8% [12].

Khi so sánh thành phần dinh dưỡng của cà chua với một số rau quả khác
như: táo, chanh, anh đào, dâu tây thì Beeker-Billing thấy rằng: nhóm vitamin
trong quả cà chua chiếm tỷ lệ cao hơn (vitamin A, C, B1, B2) đặc biệt là vitamin
A và C gấp 10 lần dâu tây, gấp 2 lần so với anh đào.
Hạt cà chua chứa 24% dầu và dịch chiết được sử dụng trong công nghiệp
đồ hộp, dầu khô được dùng trong dầu giấm được sử dụng cho công nghiệp chế
biến bơ [11].
Với giá trị dinh dưỡng cao nên cà chua là loại rau được trồng phổ biến ở
các châu lục, là món ăn thong dụng của nhiều nước và là loại rau có giá trị sử
dụng cao.
Bảng 2.1.Thành phần dinh dưỡng trong 100g cà chua nguyên liệu và các
sản phẩm của cà chua
Thành phần Cà chua
nguyên liệu
Nước ép
cà chua
Sốt cà
chua
Súp cà
chua
β-carotene (µg) 449 270 290 75
α-carotene (µg) 101 0 0 0
Lycopene (µg) 2573 9037 15152 5084
Lutein và Zeaxanthin
(µg)
123 60 0 1
Phytoene (µg) 1860 1900 2950 1720
Phytofluene (µg) 820 830 1270 720
Potasium (mg) 237 229 331 181
α-tocopherol (mg) 0,54 0,32 2,08 0,50

Vitamin A (IU) 833 450 348 193
Vitamin C (mg) 12,70 18,30 7,00 27,30
Total Folate (µg) 15 20 9 7
2.1.2.2. Giá trị kinh tế
Cà chua có giá trị sử dụng cao. Cà chua là loại cây trồng cho sản phẩm
vừa để ăn tươi, vừa để nấu nướng và là nguyên liệu cho chế biến công nghiệp
với các sản phẩm đa dạng mà thị trường thế giới có nhu cầu cao như: nước cà
chua, cà chua cô đặc, cà chua muối.
Sản phẩm cà chua cho giá trị kinh tế cao so với các cây trồng khác.Về sản
lượng chiếm 1/6 sản lượng rau hàng năm trên thế giới và luôn đứng ở vị trí số 1.
Theo các tác giả Ware G.W và Mc. Collum (1997) bình quân thu nhập trên 1ha
ở Mỹ như sau: cà chua: 4,610USD, lúa mì: 1,740USD, lúa nước: 1,027USD và
các loại rau khác trung bình là 2,537USD. Ở Việt Nam, cà chua là cây rau quan
trọng của nhiều vùng chuyên canh, là cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao. Theo
số liệu điều tra của phòng kinh tế thị trường (Viện nghiên cứu rau quả), sản xuất
cà chua ở đồng bằng sông Hồng cho thu nhập bình quân 43 – 68,4 triệu
đồng/ha/vụ với mức lãi thuần 15 – 26 triệu đồng/ha cao gấp nhiều lần so với
trồng lúa .
Như vậy cà chua là cây có giá trị cao, cho thu nhập vượt trội hơn so với
lúa nước, lúa mì, ngô và một số loại rau màu khác. Vì vậy, cà chua là cây mang
lại thu nhập cao cho người sản xuất.
2.1.2.3. Các giá trị khác
Cà chua là 1 loại rau ăn quả cao cấp dược trồng phổ biến nhất ở nhiều
nước trên thế giới với sản lượng 48 triệu tấn/năm, chiếm vị trí thứ 2 sau khoai
tây. Cà chua là cây ưa nhiệt, được trồng phổ biến từ đồng bằng đến miền núi.
Ngoài giá trị dinh dưỡng, quả có màu đỏ nên có giá trị thẩm mỹ cao, quả
được trang trí trong các món ăn càng thêm sự hấp dẫn.
Cà chua có tác dụng về mặt y học. Theo Võ Văn Chí (1997), cà chua có vị
ngọt tinh mát, giải nhiệt chống hoại huyệt, kháng khuẩn, lọc máu, nhuận tràng,
giúp hoạt hóa tốt tinh bột. Nước ép cà chua kích thích gan, tốt cho dạ dày. Cà

chua là loại quả có khả năng chống lão hóa mạnh nhất vì có chứa hàm lượng
Licopen – một hoạt chất không bị mất đikhi nấu chín, cà chua cung cấp năng
lượng, cung cấp khoáng, làm tăng sức sống, làm cân bằng tế bào, khai vị, giải
nhiệt, chống hoạt huyết, chống nhiễm khuẩn, chống nhiễm độc, làm kiềm hóa
các quá trình axit, lợi tiểu, thải Ure, giúp tiêu hóa dễ dàng tinh bột. Cà chua
được chỉ định dùng ăn hay lấy dịch quả để uống trị suy nhược, ăn không ngon
miệng, nhiễm độc mãn tính, thừa máu…
2.2. Tình hình sản xuất cà chua trên thế giới và trong nước
2.2.1. Trên thế giới
Cà chua là loại cây trồng tuy được chấp nhận như là một loại thực phẩm
và có lịch sử phát triển tương đối muộn nhưng do nó có khả năng thích ứng
rộng, hiệu quả kinh tế và giá trị sử dụng cao. Trên thế giới đã có nhiều giống
mới được ra đời nhằm đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của con người cả về
số lượng và chất lượng.
Theo FAO (2013), hiện nay có tới 158 nước trồng cà chua. Diện tích,
năng suất và sản lượng cà chua trên thế giới cho đến năm 2011 như sau:
4.734.356 nghìn ha, 10,58 tấn/ha, 159.023.383 tấn [14].
Trong số 10 loại rau được trồng và sử dụng phổ biến nhất thế giới thì cà
chua đứng thứ 2 chỉ sai khoai tây, diện tích lớn hơn nhiều lần so với các loại rau
khác, cho thấy được tầm quan trọng của cây cà chua trong vấn đề tiêu thụ và sử
dụng của thế giới (bảng 2.2).
So với các cây trồng khác, cà chua có lịch sử phát triển tương đối muộn
song với tính năng đa dụng về giá trị dinh dưỡng và hiệu quả kinh tế nên cà chua
được phát triển rộng khắp các châu lục.
Bảng 2.2. Diện tích 10 loại rau được trồng và sử dụng phổ biến trên thế giới
Đơn vị: triệu ha
Thứ tự Loại rau Diện tích
1 Khoai tây 18,95
2 Cà chua 4,73
3 Hành 2,08

4 Bắp cải 1,75
5 Ớt cay 1,20
6 Tỏi 0,80
7 Đậu Hà Lan 0,75
8 Cà rốt 0,67
9 Súp lơ 0,61
10 Cà tím 0,55
Nguồn: W.W.W.FAO.org (FAO Database Static)
Theo số liệu FAO (2013), diện tích trồng cà chua trên thế giới 2010 đạt
4,53 triệu ha, sản lượng 152,055 triêu tấn giảm hơn 1% so với năm 2009, tuy
nhiên vẫn tăng hơn so với các năm 2007, 2008 và có xu hướng tiếp tục tăng
sang năm 2011 với mức tang xấp xỉ 2% (bảng 2.3)
Bảng 2.3: Diện tích, năng suất và sản lượng cà chua toàn thế giới (2007 –
2011)
Năm Diện tích (1.000 ha) Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng (tấn)
2007 4.259,781 32,32 137.687.505
2008 4.237,231 33,29 141.068.130
2009 4.544,525 33,97 154.386.171
2010 4.532,372 33,54 152.055.325
2011 4.734,356 33,58 159.023.383
Nguồn: W.W.W.FAO.org (Static 2007, 2008, 2009, 2010, 2011)
Trong 10 năm (từ năm 2001 đến năm 2010) diện tích cà chua thế giới tăng
1,09 lần (từ 3.990,30 nghìn ha lên 4.338,83 nghìn ha), sản lượng tăng 1,35 lần
(từ 107.977,76 nghìn tấn lên 145.751,51 nghìn tấn), trong khi năng suất không
có sự thay đổi đáng kể.
Theo bảng 2.4 thì năm 2010, Châu Á có diện tích trồng là 2.439,49 nghìn
ha và sản lượng 81.812,01 nghìn ha, lớn nhất thế giới. Tuy nhiên Châu Úc và
Châu Mỹ có năng suất lớn nhất: Châu Úc là 63,28 tấn/ha và Châu Mỹ là 50,86

tấn/ha.
Bảng 2.4: Diện tích, sản lượng, năng suất cà chua của các châu lục năm
2010
Tên châu lục Diện tích
(100 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Châu Phi 860,74 20,02 17.236,03
Châu Mỹ 479,07 50,86 24.365,66
Châu Á 2.439,49 33,58 81.812,01
Châu Âu 553,4 39,32 21.760,15
Châu Úc 9,23 63,28 577,66
Nguồn: FAO Database Static 2011
Bảng 2.5: Những nước có sản lượng cà chua cao nhất thế giới năm 2010
STT Tên nước Sản lượng (nghìn tấn)
1 Trung quốc 41.879,68
2 Mỹ 12.902,00
3 Ấn Độ 11.979,70
4 Thổ Nhĩ Kỳ 10.052,00
5 Ai Cập 8.544,99
6 Italia 6.024,80
7 Iran 5.256,11
8 Tây Ban Nha 4.312,70
9 Brazil 3.691,32
10 Nga 2.000,00
Nguồn: FAO Database Static 2011
Cà chua là loại rau có hiệu quả kinh tế cao và là mặt hàng xuất khẩu quan
trọng của nhiều nước ở cả dạng ăn tươi và chế biến.

Đứng đầu về tiêu thụ cà chua là nước Mỹ, sau đó là các nước Châu Âu.
Lượng cà chua trao đổi trên thị trường thế giới năm 1999 là 36,7 triệu tấn, trong
đó cà chua dùng ở dạng ăn tươi chỉ chiếm 5-7%. Điều đó cho thấy cà chua được
sử dụng chủ yếu ở dạng đã qua chế biến.
Bảng 2.6: Những nước có giá trị nhập khẩu cà chua lớn nhất thế giới năm
2008
STT Tên nước Sản lượng
(tấn)
Giá trị (1000
$)
$/tấn
1 Mỹ 11116340 1431590 12.823,960
2 Nga 673894 628923 9.332,670
3 Đức 645966 1293840 19.754,310
4 Pháp 482546 559936 11.603,780
5 Anh 419045 745788 17.797,320
6 Canada 193297 276433 14.300,950
7 Tây Ban Nha 189319 79044 4.175,175
8 Hà Lan 156280 265068 18.240,850
9 Irắc 112129 61441 5.479,492
10 Ai Cập 103498 58049 5.608,707
Nguồn: FAO Database Static 2009
Cà chua chế biến được sản xuất ở nhiều nước trên thế giới nhưng nhiều
nhất ở Mỹ và Italia. Ở Mỹ gần 85% sản lượng cà chua chế biến được sản xuất ở
California với việc thu hoạch được cơ giới hóa toàn bộ. Sản xuất cà chua chế
biến ở Mỹ được thực hiện trên quy mô lớn, mỗi trang trại dao động từ 70 – 500
ha thậm chí tới 2400 ha [6]. Năm 2002, Mỹ đạt sản lượng nhiều nhất ước đạt
10,1 triệu tấn. Trong đó các sản phẩm cà chua chế biến chủ yếu là cà chua cô
đặc. Ở Italia, sản lượng cà chua chế biến ước tính đạt được là 4,7 triệu tấn.
Sản phẩm cà chua đã trở thành mặt hàng tiêu thụ phong phú. Mức tiêu thụ

cà chua trong khẩu phần ăn hàng ngày đã tăng mạnh trong 4 thập kỹ qua. Mặt
khác, sự phát triển nhanh chóng của ngành sản xuất đồ hộp với sự tham gia đáng
kể các sản phẩm chế biến đã làm cho mức tiêu thụ sản phẩm cà chua chế biến
tăng mạnh và ổn định.
Ở Châu Á, Đài Loan là một trong những nước có nền công nghiệp chế
biến cà chua sớm nhất.Ngay từ 1918, Đài Loan đã phát hiện cà chua đóng hộp.
Năm 1931 mặc dù sản xuất cà chua của Nhật Bản tăng lên nhưng sản phẩm cà
chua chế biến của Đài Loan vẫn được thị trường Nhật Bản chấp nhận và nổi
tiếng ở Nhật Bản.
Năm 1967 Đài Loan chỉ có 1 công ty chế biến cà chua là Kagome Food
Compaay là công ty liên doanh giữa Nhật Bản và Đài Loan, lúc đó công ty này
sản xuất cà chua đóng hộp và xuất khẩu sang Nhật Bản với 60% sản lượng, sau
đó ngành công nghiệp cà chua chế biến đã phát triển nhanh ở Đài Loan và đến
năm 1976 đã có tới 50 nhà máy sản xuất cà chua đống hộp .
Thái Lan là một nước ở khu vực Đông Nam Á có khí hậu nhiệt đới với đa
dạng của các chủng loại rau quả song gần đây Thái Lan cũng đã bắt đầu tập
trung vào các sản phẩm chế biến có gí trị cao. Một trong những sản phẩm đó là
cà chua cô đặc. Năm 1991 sản lượng cà chua của Thái Lan đạt 171,9 ngàn tấn
(Farrning Japan Vol 31/5/1997).
2.2.2. Tình hình sản xuất cà chua Việt Nam
Cà chua là cây mới du nhập vào Việt Nam mới được hơn 100 năm nhưng
đã trở thành một loại rau phổ biến và được sử dụng ngày càng rộng rãi. Cà chua
ở nước ta được trồng chủ yếu ở vụ đông với diện tích khoảng 6.800 – 7.300 ha
và thường tập trung ở các tỉnh thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ ( Hà Nội,
Hải Dương, Vĩnh Phúc….), còn ở miền nam tập trung ở các tỉnh An Giang,
Tiền Giang, Lâm Đồng…
Trong điều tra của TS. Phạm Đồng Quảng với CS, hiện nay cả nước có
khoảng 115 giống cà chua được gieo trồng, trong đó có 10 giống được gieo
trồng với diện tích lớn 6.259 ha, chiếm 55% diện tích cả nước. Giống M386
được trồng nhiều nhất ( khoảng 1432 ha), tiếp theo là các giống cà chua Pháp,

VL200, TN002, Red Crown…Ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1996 đến năm
2001, diện tích trồng cà chua tăng trên 10.000 ha (từ 7.059 ha lên 17.834 ha).
Đến năm 2008, diện tích đã tăng lên 24.850 ha. Năng suất cà chua nước ta trong
những năm gần đây tăng lên đáng kể. Năm 2008, năng suất cà chua cả nước là
216 tạ/ha bằng 87,10% năng suất thế giới (247,996 tạ/ha). Vì vậy sản lượng cả
nước tăng rõ rệt (từ 118.523 tấn năm 1996 lên 535.438 năm 2008).
Bảng 2.7: Diện tích, năng suất, sản lượng cà chua Việt Nam
Năm Diện tích(ha) Năng suất(tạ/ha) Sản lượng(tấn)
2004 24.644 172 424.126
2005 23.566 198 466.124
2006 22.962 196 450.426
2007 23.283 197 458.214
2008 24.850 216 535.438
Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê 2008
Cà chua là một loại rau ăn trái đã và đang nắm giữ vị trí quan trọng và là
tâm điểm nghiên cứu của các nhà chọn tạo giống cây trồng trong tương lai. Nhờ
vậy mà hàng loạt các giống cà chua mới, năng suất cao, phẩm chất tốt được ra
đời để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Để phục vụ công tác đó
cần sử dụng rất nhiều phương pháp như lai tạo, chọn lọc, xử lý đột biến, nuôi
cấy invitro…
Theo sô liệu thống kê của Cục Trồng trọt, trong những năm gần đây cho
thấy: Năm 1996 cả nước có 7509 ha với sản lượng 118,523 tấn, năng suất trung
bình đạt 280.289 tấn, năng suất trung bình đạt 157,17 tạ/ha, vào năm 2008 diện
tích trồng cà chua cả nước là 24.850 ha tăng 7.016 ha so với năm 2001, với năng
suất trung bình 216 tạ/ha, sản lượng đạt 535.438 tấn (bảng 2.8). Năng suất cả
nước ta năm 2007 đã có sự tiến bộ đáng kể sô với các năm trước và đạt 73% so
với năng suất chung của thế giới
Bảng 2.8: Diện tích, năng suất và sản lượng cà chuaViệt Namgiai đoạn 2007
– 2009
Năm Diện tích (1000

ha)
Năng suất (tấn/ha) Sản lượng
(200 tấn)
Cả nước
2007
2008
2009
23,13
24,85
20,54
19.68
21,55
24,97
455,58
535,44
494,33
Miền Bắc
2007
2008
2009
12,38
12,68
8,40
18,45
10,56
20,97
228,40
247,95
176,13
Đồng bằng sông Hồng

2007
2008
2009
7,83
8,09
5,77
22,00
23,38
23,90
172,10
189,29
238,32
Lâm Đồng
2007
2008
2009
4,06
4,64
5,14
33,86
39,76
43,18
137,52
184,39
221,94
Nguồn: Tổng cục Thống kê, 2006 – 2010
So cùng thời điểm 2009 thì Việt Nam chỉ đóng góp 0,005% về diện tích,
0,003% về sản lượng và đạt 70% về năng suất so với thế giới.
Nước ta cà chua tập trung ở một số vùng thuộc đồng bằng sông Hồng và
tỉnh Lâm Đồng: riêng 2 khu vực này chiếm hơn 50% diện tích, hơn 70% sản

lượng, năng suất cao hơn trung bình của cả nước, đặc biệt là tỉnh Lâm Đồng cao
hơn 1,8% lần so với cả nước. các tỉnh còn lại tuy diện tích, năng suất và sản
lượng không nhiều nhưng cũng đã đóng góp đáng kể về thành phần chung của
cả nước
Bảng 2.9:Sản xuất cà chua của một số tỉnh năm 2008
Địa phương Diện tích (ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
Cả nước
Lâm Đồng
Nam Định
Hải Phòng
Hải Dương
Hà Nội
Bắc Giang
Thái Bình
Hưng Yên
Thanh Hóa
Vĩnh Phúc
24859
4638
2076
1153
1219
1322
1193
552
697
1007
264
215,5
397,6

206,9
320,4
256,8
219,2
187,4
235,3
173,2
64,5
225,3
535438
134390
42959
36941
31301
28978
22351
12991
12970
6500
5943
Nguồn: Vụ nông nghiệp – Tổng cục thống kê (Niêm giám thống kê 2010, NXB
Hà Nội)
Những năm gần đây, với việc ứng dụng các giống cà chua có năng suất
cao, sản lượng cà cua của Việt Nam đã tăng lên rõ rệt và cây cà chua đang là
một trong những cây trồng có thế mạnh của nhiều vùng nông nghiệp trong cả
nước . Tuy nhiên theo Trần Khắc Thi (2003), sản xuất cà chua ở nước ta hiện
nay có một số tồn tại chhủ yếu: chưa có bộ giống tốt cho từng vụ trồng, đặc biệt
là các giống cho vụ thu dông, cà chua được trồng chủ yếu trong vụ đông xuân
(hơn 70%) từ tháng 12 – 4, còn hơn một nữa thời gian trong năm trong tình
trạng thiếu cà chua. Đầu tư cho sản xuất còn thấp, nhất là phân hữu cơ và thuốc

bảo vệ thực vật.chưa có quy trình canh tác và giống thích hợp cho mỗi vùng.
So với các nước trong khu vực, sản xuất cà chua ở Việt Nam có lợi thế rõ
rệt do khí hậu thời tiết, đất đai của nước ta, đặc biệt các tỉnh phía bắc phù hợp
cho sinh trưởng, phát triển của cà chua, nếu được đầu tư tốt, năng suất cà chua
sẽ rất cao. Diện tích cho phát triển cà chua còn rất lớn vì trồng trong vụ đông,
không ảnh hưởng đến hai vụ lúa nhưng sản phẩm lại là so với Trung Quốc, nước
có khối lượng cà chua lớn nhất thế giới (20 triệu tấn/năm).
Hiện nay chúng ta đã xây dựng được vùng nguyên liệu 1.000 ha tại Hải
Phòng, Hải Dương – phục vụ nhà máy chế biến cà chua cô đặc (công suất 3.500
– 3.800 tấn sản lượng/năm) phục vụ nội địa và sản xuất, kết quả thực hiện năm
2003 – 2004 đã thu mua được 4.000 tấn nguyên liệu phục vụ nhà máy (đạt 20%
công suất), tiêu thụ chủ yếu tại thị trường nội địa.
Nhìn chung, việc sản xuất, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm cà chua
trong thời gian qua đã có nhiều cố gắng. Tuy nhiên, thực tiễn đã xuất hiện một
số vấn đề tồn tại như:
-Năng suất tại các vùng sản xuất còn thấp
-Tình hình nhiễm sâu bệnh hại tại các vùng cà chua còn khá cao
-Sản phẩm tạo ra chưa có sự hấp dẫn
-Cạnh tranh cao về giá thành (giá thành sản phẩm cà chua cô đặc sản xuất
trong nước cao hơn giá trên thị trương thế giới là 100USD/tấn sản phẩm).
-Chất lượng sản phẩm còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của một số
thị trường (hình dạng, màu sắc, ).
-Một số hạt giống nhập ngoại có chất lượng tương đối tốt (cà chua Pháp,
Mỹ, ) tuy nhiên, giá hạt giống còn qúa cao đối với người sản xuất (20 – 25 triệu
đồng/kg hạt)
Đây cũng là một số nguyên nhân dẫn đến cà chua của chúng ta khó có thể
cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước trên thế giới.
Tuy nhiên theo dự đoán của một số nhà chuyên môn thì trong một vài
năm tới diện tích và năng suất đều sẽ tăng nhanh do:
- Các nhà chọn giống trong những năm tới sẽ đưa ra sản xuất hàng loạt

các giống có ưu điểm cả về năng suất và chất lượng, phù hợp tùng vùng sinh
thái, từng mùa vụ nhất là các vụ trái,giải quyết rau giáp vụ.
- Các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới sẽ được phổ biến và hướng dẫn nông
dân các tỉnh.
- Nước ta đã đưa vào một nhà máy chế biến cà chua cô đặc theo dây
chuyền hiện đại tại Hải Phòng với công suất 10 tấn nguyên liệu/ngày. Vì vậy
việc quy hoạch vùng trồng cà chua để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy đang
trở nên cấp thiết nhất là ở các tỉnh Hải Phòng, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương,
Thái Bình.
2.3. Tình hình bệnh héo xanh vi khuẩn Ralstonia solanacearum hại trên cây
cà chua và một số cây trồng khác
2.3.1. Trên thế giới
Bệnh HXVK phân bố rộng rãi, phổ biến và gây tác hại nghiêm trọng ở
vùng nhiệt đới, á nhiệt đới và những vùng có khí hậu ấm và ẩm trên thế giới.
Trên lạc, bệnh HXVK đã được công bố ở Indonesia vào năm 1905 (TD từ Đỗ
Tấn Dũng, 1999)và mức độ gây hại có thể làm giảm năng suất 90% đối với lạc,
16% đối với cà chua và 18% đối với khoai tây. Hàng năm ước tính thiệt hại do
bệnh HXVK trên lạc lên đến 50.000 đến 150.000 tấn (Machmud et al. 1994)
[15].
Ở Trung Quốc, bệnh HXVK gây hại nghiêm trọng trên nhiều loại cây
trồng và phân bố rộng rãi, không chỉ có trên cây họ cà như cà chua, cây cà,
khoai tây, thuốc lá, gừng, mà còn gây hại phổ biến trên cây thân gỗ như ôliu
(Olea europoeo), cây dâu (Moris alba). Trên lạc bệnh HXVK được phát hiện từ
những năm 1930 ở những vùng trồng lạc ở phía nam. Với diện tích trồng lạc 3,3
triệu ha, hàng năm có tới 200.000 ha (khoảng 6% trong tổng diện tích) bị nhiễm
bệnh với mức độ phân bố rộng rãi ở 17 tỉnh trồng lạc (TD từ Đỗ Tấn Dũng
1999). Mức độ nhiễm bệnh rất khác nhau và thay đổi theo vùng với 1 – 5% ở
các vùng có luân canh lạc- lúa, 10 – 30% ở những vùng khô còn những vùng bị
nặng tỷ lệ này lên đến 50% (OCRI, 1977). Bệnh gây thiệt hại ước tính 45.000 –
65.000 tấn lạc hàng năm (Tan et al. 1990).

Với điều kiện nóng ẩm của vùng nhiệt đới ở Malaysia, bệnh HXVK gây
hại nghiêm trọng trên nhiều loại cây trồng.Trên cây lạc tỷ lệ cây nhiễm bệnh
trung bình từ 5 đến 20% và là nguyên nhân chính làm diện tích trồng lạc giảm từ
5.197 ha năm 1980 còn 1.318 ha năm 1986 với sản lượng tương ứng từ 19.437
tấn giảm còn 5.000 tấn (Hamidah et al. 1993). Bệnh cũng được phát hiện trên
các cây trồng khác như: cà chua, khoai tây, thuốc lá, cây cà.
Bệnh HXVK do vi khuẩn R. solanacearum là một bệnh hại nghiêm trọng,
có phân bố rộng rãi ở Thái Lan. Bệnh được phát hiện trên cây cà chua từ năm
1957, cây ớt, cây khoai tây.Bệnh gây giảm năng suất đáng kể đối với cà chua,
khoai tây, gừng, cà, ớt, thuốc lá, lạc vừng.
Trên cà chua và cây cà ở Sri Lanka, bệnh HXVK được phát hiện từ năm
1930. Bệnh là đối tượng hạn chế sự mở rộng sản xuất cà, khoai tây. Trên cây cà
chua mức độ thiệt hại có thể lên đến 81,5% trên giống mẫn cảm Marglobe và
47% đối với giống Talatuoy. Các nghiên cứu về mức độ phổ biến, phân bố, tác
hại của bệnh đã được nhiều tác giả đề cập.
Ở Brazil, tỷ lệ bệnh HXVK trung bình trên cà chua của 30 vùng điều tra
là 13,1% trong đó có 7 vùng tỷ lệ bệnh từ 20,1 đến 50% và 1 vùng tỷ lệ bệnh lớn
hơn 90%.
2.3.2. Trong nước
Những thông tin đầu tiên về bệnh HXVK như một bệnh hại quan trọng
trên cây lạc được thể hiện trong báo cáo Đặng Thái Thuận năm 1968. Trong báo
cáo kết quả điều tra bệnh cây năm 1967 – 1968 của Viện Bảo vệ thực vật cũng
đã chỉ rõ bệnh HXVK khá phổ biến ở đồng bằng, trung du và miền núi phía Bắc
Việt Nam. Đối với cây cà chua, bệnh HXVK đã và đang là vấn đề nan giải và
nghiêm trọng đối với các vùng trồng rau ngoại thành Hà Nội và các vùng phụ
cận. Tạ Thu Cúc và CTV (1983) [2] cho biết: trong các loại bệnh chủ yếu hại
cây cà chua như mốc sương, virus, bệnh HXVK thì bệnh HXVK do loài R.
solanacearum gây hại nghiêm trọng. Bệnh phát sinh và gây hại nặng ở những
vùng đất trũng, không thoát nước, đất thịt nặng hoặc những chân ruộng bón
nhiều đạm, không cân đối với lân và kali.

Nghiên cứu về phạm vi ký chủ của loài R. solanacearum Smith, Đoàn Thị
Thanh và CTV (1995) cho rằng vi khuẩn R. solanancearum không những gây
hại trên cây khoai tây mà còn ký sinh và gây hại trên cây cà chua, thuốc lá, lạc,
cây cà. Tác giả còn cho rằng đây là loài vi khuẩn đa thực, có phạm vi , ký chủ
rộng, gây hại chủ yếu trên các cây thuộc họ cà (Solanaceae), họ đậu
(Leguminasae).
Lê Lương Tề (1997) [10] đã nghiên cứu về triệu chứng của bệnh héo
xanh, đặc tính sinh học và quy luật phát sinh phát triển của bệnh và một số
hướng phòng trừ. Tác giả đã nêu ra phạm vi ký chủ của loài vi khuẩn R.
solanacearum trên cây cà chua, khoai tây, lạc, thuốc lá, cây cà, vừng, ớt và cây
đay.
Nghiên cứu về tính phổ biến của bệnh HXVK trên cây trồng cạn, tác giả
Đỗ Tấn Dũng (1995) [6] cho rằng bệnh HXVK phát sinh phát triển và gây hại
nghiêm trọng trên cây cà chua, khoai tây, lạc. Trên cây thuốc lá tỷ lệ nhiễm bệnh
do R. solanacearum có phần nhẹ hơn.
Đỗ Tấn Dũng đã cho biết những kết quả nghiên cứu ban đầu về bệnh
HXVK hại cây cà chua, đặc tính sinh học của vi khuẩn gây bệnh, phương pháp
chuẩn đoán nhanh và một số biện pháp phòng chống ban đầu trên một số cây
trồng cạn như lạc, thuốc lá, cà chua, v.v
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng với việc xuất hiện ngày
càng nhiều “vành đai xanh” để đáp ứng nhu cầu cung cấp rau và sản phẩm rau,
quả, nông sản thực phẩm cho các thành phố thì việc hình thành những vùng
chuyên canh rau màu là tất yếu. Đó cũng là tiền đề quan trọng cho việc phát
sinh, phát triển và lan truyền của bệnh với tốc độ ngày càng nhanh. Trên quan
điểm này tác giả Tung P.X (1986) cho rằng bệnh HXVK phổ biến ở các vùng
sản xuất cà chua, khoai tây, thuốc lá, lạc với mức độ nhiễm bệnh biến động tùy
thuộc chủng loại cây trồng, vùng sinh thái và có tính mùa vụ, tùy thuộc điều
kiện thời tiết. Cũng theo tác giả thì ở Việt Nam bệnh gây hại nghiêm trọng
trong mùa nóng ẩm (tháng 4 đến tháng 10) và có xu thế nhẹ ở những tháng mùa
khô (tháng 11 đến tháng 3). Riêng ở khu vực Đức Trọng (Lâm Đồng) thì có hơn

15% diện tích khoai tây bị nhiễm bệnh HXVK.
Về tác hại của bệnh HXVK đối với khoai tây trong quá trình bảo quản,
Ngô Đức Thiệu và CTV (1978) cho rằng R. solanacearum có thể là nguyên
nhân của bệnh thối ướt và gây thiệt hại khoảng 20 – 25%.
Kết quả nghiên cứu bệnh HXVK hại khoai tây của Viện Bảo vệ thực vật
(1971 – 1976) đã chỉ ra rằng bệnh hại nguy hiểm đối với các vùng sản xuất
khoai tây. Những yếu tố sinh thái liên quan tới sự phát sinh, phát triển và tác hại
của bệnh trên khoai tây cũng đã được đề cập.
Hà Minh Trung và CTV (1989) khi nghiên cứu bệnh HXVK trên các
giống khoai tây nhập nội đã chỉ ra rằng triệu chứng, nguyên nhân gây bệnh chết
xanh của khoai tây trên đồng ruộng là do R. solanacearum gây ra. Tác giả cũng
cho rằng loại bỏ củ bệnh, củ xây xát sẽ góp phần hạn chế sự lây lan phát triển
của bệnh.
Khi điều tra sâu bệnh hại trên cây thuốc lá ở vùng đồng bằng và trung du
miền Bắc Việt Nam, Vũ Triệu Mân cho rằng bệnh HXVK trên thuốc lá ở vùng
Ba Vì là dịch hại nguy hiểm nhất. Kết quả điều tra và khảo sát tình hình nhiễm
bệnh trên 7 giống thuốc lá: C176, K326, C347, K51M, DVD, VIR131, XNN ở 3
vụ trồng trong vụ xuân cho thấy bệnh phát sinh và gây hại nặng trên tất cả các
giống, đặc biệt là giống K51M và giống DVD có tỷ lệ bệnh ở cuối vụ đến 100%,
các giống C176 và K326 có mức nhiễm nhẹ hơn, nguyên nhân có thể là do trồng
độc canh cây thuốc lá trên cùng một vùng đất mà không có sự luân canh với láu
nước.
Theo Đường Hồng Dật (1977) [4] bệnh HXVK gây hại thuốc lá ở các giai
đoạn sinh trưởng, bệnh thường nặng ở giai đoạn cây đã lớn, sắp và đang thu
hoạch lá. Bệnh phát triển thuận lợi trong điều kiện độ ẩm cao.Vi khuẩn gây bệnh
có thể tồn tại lâu dài trong đất ẩm và trong tàn dư cây nhiễm bệnh.
Cũng như trên thuốc lá, kết quả điều tra, nghiên cứu thành phần sâu bệnh
hại thuốc lá vàng ở phía Bắc Việt Nam của Viện Kinh tế Kỹ thuật Thuốc lá
(Nguyễn Văn Biếu và CTV 1996) [1] cho biết: bệnh HXVK là một trong những
bệnh phổ biến ở các vùng trồng thuốc lá như Hà Tây, Bắc Giang, Cao Bằng,

Lặng Sơn, Hà Nội. Bệnh phát sinh và gây hại nặng ở Ba Vì, Hà Tây, nơi tỷ lệ
bệnh lên đến 20%, trong khi đó ở các vùng khác bệnh nhẹ hơn. Các tác giả cho
rằng bệnh HXVK phát sinh, phát triển tùy thuộc vào thời vụ, giống, kỹ thuật
canh tác và vùng sinh thái trồng cây thuốc lá. (Mehan và CTV, 1991).
Năm 1964, Trại thí nghiệm Bắc Trung bộ (Nghệ An) đã phát hiện thấy
bệnh xuất hiện rải rác ở một số vùng trồng lạc ven sông Lam, song đến năm
1966 trở đi bệnh phát triển rộng khắp tất các nơi, trên tất cả các vùng đất màu,
đất cát, đất đồi, đất đỏ bazan, ở vùng đồng bằng cũng như trung du. Bệnh gây
hại nghiêm trọng với mức độ gây thiệt hại từ 10 – 30%, tuy nhiên có nhiều
trường hợp bệnh làm mất thu hoạch hoàn toàn, nhất là Nghệ An (Đặng Thái
Thuận và CTV, 1968).
Báo cáo tại Hội nghị quốc tế các nhóm công tác nghiên cứu về bệnh
HXVK hại lạc lần thứ 3 tại Trung Quốc do Viện Nghiên cứu cây trồng cạn quốc
tế (ICRISAT) tổ chức, tác giả Nguyễn Xuân Hồng và CTV (1994) đã báo cáo
hiện trạng bệnh HXVK hại lạc tại Việt Nam. Tác giả cho biết bệnh HXVK hại
lạc là một trong những loại bệnh phổ biến, bệnh phát sinh, phát triển thuận lợi
trong điều kiện nhiệt độ và độ ẩm tương đối cao. Bệnh này gây hại nặng hơn ở
vụ lạc thu so với vu lạc xuân.

×