Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Khóa luận tốt nghiệp rèn luyện kĩ năng tự nhận thức bản thân thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh cho trẻ 4 – 5 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 94 trang )

1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục mầm non là bậc học giáo dục đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân, có vai trị quan trọng trong việc đặt nền móng cho sự hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện của trẻ mầm non. Để đáp ứng sự phát triển giáo
dục hiện nay, Đảng và Nhà nước ta không ngừng cải cách, đầu tư mạnh mẽ cho
việc chăm sóc, giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. Đảng và Nhà nước ta xác
định: Giáo dục là quốc sách hàng đầu và là chìa khóa mở cửa vào tương lai, đó là
cơ sở, là động lực để thúc đẩy phát triển xã hội. Chính vì thế, giáo dục có nhiệm
vụ: đào tạo cho đất nước những con người năng động, sáng tạo, có tư duy nhạy
bén, có tri thức, có kĩ năng và có khả năng giải quyết vấn đề để thích ứng với sự
phát triển của xã hội.
Một trong những cơ sở để tạo ra sự chuyển đổi này là ở mỗi người cần có
khả năng TNTBT. Nghĩa là người được giáo dục phải có hiểu biết nhất định về
bản thân, biết khả năng và hạn chế của mình trong hoạt động để có niềm tin vào
bản thân, có thể điều khiển hành vi, hành động của mình trong mối quan hệ với
mọi người xung quanh nhằm tạo ra được hiệu quả cao trong hoạt động. Do đó,
việc giáo dục TNTBT của mỗi người là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, để thực
hiện được điều đó là vấn đề đang được gia đình và xã hội quan tâm.
Trong gia đình, việc ni dạy trẻ khỏe mạnh, thơng minh, trở thành người
có ích cho xã hội đã trở thành yêu cầu, mục tiêu hàng đầu của các bậc làm cha
làm mẹ. Thế nhưng, trong cuộc sống hiện nay, khơng hiếm những sự việc đau
lịng xảy ra khiến mọi người khơng khỏi giật mình, và chính những người làm
cha mẹ luôn canh cánh nỗi lo bên mình. Dạy trẻ kĩ năng sống là việc làm thiết
thực nhất mà cha mẹ có thể làm cho con. Cùng với sự phối hợp với nhà trường
và toàn xã hội, chúng ta có thể giáo dục cho trẻ em những kĩ năng sống cần thiết,
trong đó có kĩ năng TNTBT thơng qua nhiều hình thức khác nhau.
Trẻ em lứa tuổi mầm non nói chung và trẻ 4 - 5 tuổi nói riêng có nhu cầu
cao trong việc nhận thức TGXQ. Hoạt động khám phá MTXQ giúp trẻ hiểu biết
sự vật, hiện tượng và con người trong môi trường sống, và chính trong q trình


tìm hiểu, khám phá TGXQ đứa trẻ cũng có nhiều cơ hội trải nghiệm và khám phá
chính mình. Trẻ nhận ra chính mình, nhận ra năng lực của mình, biết được những


2
khả năng và giới hạn của mình. Từ đó, trẻ biết tự điều chỉnh hành vi của bản thân.
Do vậy, hoạt động khám phá MTXQ là một trong những hoạt động có ưu thế để rèn
luyện kĩ năng TNTBT cho trẻ mẫu giáo.
Thực tế, tại các trường mầm non cho thấy: Mặc dù đã được triển khai các
hoạt động GD kĩ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, việc rèn luyện kĩ năng TNTBT
cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi cịn mờ nhạt. Mặc dù, trong chương trình GD mầm
non hiện hành, chủ đề tìm hiểu bản thân đã được thực hiện ngay từ độ tuổi nhà
trẻ. Nhưng, do giáo viên chưa xác định đúng đắn về tầm quan trọng của việc giáo
dục kĩ năng này cho trẻ. Vì vậy, việc giáo dục kĩ năng TNTBT cho trẻ còn chưa
được chú trọng, do đó mà hiệu quả giáo dục chưa cao.
Xuất phát từ lí do trên, chúng tơi chọn đề tài: “Rèn luyện kĩ năng tự nhận thức
bản thân cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh”.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lí luận cơ bản về kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5
tuổi, xác định nội dung TNTBT và vai trò của việc rèn kĩ năng nhận thức bản
thân cho trẻ 4 - 5 tuổi .
- Xác định cơ sở khoa học của việc xây dựng các biện pháp rèn kĩ năng
cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động khám phá môi trường xung quanh.
2.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Bước đầu tìm hiểu về mức độ và biểu hiện kĩ năng TNTBT của trẻ 4 - 5
tuổi tại một số trường mầm non trên địa bàn thị xã Phú Thọ.
- Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi thông
qua hoạt động khám phá MTXQ.
3. Mục đích nghiên cứu

Xây dựng cơ sở lí luận và thực tiễn của việc rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4
- 5 tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ. Từ đó, góp phần hình thành các
kĩ năng sống cần thiết cho trẻ và phát triển toàn diện nhân cách trẻ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. - Nghiên cứu những vấn đề lí luận về việc rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5
tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ.


3
4.2. - Xác định thực trạng về việc rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi thông
qua hoạt động khám phá MTXQ.
4.3. Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua
hoạt động khám phá MTXQ.
4.4. Thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của một số biện pháp rèn
kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi
thông qua hoạt động khám phá MTXQ.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trẻ thuộc lớp 4 - 5 tuổi trường mầm non
Hùng Vương và trường mầm non Phong Châu - Thị xã Phú Thọ - Tỉnh Phú Thọ.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Sưu tầm, đọc, phân tích và tổng hợp những tài liệu có liên quan đến đề tài
nghiên cứu và xây dựng hệ thống hóa, khái qt hóa các vấn đề lí luận về việc
rèn kĩ năng TNTBT cho trẻ 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động MTXQ.
6.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát và ghi chép quá trình giáo dục kĩ năng TNTBT cho trẻ mẫu giáo
4 - 5 tuổi của giáo viên mầm non và biểu hiện tự nhận thức bản thân,
6.2.2. Phương pháp đàm thoại

- Trao đổi với giáo viên để có thêm thơng tin về vấn đề nghiên cứu.
- Trò chuyện với trẻ mẫu giáo 4 - 6 tuổi để biết được mức độ và biểu hiện
của kĩ năng TNTBT của trẻ.
6.2.3. Phương pháp điều tra Anket
Sử dụng phiếu Anket bằng hệ thống câu hỏi đóng và mở để điều tra cán
bộ quản lí và giáo viên mầm non. Từ đó, xác định rõ nhận thức của cán bộ quản
lí và giáo viên mầm non về một số vấn đề liên quan đến kĩ năng TNTBT của trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
6.2.4. Phương pháp thống kê tốn học
Sử dụng cơng thức tốn học để xử lí số liệu kết quả thu được qua điều tra
thực trạng kĩ năng TNTBT của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.


4
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Kiểm nghiệm và đánh giá tính khả thi của việc rèn luyện kĩ năng TNTBT
cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi thông qua hoạt động khám phá MTXQ.


5
NỘI DUNG
Chương1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Những nghiên cứu ở nước ngồi
Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, con người được đặt vào vị trí trung
tâm của sự phát triển, là những con người của thế kỉ XXI, của nền văn minh tin
học, công nghiệp sinh học, năng lượng mới, vật liệu mới… Do vậy, họ phải có
nhân cách, phẩm chất, đáp ứng địi hỏi của xã hội hiện đại là tích cực, chủ động,
linh hoạt, sáng tạo. Một trong những vấn đề quan trọng nhất trong việc nghiên

cứu sự phát triển tâm lí của trẻ nói chung và trẻ mầm non nói riêng đó là mối
liên quan chặt chẽ đến sự phát triển tự ý thức. Hạt nhân của sự tự ý thức là
TNTBT. Qua tìm hiểu, chúng tơi thấy được rằng: Vấn đề này được rất nhiều
người quan tâm. Trên thế giới, đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về vấn đề này.
Tựu chung lại, có thể tổng hợp theo hai hướng:
* Hướng thứ nhất: Nghiên cứu kĩ năng tự nhận thức là kĩ năng sống cần thiết
Trong cơng trình “Vấn đề tự ý thức trong tâm lí học (1977)”
I.I.Trexnơcơva cho rằng TNT là một thành phần trong cấu trúc của tự ý thức,
trong cấu trúc đó gồm 3 mặt thống nhất: nhận thức (tự nhận thức), cảm xúc - giá
trị (thái độ đối với bản thân) và hành động - ý chí, điều khiển (tự điều chỉnh)
[20]. Việc hình thành và rèn luyện kĩ năng TNTBT cho trẻ được I.I.Trexnôcôva
cho là kĩ năng sống rất cần thiết đối với trẻ.
Nhà tâm lí học người Mĩ D.Mead cho rằng, trong mối tương tác với những
người khác trong quá trình hoạt động của mỗi con người trở thành khách thể
nhận thức của chính mình. Nhận thức bản thân không được thực hiện trực tiếp
mà gián tiếp qua thái độ của cá nhân đó với những người khác trong nhóm người
hoặc tồn bộ nhóm nói chung. Ơng cho rằng, nguồn gốc hình thành tự ý thức là
trị chơi của trẻ. Đầu tiên, đó là những trị chơi lặp lại hành động của người lớn.
Thơng qua hoạt động vui chơi, trẻ đã dần hình thành kĩ năng sống đầu tiên, cơ
bản cần thiết cho trẻ. Đặc biệt, vấn đề này cũng được các tổ chức trên thế giới
quan tâm:
Theo tổ chức y tế thế giới WHO [33; tr8] KNS được chia thành ba nhóm:


6
- Nhóm kĩ năng nhận thức: TNTBT, tự đạt mục tiêu và xác định giá trị, kĩ
năng tư duy, kĩ năng sáng tạo, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề.
- Nhóm kĩ năng liên quan đến cảm xúc: Kĩ năng nhận biết và chịu trách
nhiệm về cảm xúc của mình, kĩ năng kiềm chế, kiểm sốt được cảm xúc, kĩ năng
tự giám sát, tự điều chỉnh cảm xúc cá nhân.

- Nhóm kĩ năng xã hội: Kĩ năng giao tiếp, kĩ năng cảm thông, kĩ năng chia
sẻ, kĩ năng hợp tác, thích ứng.
Kĩ năng sống bao gồm 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải
quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình
huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thơng, tư duy bình luận và phê phán,
cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết [43].
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hố Liên Hiệp Quốc UNESCO [30;
tr9] thì kĩ năng sống được phân chia theo hai nhóm:
- Nhóm kĩ năng chung: Kĩ năng nhận thức, kĩ năng liên quan đến cảm xúc,
kĩ năng cơ bản về xã hội.
- Nhóm kĩ năng chuyên biệt: Các kĩ năng về sức khỏe và dinh dưỡng, các
kĩ năng liên quan đến giới và giới tính, các kĩ năng liên quan đến môi trường và
thiên nhiên, gia đình, cộng đồng.
Theo cách phân loại của UNESCO, thì kĩ năng tự nhận thức là kĩ năng sống
quan trọng và mang tính chất tiền đề. Tự nhận thức cho con người khả năng sống nhân
ái, đúng mực với mọi người. Ngồi ra, tự nhận thức cịn giúp chúng ta hiểu đúng về
mình, từ đó có những quyết định, lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản
thân, với điều kiện hoàn cảnh thực tế và với yêu cầu của xã hội [44].
Theo một số tài liệu như Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc UNICEF [32; tr9].
Kĩ năng sống được chia ra làm ba nhóm:
- Nhóm kĩ năng nhận thức và sống của chính mình: Tự nhận thức và đánh giá
bản thân, kĩ năng xây dựng mục tiêu cuộc sống, kĩ năng bảo vệ bản thân.
- Nhóm kĩ năng tự nhận thức và sống với người khác: Kĩ năng thiết lập
quan hệ, kĩ năng hợp tác, kĩ năng làm việc nhóm.
- Nhóm kĩ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả: Phân tích vấn đề,
nhận thức thực tế, ra quyết định, ứng xử, giải quyết vấn đề.
Kĩ năng sống phải là những khả năng thuộc về năng lực các nhân, giúp
bản thân tồn tại và làm chủ cuộc sống của mình cũng như đạt được mục tiêu
sống một cách hiệu quả. Kĩ năng sống là những trải nghiệm có hiệu quả nhất,
giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể, trong suốt quá trình tồn tại và



7
phát triển của con người. Kĩ năng sống bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể
và tư duy trong não bộ của con người. Kĩ năng sống có thể hình thành một cách
tự nhiên, thơng qua học tập hoặc rèn luyện của con người.
Trong cách phân loại của WHO, UNESCO, UNICEF và những quan niệm
của các nhà tâm lí học trên thế giới đều có sự khẳng định tầm quan trọng của kĩ
năng tự nhận thức và kĩ năng tự nhận thức được coi là một trong những kĩ năng
sống cần thiết.
* Hướng thứ hai: Nghiên cứu về kĩ năng tự nhận thức ở trẻ mầm non
Trước hết phá kể đến các nghiên cứu của S. Freud [16; tr47] cho rằng:
Nhân cách con người gồm ba cấp: cái “Nó”, cái “Tơi”, và cái “Siêu tơi”. Cái
“Nó” gồm tất cả những xung lực bản năng thôi thúc đứa trẻ địi hỏi được thỏa
mãn để tìm khối cảm. Về nguồn gốc, cái “Nó” là một hệ thống các nhu cầu có
sức mạnh và động lực nhất định. Mâu thuẫn giữa đứa trẻ và thực tế dần dần tập
ra cái “Tôi”, trẻ cảm nhận về bản thân mình đối lập với các đồ vật và những đồ
vật và những người khác, tức là cảm nhận được thực tế. Đó là nguồn gốc của cái
“Tơi”, sau này chính là phần ý thức của con người biết suy nghĩ và đòi hỏi thực
tế chứ không phải theo dục vọng của bản thân. Những cấm đoán mệnh lệnh,
khuyên bản của người lớn dần dần được nhập tâm và biến thành vô thức chi phối
hành vi của trẻ, đó là cái “Siêu tơi”. S. Freud cho rằng: việc xuất hiện cái “Siêu
tôi” vừa là một sự kiện mang tính chất cá nhân vừa có tính chất lịch sử. Cái
“Siêu tôi” được tạo ra và hoạt động như đại diện cho các lực lượng kiềm chế của
cha mẹ và đảm nhiệm chức năng kiểm soát cái “Tôi”. Theo S. Freud, giữa ba cấp
này luôn xảy ra xung đột.
Vấn đề hình thành kĩ năng tự nhận thức khơng chỉ có S. Freud nghiên cứu
mà cịn được nhiều nhà tâm lí khác quan tâm như: P. Janet, M.Lixina… Mỗi tác
giả, mỗi trường phái có những ý kiến khác nhau song đều thống nhất với nhau
rằng kĩ năng được hình thành trong hoạt động. Kĩ năng tự nhận thức được hình

thành và phát triển theo từng giai đoạn với các mức độ từ thấp tới cao. Mức độ
thấp là những kĩ năng nguyên phát - dạng kĩ năng đơn giản, tương ứng với
những thao tác của hành động nhất định. Mức độ cao là các kĩ năng thứ phát - là
tập hợp của nhiều yếu tố để tạo nên kĩ năng phức hợp, nâng cao. Quan điểm này
tương đối phù hợp cho nghiên cứu những kĩ năng chuyên sâu trong lĩnh vực hoạt


8
động chuyên môn. Kĩ năng tự nhận thức của trẻ được nhiều nhà tâm lí, giáo duc
và các nhà khoa học tiếp cận, xem xét. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu này thật
sự đầy đủ, thống nhất khi đem kĩ năng tự nhận thức đó được đặt ở góc độ rộng
hơn khi nó kết nối các yếu tố kiến thức, kĩ thuật và giá trị (thái độ, niềm tin)
trong hành vi của một hoạt động nhất định.
Tóm lại, vấn đề TNTBT của trẻ mẫu giáo được rất nhiều nhà khoa học
trên thế giới nghiên cứu. Việc rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ là một hoạt động
không thể thiếu trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Đó là một
trong những vấn đề mà thế giới đang quan tâm, chú trọng và đề cập trong công
tác quản lí giáo dục.
1.1.2. Những nghiên cứu ở Việt Nam
Khơng chỉ những nhà tâm lí học, giáo dục học hay các nhà khoa học trên
thế giới nghiên cứu về vấn đề nhận thức của trẻ mẫu giáo mà ở Việt Nam cũng
có rất nhiều nhà nghiên cứu đã và đang quan tâm đến vấn đề này. Tuy nhiên, các
nghiên cứu đều tập trung theo hai hướng nghiên cứu cơ bản sau:
* Hướng thứ nhất: Nghiên cứu về kĩ năng tự nhận thức là kĩ năng sống
cần thiết
Các tác giả Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Thiên Thạch, Đinh Thị Tứ, Nguyễn
Thị Huệ, Nguyễn Cơng Khanh...trong các cơng trình nghiên cứu đã xác định
nguồn gốc, cơ sở hình thành kĩ năng tự nhận thức là sự kết hợp hài hòa giữa yếu
tố vật chất, tinh thần của mỗi con người với môi trường xã hội, trong đó mơi
trường hoạt động và giao tiếp đóng vai trị quan trọng. Thơng qua mơi trường, trẻ

được tham gia hoạt động, nhận thức và trải nghiệm cuộc sống [41].
Tự nhận thức của trẻ mẫu giáo được các tác giả Ngơ Cơng Hồn, Nguyễn
Ánh Tuyết [36] trong các cơng trình nghiên cứu về sự phát triển tâm lí của trẻ
em đã đề cập đến. TNTBT là một kĩ năng sống rất cơ bản của con người, là nền
tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng
như để có thể cảm thơng được với người khác. Ngồi ra, có hiểu đúng về mình,
con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù
hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Hoạt
động khám phá MTXQ giúp trẻ hiểu biết sự vật, hiện tượng và con người trong


9
mơi trường sống. Trẻ nhận ra chính mình, nhận ra năng lực của mình, biết được
những khả năng và giới hạn của mình. Từ đó, trẻ biết điều chỉnh bản thân.
Học kĩ năng sống khơng có nghĩa là học những gì cao siêu đặc biệt, mà
chính là học cách để làm việc, sinh hoạt, vận động, giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày, xoay quanh bản thân, gia đình, và mơi trường xã hội, những người lạ
không quen biết. Để sống hài hịa, thích nghi và thoải mái trong đời sống xã hội,
biết cách đối phó với những tình huống bất thường phát sinh hay khơng bị mất
bình tĩnh trước những nguy cơ đột ngột, cần cho trẻ được học và rèn luyện ngay
từ nhỏ, từ những bản năng tự nhiên như việc học ăn, học nói, học đi, đứng, ngủ
nghỉ... đến việc học để có kiến thức và nhận thức về bản chất của cuộc sống, tôn
trọng môi trường sống, môi trường thiên nhiên xung quanh, và giao tiếp, ứng xử
trung thực, khơn ngoan, lịch sự với mọi người.
Nói chung, khơng chỉ có các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu về kĩ
năng sống cho trẻ mà các nhà tâm lí, nhà giáo dục… ở Việt Nam đã và đang thực
hiện công cuộc đổi mới giáo dục, tăng cường rèn luyện kĩ năng sống cho trẻ lứa
tuổi mầm non. Điều đó cho thấy, kĩ năng sống là một trong những kĩ năng cần
thiết, quan trọng đối với trẻ, đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo.
* Hướng thứ hai: Nghiên cứu kĩ năng tự nhận thức ở trẻ mầm non

Theo tâm lí học phát triển, nhóm tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Nguyễn
Ánh Tuyết, Nguyễn Kế Hào, Phan Trọng Ngọ, Đỗ Thị Hạnh Phúc [15] cho rằng:
dấu hiệu đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách là sự xuất hiện của tự ý
thức, cịn được gọi là “cái tơi” hay ý thức bản ngã, tức là tự nhận thức về bản
thân mình.
Việc trẻ ý thức được bản thân liên quan tới bốn sự kiện sau:
- Thứ nhất, trẻ tự nhận ra bản thân bắt đầu từ hình dáng bên ngồi và bộ
phận cơ thể của mình.
- Thứ hai, trẻ nhận ra và kiểm sốt được xúc cảm của mình.
- Thứ ba, hình thành cái tơi ban đầu về bản thân bao gồm cả nhận biết về
giới tính.
- Thứ tư, tự đánh giá về hành vi của bản thân.
Bước cao hơn của tự ý thức là trẻ biết tự nhận xét, tự đánh giá hành vi của
mình. Ban đầu trẻ dựa vào lời nhận xét của người lớn về mình, về bạn cùng tuổi


10
hay nhận vật trong truyện mà người lớn cho là tốt hay xấu và bày tỏ thái độ khen
chê rõ ràng. Trẻ phân biệt được điều này căn cứ vào thái độ của người lớn.
Nhóm tác giả Ngơ Cơng Hồn, Trương Thị Khánh Hà [17; tr202] lại cho rằng:
Nhận thức được mục đích sống là điều quan trọng giúp ta tự thay đổi mình
để đạt được những thành tựu nho nhỏ. Tự ý thức là khả năng nhận biết những
đăc điểm khác biệt của bản thân trong so sánh với những người xung quanh; là
khả năng nhận biết bản thân như tồn tại khách quan với những đặc điểm có một
không hai.
Tự ý thức “cái tôi” bản thân sau này là chủ nhân của mọi hành động cá
nhân sau này. Cái tôi được hợp thành bởi ba phần:
- Bản ngã sinh lí: thân xác là tiền đề vật chất, ta nhận biết bản thân ta nhờ
có hoạt động của giác quan. Người ta hãnh diện về cơ thể cân đối, hài hòa, khỏe
mạnh, và ngược lại thất vọng về những thiếu khuyết của bản thân.

Ta nhận biết, ý thức được về thân xác mình nhờ phổ giác - thứ cảm giác
chung về tình trạng cơ thể như thoải mái, thanh thản hoặc bức xúc, băn khoăn về
một việc nào đó….
- Bản ngã xã hội (cái tôi xã hội): ta nhận biết được vị trí xã hội của mình
trong các nhóm xã hội. Một dấu hiệu nhận biết sớm của cá nhân mang tính xã
hội đó là danh tính, tên chúng ta; họ và tên người, nhờ đó ta phân biệt được
những cá nhân này với cá nhân khác.
- Bản ngã tinh thần (tâm lí): là những năng lực, năng khiếu, kinh nghiệm
cá nhân, thói quen, hành động, tính tình đời sống xúc cảm. Cái “tôi” “quá khứ”,
“hiện tại” và “tương lai” là động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động đạt những thành
tựu trong cuộc sống.
Ngoài ra, một số tác giả khác như: Nguyễn Thị Thư, Trần Thị Bích Ngọc,
Bùi Thị Hồi [16]… cũng đã có các đề tài nghiên cứu về vấn đề tự nhận thức, sự
hình thành kĩ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo.
Như vậy, đã có rất nhiều nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước về vấn
đề rèn lXuyện kĩ năng nhận thức bản thân của trẻ. Các nghiên cứu đi theo những
xu hướng khác nhau nhưng đều đã chỉ ra vai trò của việc rèn luyện kĩ năng
TNTBT đối với sự phát triển tâm lí, nhân cách trẻ, khẳng định ý nghĩa to lớn của
việc rèn luyện kĩ năng TNTBT cho trẻ lứa tuổi mầm non. Việc khám phá MTXQ


11
là cơ hội tốt để các nhà giáo dục cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm,
khám phá, tìm hiểu bản thân, biết tự điều chỉnh hành vi của bản thân, qua đó
giúp trẻ rèn luyện được kĩ năng TNTBT một cách đúng đắn và hiệu quả.
1.2. Một số vấn đề lí luận về tự nhận thức
1.2.1. Các khái niệm cơ bản
1.2.1.1. Khái niệm kĩ năng
Kĩ năng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lí học, giáo dục trong và ngồi
nước quan tâm. Ở các góc độ khác nhau, các tác giả có những quan niệm khác

nhau về KN, nhưng tổng kết lại có 2 quan niệm về KN như sau:
- Quan niệm thứ nhất, xem xét kĩ năng nghiêng về mặt kĩ thuật của hành
động. Theo quan niệm này, kĩ năng là phương tiện thực hiện hành động mà con
người đã nắm vững. Người có kĩ năng hoạt động nào đó là người nắm được các
tri thức về hoạt động đó và thực hiện hành động theo đúng u cầu cần có của nó
mà khơng cần tính đến kết quả của hành động [Dẫn theo 25].
- Quan niệm thứ hai, xem xét kĩ năng nghiêng về mặt năng lực của con
người. Kĩ năng không chỉ đơn thuần là kĩ thuật hành động mà nó cịn là biểu hiện
của năng lực, kĩ năng vừa có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo. Nhờ có sự mềm
dẻo mà con người có tính sáng tạo hoạt động thực tiễn. Ở đây, các tác giả có chú
ý đến kết quả của hành động.
Kĩ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm vào hoạt động hay hành
động thực tiễn trong điều kiện cụ thể để thực hiện hành động hay hoạt động đó
có kết quả theo mục đích đã đề ra.
Người có KN hành động trong một lĩnh vực hoạt động được biểu hiện ở
những dấu hiệu sau đây:
+ Có tri thức về hành động: nắm được mục đích hành động; nắm được
cách thức thực hiện hành động và các điều kiện thực hiện hành động.
+ Thực hiện hành động đúng với các yêu cầu của nó.
+ Hành động đạt kết quả theo mục đích đề ra.
+ Có thể thực hiện hành động có kết quả trong những điều kiện thay đổi.
1.2.1.2. Khái niệm nhận thức
Nhận thức đã được các nhà triết học và các nhà tâm lí học quan niệm như sau:


12
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, nhận thức được định nghĩa là
quá trình phản ánh biện chứng hiện thực khách quan vào trong bộ óc của con
người, có tính tích cực, năng động, sáng tạo, trên cơ sở thực tiễn. Nhận thức là
một dạng hoạt động cơ bản của đời sống tâm lí con người: Nhận thức, tình cảm,

hành động. Nó quan hệ chặt chẽ với các mặt kia và quan hệ mật thiết với các
hiện tượng tâm lí khác của con người [39]
Theo quan điểm của Piaget (1896 – 1980), quá trình nhận thức được coi là
sự tổng hợp của hai quá trình trái ngược và bổ xung lẫn nhau: Q trình đồng
hóa và q trình điều ứng. Đứng trước một sự vật, hiện tượng, để tìm hiểu hay
tác động lên nó, con người bước đầu vận dụng một “sơ cấu” hành động hoặc tư
duy đã có từ bẩm sinh hoặc trải nghiệm trước đó là q trình đồng hóa. Cả đồng
hóa và điều ứng đều nhằm giúp cá thể thích nghi với mơi trường và đạt đến sự
cân bằng. Quan điểm này có tác dụng rất lớn trong việc giải thích sự phát triển
q trình nhận thức và tự thích nghi của con người với mơi trường. Theo quan
điểm của tâm lí học nhận thức, nhà tâm lí học và giáo dục học Jean Piaget (1896
- 1986) cho rằng sự phát triển nhận thức của trẻ em gồm thu thập các cấu trúc
nhận thức, các nguyên tắc để hiểu và làm việc với thế giới bên ngoài, để tư duy
và giải quyết vấn đề. Hai dạng nguyên tắc của cấu trúc nhận thức này là sơ đồ và
hệ lí thuyết. Sơ đồ là hệ quy tác xác định các phạm trù cụ thể ứng xử: ứng xủa sẽ
được thực hiện ra sao và ở điều kiện như thế nào? Nói cách khác sơ đồ là một
chuỗi hành động cảm giác - vận động có tổ chức. Ví dụ: Cấu trúc nhận thức của
trẻ sơ sinh bao gồm sơ đồ múi, sơ đồ với và sơ đồ nhìn.
Nhận thức là một dạng hoạt động cơ bản của con người. Đặc trưng nổi bật
nhất của hoạt động nhận thức là phản ánh hiện thực khách quan. Hoạt động này bao
gồm nhiều quá trình khác nhau, thể hiện ở mức độ hiện thực khách quan khác nhau
(cảm giác, tri giác, trí nhớ, tưởng tượng) và mang lại những sản phẩm khác nhau về
hiện thực khách quan (hình ảnh, hình tượng, biểu tượng, khái niệm…)
- Quan điểm theo lí thuyết thơng tin: Q trình nhận thức của con người
được xem như q trình thu nạp và xử lí thơng tin trong một hệ thống máy tính,
trong đó các thơng tin được các cơ quan cảm giác của con người ghi lại và xử lí,
q trình này theo họ thực chất là q trình chuyển hóa thơng tin qua lại giữa bộ
nhớ động và bộ nhớ tĩnh. Bộ nhớ sử dụng như một màn hình máy tính, trong



13
cùng một lúc nó có thể hiểu và biểu diễn ra thành phần ứng bên ngồi và tối đa
khơng tồn tại đối tượng khác nhau còn bộ nhớ tĩnh như cái thư viện khổng lồ có
sức chứa gần như vơ hạn. Các thơng tin từ bộ nhớ hoạt động có thể được ghi lại
trực tiếp vào bộ nhớ tĩnh hoặc ghi vào nhờ q trình lặp lại, ngược lại, thơng tin
từ bộ nhớ tĩnh có thể được lấy trở lại bộ nhớ hoạt động nhờ q trình hồi tưởng,
đơi khi thơng tin có thể bị mất đi do khơng có ý nghĩa hoặc không được sử dụng
lại (Hiện tượng quên). Lí thuyết thơng tin về q trình nhận thức cho phép hình
dung một cách khá tường minh về quá trình nhận thức khách quan nhưng không
kể đến tác động qua lại với các q trình tâm lí khác, những đặc điểm mang tính
chủ quan của chủ thể, cách tiếp cận này tỏ ra tương đối thuận lợi cho việc mô tả
lại các đặc điểm nhận thức của trẻ.
Nhóm tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Kế Hào,
Phan Trọng Ngọ, Đỗ Thị Hạnh Phúc [14; tr56] cho rằng:
Hoạt động nhận thức là quá trình cá nhân thâm nhập, khám phá, tái tạo lại
cấu trúc thế giới xung quanh. Qua đó, hình thành và phát triển chính bản thân
mình, mà trước hết là các kiến thức về thế giới, các kĩ năng và phương pháp
hành động cũng như những giá trị sống khác.
Phân tích các quan điểm trên về khái niệm “nhận thức” chúng tôi xác định
khái niệm “nhận thức” như sau: “Nhận thức được hiểu là quá trình chủ thể tiếp
nhận những thơng tin và xử lí những thông tin thu được làm cơ sở cho việc định
hướng, điều khiển, điều chỉnh hành vi của mình nhằm đảm bảo sự thích ứng và
phát triển của cá nhân”.
1.2.1.3. Khái niệm tự nhận thức
Để có cách hiểu về tự nhận thức làm cơ sở lí luận cho nghiên cứu thực
tiễn của đề tài, chúng tơi đã phân tích các khái niệm khác nhau về tự nhận thức
dưới các góc độ khác nhau để tìm hạt nhân hợp lí.
Theo nhà tâm lí học người Nga N.N.Yechocoba “tự nhận thức như là mắt
xích đầu tiên và là cơ sở tồn tại thể hiện của tự ý thức. Qua nhận thức, con người
đi từ những hiểu biết xác định về bản thân. Những hiểu biết đó đi vào nội dung

của tự ý thức như là tâm điểm của nó”.


14
Nhà tâm lí học S.Franz cho rằng, tự nhận thức là một thành phần của ý
thức. Tự nhận thức là một q trình nhận thức hướng vào chính bản thân mình
cùng với kết quả của q trình đó.
Theo I.I.Trexnơcơva [21] cho rằng tự nhận thức là một thành phần trong
cấu trúc của tự ý thức, trong cấu trúc đó bao gồm 3 mặt thống nhất:
+ Nhận thức (có tự nhận thức)
+ Cảm xúc giá trị (có thái độ với bản thân)
+ Hành động ý chí (tự điều chỉnh, điều khiển hành vi)
Tự nhận thức là quá trình phát triển cao của con người. Đây là một trong
những vấn đề phức tạp và quan trọng nhất của chủ thể. Tự nhận thức được hiểu
là quá trình cá nhân phân biệt cái thuộc về mình, đặc biệt là phân tách cái tơi nội
tâm của mình để hiểu được mình với đặc điểm tâm lí, nhân cách và phẩm chất
đạo đức riêng của cá nhân.
Tự nhận thức không phải là khám phá những bí mật thầm kín, đen tối hoặc
những động cơ vơ thức mà mà là phát triển một sự hiểu biết chính xác và trung thực
về những điểm mạnh của bản thân. Một điều ngạc nhiên về sự nhận thức là chỉ cần
nghĩ về nó thơi đã đủ giúp cho con người cải thiện kĩ năng, cho dù thoạt đầu bạn có
khuynh hướng tập trung vào những gì bạn làm sai. Đạt được khả năng tự nhận thức
có nghĩa là bạn khơng cịn sợ mình sai lầm trong cảm xúc nữa.
Q trình tự nhận thức là q trình kích thích sự lĩnh hội một cách tích
cực các kinh nghiệm văn hóa của cá nhân. Đối với lứa tuổi vị thành niên, q
trình này bắt đầu với câu hỏi: “Tơi là ai?”; “Tại sao mình lại khơng như vậy?”;
“Tơi sẽ cần trở thành một người như thế nào?”. Đó là sự nhận thức về cái tơi lí
tưởng và đây chính là bắt đầu của sự tự hoàn thiện cá nhân [8; tr968]. Tự nhận
thức là thành tố trong cấu trúc của tự ý thức. Đó là q trình tâm lí phản ánh
những đặc điểm, phẩm chất,… của bản thân, làm cơ sở định hướng, điều khiển,

điều chỉnh hành vi của mình.
Tác giả Hồng Thị Phương trong cuốn “Giáo trình lí luận và phương pháp
hướng dẫn trẻ làm quen với môi trường xung quanh” đã đưa ra nội dung giáo dục
tự nhận thức bản thân cho trẻ bao gồm: Hướng dẫn trẻ làm quen với cơ thể
chúng; Giáo dục trẻ tự nhận thức về tình cảm, ý nghĩ, hành vi; Giáo dục ý thức
vị trí xã hội cho trẻ. Tác giả đã khẳng định rằng: “Giáo dục tự nhận thức về bản


15
thân là một phần quan trọng của quá trình hình thành nhân cách trẻ. Trẻ ý thức
về bản thân ngày càng đầy đủ thì càng tích cực tham gia vào q trình hồn thiện
bản thân để trở thành người”. [10]
Dựa vào cách hiểu trên, chúng tôi xác định khái niệm” tự nhận thức” như sau:
“Tự nhận thức là quá trình chủ thể tiếp nhận thơng tin và xử lí thơng tin
về bản thân làm cơ sở cho việc định hướng điều khiển, điều chỉnh hành vi của
mình trong mối quan hệ với môi trường xung quanh nhằm đảm bảo sự thích ứng
và phát triển của cá nhân”
1.2.1.3. Khái niệm kĩ năng tự nhận thức bản thân
Có thể nói, kĩ năng TNTBT là kĩ năng căn bản; một khi bạn đã có nó, bạn
sẽ vận dụng những kĩ năng trí tuệ, cảm xúc khác dễ hơn nhiều. Khi mức độ tự
nhận thức tăng lên, sự thỏa mãn của con người trong cuộc sống - được định
nghĩa là khả năng họ có thể đạt được những mục tiêu trong công việc.
Kĩ năng TNTBT còn được hiểu là năng lực cá nhân vận dụng có hiệu quả
những tri thức, những kinh nghiệm thành hành động để nhận biết đúng đắn mình
là ai, mình có thể làm được gì, mình đang sống trong hồn cảnh nào.
Tác giả Trần Thanh Bình [5; tr9] quan niệm: “Kĩ năng TNTBT là khả
năng một người nhận biết đúng đắn rằng: mình là ai, sống trong hồn cảnh nào,
u thích điều gì, ghét điều gì, điểm mạnh và điểm yếu của mình ra sao, mình có
thể thành cơng ở những lĩnh vực nào, những động cơ thúc đẩy bản thân hành
động và phải vui vẻ, muốn thay đổi bản thân và những thành quả mong đợi, các

niềm tin, giá trị bản thân…”. Từ đó, có thể cảm nhận được cảm xúc của nhiều
người khác nữa, hiểu được những gì người khác nói với mình và cách mà cảm
xúc của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh. Nó bao gồm: cảm giác, ý
nghĩ của bản thân cũng như khi bản thân mình hiểu được cảm xúc của người
khác như thế nào, nó cho phép bản thân mình kiểm sốt được mối quan hệ của
mình hiệu quả hơn, hịa hợp hơn.
Dựa vào cách hiểu trên, chúng tôi đưa ra khái niệm về kĩ năng tự nhận
thức bản thân như sau: “Kĩ năng tự nhận thức bản thân là sự vận dụng tri thức,
kinh nghiệm của bản thân vào hoạt, tìm hiểu, khám phá chính mình để thỏa mãn
nhu cầu phát triển của bản thân.”
1.2.2. Đặc điểm hoạt động nhận thức


16
Các tiến trình nhận thức liên quan đến việc quyết định biến cố nào trong
nhiều biến cố bên ngoài sẽ được quan sát và cá nhân tiếp nhận, phản ứng với các
biến cố này như thế nào. Nhận thức ảnh hưởng đến hành vi của trẻ về một số
phương diện. Trước tiên một động cơ thúc đẩy nào đó được căn cứ theo nhận
thức trong đó, trong một số trường hợp, các hành động có thể phát sinh khơng
phải sự kích thích từ yếu tố bên ngồi mà từ các hoạt động nhận thức nội tại. Do
đó, những ý nghĩ về hậu quả của tương lai và một hành vi có thể đang thúc đẩy,
và về mặt nhận thức các mục tiêu được ấn định có thể thúc đẩy hành vi. Qua
nhận thức, moi người hoạt động như những tác nhân tích cực trong sự năng động
của chính mình. Nhận thức cũng giữ vai trò khác trong việc quyết định hành vi.
[31; tr 436]
Nhận thức gồm 4 đặc trưng cơ bản sau:
+ Thứ nhất: Hoạt động nhận thức có mục đích khám phá, tái tạo lại và
sáng tạo thế giới, nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức của con người, qua đó hình
thành và phát triển hiểu biết của con người về thế giới và phương pháp vận động
của nó. Thực chất hoạt động nhận thức là qúa trình cá nhân tích cực hoạt động

trong thế giới sự vật, hiện tượng, thâm nhập vào chúng, khám phá, phân tích tái
tạo lại, cấu trúc lại chúng bằng các vận động vật chất, tinh thần, trí óc.
+ Thứ hai: Trong hoạt động nhận thức con người không trực tiếp tác động
vào đối tượng, mà phải gián tiếp thông qua công cụ (phương tiện). Vì vậy, trong
hoạt động nhận thức bao giờ cũng diễn ra một quá trình kép: Quá trình tìm hiểu
và nắm vững cách sử dụng công cụ (học cách sử dụng cơng cụ) và q trình tìm
hiểu, tái tạo đối tượng nhận thức. Hai q trình này khơng tách rời nhau, thường
chuyển hóa lẫn nhau tạo thành bản chất của quá trình nhận thức về đối tượng và
cách tiếp cận đối tượng.
+ Thứ ba: Hoạt động nhận thức diễn ra trong mối tương tác trực tiếp hoặc
gián tiếp giữa các cá nhân.
+ Thứ tư: Hoạt động nhận thức có nhiều cấp độ, tùy thuộc vào sự tham
gia của các chức năng nhận thức: cảm tính và lí tính. Trong nhận thức cảm tính
vai trị chủ đạo thuộc về cảm giác, tri giác, dựa trên nền tảng của q trình trí
nhớ, kết hợp với sự tham gia của tư duy tái tạo. trong nhận thức lí tính, vai trị
chủ đạo thuộc về tư duy logic, tư duy và tưởng tượng sáng tạo.


17
Các cơ chế này không tồn tại riêng rẽ hoặc xếp chồng lên nhau. Chúng
đan xen, kế thừa, giao thoa và hỗ trợ nhau trong suốt quá trình phát triển cá nhân
và xã hội. [31]
1.3. Kĩ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
1.3.1. Khái niệm “Kĩ năng tự nhận thức bản thân trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.”
Từ khái niệm kĩ năng, nhận thức, TNTBT nói trên cho thấy tầm quan
trọng của nó trong q trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Qua đó,
chúng tơi đưa ra một số quan niệm về kĩ năng TNTBT của trẻ mẫu giáo như sau:
“Kĩ năng tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi là sự vận dụng
tri thức, kinh nghiệm của bản thân trẻ vào hoạt động tìm hiểu và khám phá chính
mình, nhằm thỏa mãn nhu cầu phát triển của bản thân.”

1.3.2. Một số đặc điểm tâm sinh lí liên quan đến kĩ năng tự nhận thức của trẻ 4 - 5 tuổi
* Đặc điểm về cảm giác và tri giác
Trước tuổi mẫu giáo, khi tìm hiểu đối tượng mới, trẻ thường hành động
ngay với nó. Sang tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu khảo sát theo một trình tự nhất định.
Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ bắt đầu có khả năng tri giác có kế hoạch, có hệ
thống những sự vật, hiện tượng xung quanh. Trẻ tri giác chính xác hơn, phát hiện
các sự vật nhanh hơn. Tri giác của trẻ thường gắn với chính hoạt động của trẻ. Nếu
cho trẻ tham gia tích cực vào các hoạt động, các sự vật, hiện tượng sinh động, hấp
dẫn thì tri giác của trẻ càng phát triển và đạt được kết quả tốt [38]. Chính vì vậy, trẻ
tham gia các hoạt động trải nghiệm môi trường là hoạt động khơng thể thiếu trong
q trình giáo dục trẻ. Trẻ được khám phá và tìm tịi các sự vật xung quanh mình.
Trẻ biết đến tên gọi, đặc điểm, cấu tạo và sự phát triển của sự vật, hiện tượng đó.
Trẻ biết mô tả hoạt động, biết bày tỏ cảm xúc của mình về chúng.
* Đặc điểm phát triển biểu tượng
Biểu tượng là hình ảnh của sự vật được giữ lại trong trí nhớ. Biểu tượng
thường diễn ra khi có tác nhân tác động, kích thích đến trí nhớ của con người. Có
thể xem biểu tượng như là hình thức trung gian quá độ cần thiết để chuyển từ
nhận thức cảm tính lên nhận thức lí tính.
Trong thời kì mẫu giáo, trẻ em phát triển nhiểu loại biểu tượng. Biểu
tượng đầu tiên mà trẻ cảm nhận được đó là biểu tượng về khối lượng của vật,
tiếp đến là biểu tượng về quan hệ không gian, thời gian, biểu tượng về phép đếm,


18
số lượng, số và biểu tượng xã hội. Ngay từ khi cuối tuổi nhà trẻ đến đầu tuổi
mẫu giáo, trẻ đã có biểu tượng vị thế cho mình, hình thành “cái tơi xã hội”. Vị
thế bản thân cịn giúp trẻ phân biệt được giới tính. Tiếp đến là trẻ biểu tượng về khả
năng của bản thân. Đây là biểu tượng được hình thành thơng qua q trình hoạt
động của con người trong lao động, sinh hoạt, học tập, vui chơi. Từ những hoạt
động đó, trẻ nhân thức được khả năng của mình thơng qua các hoạt động khác.

* Đặc điểm phát triển các thao tác tư duy
Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới q trình tâm lí phát triển mạnh mẽ và đặc
trưng nhất, đó là tư duy. Sự phát triển tư duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại,
các thao tác và thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Tư duy của trẻ được phát triển và mở rộng hơn trong q trình khám phá
mơi trường. Trẻ biết đặt cho mình những câu hỏi thắc mắc khi tiếp xúc với các
đối tượng từ mơi trường sống. Trẻ phải tự mình quan sát, ghi nhớ, tư duy về các
hình ảnh, sự vật, hiện tượng đã quan sát được. Từ đó, trẻ có thể giải đáp các câu
hỏi đó một cách chính xác và dễ hiểu nhất.
Trẻ mẫu giáo nhỡ bắt đầu phát triển cả 3 loại tư duy, tư duy hành động
trực quan vẫn chiếm ưu thế. Tuy nhiên, do nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tư duy
hình ảnh trực quan, tư duy trừu tượng được phát triển ở trẻ. Loại tư duy này giúp
trẻ đến gần với hiện thực khách quan.
* Đặc điểm phát triển trí nhớ
So với trẻ ở lứa tuổi trước, ghi nhớ của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ngày càng
có tính chủ định hơn do trẻ sử dụng một số phương thức nhắc lại hay liên hệ các
sự kiện với nhau do người lớn định hướng. Tuy vậy, ở lứa tuổi này chủ yếu là trí
nhớ khơng chủ định. Ngồi ra, trí nhớ của trẻ gắn liền với cảm xúc và điều gì
gây xúc động mạnh trẻ sẽ nhớ tốt hơn.
Tuy vậy, ở độ tuổi này trí nhớ của trẻ vẫn được đặc trưng bởi trí nhớ hình
ảnh, cho nên phải để trẻ tích cực hoạt động thì kết quả ghi nhớ, nhận thức sự vật,
hiện tượng và TGXQ trẻ sẽ cao hơn. Thông qua việc khám phá MTXQ, trẻ có cơ
hội khám phá sự vật, hiện tượng theo nhiều khía cạnh khác nhau, dưới nhiều góc
độ khác nhau để lấy được thơng tin đầy đủ về nó, về bản thân như: hình dáng,
kích thước, đặc điểm bên ngoài, bản chất bên trong, đặc điểm của các bộ phận


19
trên cơ thể và chức năng của từng bộ phận cũng như mối liên hệ giữa chúng. Trẻ
ghi nhớ được tất cả mọi thứ một cách đơn giản và dễ dàng.

* Đặc điểm phát triển trí tưởng tượng
Tưởng tượng của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi phần lớn là khơng chủ định.
Tưởng tượng có chủ đích đã bắt đầu được xuất hiện nhưng chủ yếu là trong các
hoạt động sáng tạo của trẻ. Khi trẻ tham gia hoạt động trải nghiệm MTXQ, trẻ
được tiếp xúc với nhiều nguồn tri thức mới lạ sẽ giúp trẻ phát triển trí tưởng
tượng tốt hơn. Khơng những trí tưởng tượng của trẻ phát triển mạnh trong giai
đoạn này mà trẻ cịn hình thành biểu tượng cho bản thân.
* Đặc điểm phát triển ngôn ngữ
Ở lứa tuổi này, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ là phương tiện cơ bản để
nhận thức TGXQ và sử dụng ngôn ngữ trong sinh hoạt.
Ngôn ngữ không chỉ giúp trẻ khám phá MTXQ mà còn giúp trẻ tự khẳng
định bản thân thông qua việc trẻ sử dụng ngôn ngữ để thể hiện những yêu cầu, suy
nghĩ và ý kiến của mình trong mối quan hệ giao tiếp với mọi người xung quanh.
1.3.3. Đặc điểm quá trình phát triển tự nhận thức bản thân của trẻ 4 - 5 tuổi
Nếu coi tự nhận thức là quá trình đơn điệu, trơn tru khơng có mâu thuẫn,
khơng gặp khó khăn rất là sai lầm. Khó khăn chính của sự nhận thức là ở chỗ chủ
thể và khách thể là tách biệt, thì trong tự nhận thức bản thân, khách thể và chủ
thể đồng nhất với nhau.
Tự nhận thức là ý thức về bản thân (còn gọi là ý thức bản ngã hay cái
“tôi” của một người) đã chớm nở từ cuối tuổi ấu nhi [36]. Đến 4 tuổi tự nhận
thức của trẻ được biểu hiện trong sự khẳng định cái tôi của trẻ thể hiện dưới hình
thức các cử động và động tác của cơ thể phát triển bột phát về số lượng. Sự xác
định ý thức bản ngã của trẻ được phát triển. Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tự
tách mình ra khỏi người khác đã được hình thành từ cuối tuổi ấu nhi. Tuy nhiên,
phải trải qua một quá trình phát triển thì ý thức bản ngã của trẻ mới được xác
định rõ ràng. Đến cuối tuổi mẫu giáo, trẻ mới hiểu được mình như thế nào, có
những phẩm chất gì, những người xung quanh đối xử với mình ra sao, và tại sao
mình có hành động này hay hành động khác... ý thức bản ngã được thể hiện rõ
nhất trong sự tự đánh giá về thành cơng và thất bại của mình, về những ưu điểm
và khuyết điểm của bản thân, về những khả năng và cả sự bất lực nữa [35].



20
Để đánh giá bản thân một cách đúng đắn, đầu tiên đứa trẻ phải học cách
đánh giá người khác và nghe những người xung quanh đánh giá mình như thế
nào. Cuối tuổi mẫu giáo nhỡ, trẻ nắm được kĩ năng so sánh mình với người khác,
điều này là cơ sở để tự đánh giá một cách đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để noi
gương những người tốt, việc tốt. Ở tuổi mẫu giáo lớn, sự tự ý thức cịn được biểu
hiện rõ trong sự phát triển giới tính của trẻ. Trẻ khơng những nhận ra mình là trai
hay gái mà cịn biết nếu mình là trai hay gái thì hành vi này phải thể hiện như thế
nào cho phù hợp với giới tính của mình.
- Đầu tiên, tự nhận thức của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi được thể hiện là trẻ
nhận biết được các bộ phận trên cơ thể mình một cách tương đối rõ ràng, chính
xác. Trẻ cũng nhận biết được giới tính của mình, khơng những trẻ biết mình là
trai hay gái mà cịn biết phải có hành vi, ăn mặc, đầu tóc… như thế nào cho phù
hợp với giới tính của mình.
- Trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi cũng đã có sự nhận biết về trạng thái xúc cảm,
tình cảm của mình. Trẻ nhận biết được những trạng thái tâm lí khác nhau như:
vui, buồn, tự hào, xấu hổ… ở bản thân mình.
- Trẻ bắt đầu nhận thức được vị trí của mình trong nhóm bạn bè, trong gia
đình và trong lớp học.Trẻ lứa tuổi này biết rõ mình là con ai, cháu ai… Trong
ngôn ngữ của trẻ đã biết dùng những đại từ phù hợp trong giao tiếp (xưng con
với bố mẹ, cháu với ông bà, em với anh chị…). Sự hiểu biết về bản thân ở trẻ 4 5 tuổi khơng chỉ thơng qua cách gọi tên mà cịn là cảm nhận của trẻ về chính các
bộ phận trong cơ thể mình. Từ sự hiểu biết rõ ràng về các bộ phận trong cơ thể
đã hình thành khả năng định hướng, di chuyển trong không gian phối hợp với
các bộ phận trên cơ thể tham gia quá trình hoạt động.
- Sự tự nhận thức, tự đánh giá của trẻ trong giai đoạn này bắt đầu tham gia
vào sự điều khiển, điều chỉnh hành vi và một phần nào đó ảnh hưởng đến sự phát
triển thái độ cảm xúc đối với bản thân. Sự tự đánh giá bắt đầu đã có sự thống
nhất giữa nhận thức và cảm xúc. Trẻ càng ngày càng trải nghiệm nhiều hơn sự

vui sướng từ nhận thức những khả năng của mình, sự nhận biết về thế giới xung
quanh. Mặt khác, cũng có những trẻ cịn mơ hồ về khả năng của mình nên có khi
trẻ làm được việc gì đó mà trẻ lại nói là không làm được. Khả năng nhận thức
của trẻ 4 - 5 tuổi bắt nguồn từ việc đánh giá, nhận xét các bạn rồi so sánh với bản


21
thân. Tuy vậy, nó cịn phụ thuộc vào sự đánh giá của người lớn, của môi trường
hoạt động.
Như vậy, tự đánh giá của trẻ giai đoạn này đã bắt đầu hình thành, song
cịn mờ nhạt. Trẻ đánh giá được một số hành vi, hành động, ý định cụ thể. Tuy
vậy tự đánh giá, tham gia vào quá trình điều khiển, điều chỉnh hành vi, thao tác
và một phần nào đó ảnh hưởng tới sự phát triển thái độ cảm xúc đối với bản
thân. Trẻ ngày càng trải nghiệm nhiều hơn từ hiểu biết về cơ thể bản thân đến
cương vị xã hội, khả năng của mình và sự nhận thức về TGXQ. Sự hình thành
ban đầu là cơ sở cho trẻ khám phá, nhận thức về TGXQ cũng như nhận thức
chính bản thân mình. Từ đó, trẻ dần hồn thiện mình và phát triển nhân cách của
mình sau này.
Tự nhận thức bản thân của trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi được thể hiện rõ nhất
qua việc trẻ biết được tên gọi của mình, các bộ phận, giác quan trên cơ thể. Khi
trẻ khám phá MTXQ, trẻ nhận biết thêm công dụng, chức năng của các bộ phận,
các giác quan khi trẻ được tham gia hoat động. Ví dụ: Khi cho trẻ khám phá một
số loại quả. Trẻ biết được tác dụng của đơi bàn tay và các ngón tay. Nhờ có ngón
tay mà trẻ có thể cầm, nắm các loại quả một cách dễ dàng. Không chỉ vậy, thông
qua hoạt động, trẻ tích lũy thêm kiến thức mới. Ngồi ra, trẻ biết bảo vệ mình, tự
điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp và kiểm sốt cảm xúc bản thân. Ví dụ:
Khi trẻ tham gia tiết học ngồi trời: Quan sát một số hiện tượng thời tiết. Trẻ biết
được tác dụng và tác hại của nắng, mưa, sấm chớp, bão, lũ…. Từ đó, trẻ biết mặc
trang phục bảo vệ bản thân, phù hợp với thời tiết. Đồng thời, trẻ biết phịng tránh
và tự bảo vệ mình như: khơng đi vào vũng nước, bùn lầy hay đội mũ lúc trời nắng,

khơng ra ngồi khi trời mưa…
1.3.4. Biểu hiện và mức độ của kĩ năng tự nhận thức bản thân của trẻ 4 - 5 tuổi
Trong cuốn “Tâm lí học trẻ em từ lọt lòng đến 6 tuổi” của tác giả Ngơ
Cơng Hồn đã quan niệm: “Tự ý thức là sự nhận thức về bản thân mình: Sự phát
triển tự ý thức của trẻ, xảy ra đồng thời với ý thức.” [17]. Nói cách khác, cốt lõi
của tự ý thức chính là tự nhận thức bản thân để có những đầy đủ về bản thân từ
cơ thể cho tới khả năng, kĩ năng, năng lực của bản thân, thái độ với bản thân. Tự
nhận thức biểu hiện ở các mặt sau:


22
+ Trẻ đã nhận thức được về bản thân mình: nhận ra được thân thể mình
với những người xung quanh, đã có một “sơ đồ thân thể phân biệt” trẻ với trẻ
khác; nhận ra được các bộ phận cơ thể bản thân, nhận thức được vị trí làm con,
làm em, làm cháu hay làm trai, làm gái”
+ Bước đầu tự chủ nhận thức được hành vi của bản thân mình.
+ Trẻ đã ý thức được những gì gia đình ngăn cấm, chấp nhận và làm theo
hướng dẫn của người lớn, chấp nhận một số kỉ cương, biết dùng từ ngoan, muốn
trở thành con người ngoan để vui lòng cha mẹ. Ngược lại, trẻ cũng có thể hành
động ngược lại với sự hướng dẫn của người lớn để tự khẳng định mình.
Nguyễn Quang Uẩn [39] lại cho rằng: Những dấu hiệu biểu hiện sự phát
triển ý thức (tự nhận thức) của trẻ gồm:
+ Các nhân tự nhận thức về bản thân bên ngoài đến nội dung tâm hồn, đến
vị thế và các quan hệ xã hội.
+ Có thái độ với bản thân tự nhận xét, tự đánh giá.
+ Tự điều chỉnh, tự điều chỉnh hành vi theo mục đích tự giác.
+ Có khả năng tự hồn thiện, tự giáo dục mình.
Cách hiểu này cho thấy, sự tự ý thức chính là tự nhận thức về bản thân
mình bao gồm: nhận thức về cơ thể bản thân, vị thế bản thân, các khả năng bản
thân… Khả năng tự nhận biết, tự đánh giá về những đặc điểm, tính cách, khả

năng, hạn chế, nhu cầu… của bản thân.
Tác giả Hoàng Thị Phương [30] cho rằng: TNTBT của trẻ thể hiện ở mức
độ hiểu biết đặc điểm, cấu tạo các bộ phận cơ thể, biết thể hiện xúc cảm bản thân
với sự vật xung quanh và mạnh dạn, tin tưởng vào bản thân.
Theo quan điểm của chúng tôi, chúng tôi xác định nội dung kĩ năng
TNTBT của trẻ được biểu hiện như sau:
- Kĩ năng tự nhận thức về cơ thể
+ Trẻ tìm hiểu về tên gọi, vị trí, đặc điểm, cấu tạo, chức năng của các bộ
phận trên cơ thể.
+ Cách chăm sóc bảo vệ cơ thể, có mong muốn quan tâm chăm sóc các cơ
quan cảm giác và các bộ phận cơ thể.
+ Giáo dục trẻ sự đồng cảm, quan tâm đến những người khuyết tật.
- Kĩ năng tự nhận thức về tình cảm, ý nghĩ, thái độ, hành vi


23
+ Trẻ xác định các trạng thái tâm lí cảm xúc của con người, so sánh biểu
hiện, cảm xúc của trẻ với những người khác và mọi người với nhau.
+ Hình thành ở trẻ biểu tượng con người biết suy nghĩ, biết lập kế hoạch hành
động. Từ đó, trẻ biết cách tôn trọng, biết cách thể hiện sự quan tâm đến mọi người.
- Kĩ năng tự nhận thức vị trí xã hội của mình với mọi người xung quanh
+ Nhằm hình thành tình cảm bền vững của trẻ đối với mọi người xung quanh.
+ Củng cố sự tin tưởng vào bản thân và giáo dục lòng tự trọng cho trẻ.
+ Trẻ biết tên, tuổi, giới tính của mình: Biết tên, cơng việc của bố mẹ, vị
trí của trẻ trong gia đình, trong dịng họ…
Như vậy, giáo dục TNTBT là một phần quan trọng của quá trình hình
thành nhân cách trẻ. Trẻ ý thức về bản thân càng đầy đủ thì càng tích cực tham
gia vào q trình hồn thiện bản thân để trẻ trở thành người.
1.4. Vai trò của kĩ năng tự nhận thức đối với sự phát triển của trẻ
1.4.1. Vai trò của kĩ năng tự nhận thức đối với việc hình thành tự ý thức, tự điều

chỉnh, lịng tự trọng và tính tự tin cho trẻ.
1.4.1.1. Kĩ năng tự nhận thức bản thân đối với việc hình thành tự ý thức của trẻ
Nhóm tác giả Trần Lan Hương, Trần Thị Nga, Nguyễn Thị Thanh Thủy,
Nguyễn Thị Thư [19] cho rằng: “Phát triển tình cảm dựa trên nền tảng của sự
phát triển khả năng tự nhận thức về bản thân và sự tự tin”.Trẻ thể hiện sự nhận
thức về bản thân như: Biết một số thông tin quan trọng về bản thân và gia đình,
ứng xử phù hợp với giới tính của bản thân, nói được khả năng và sở thích riêng
của bản thân, đề xuất các trị chơi và hoạt động thể hiện sở thích của bản thân.
Từ đó, trẻ ý thức tự ý thức được bản thân mình. Tự quan sát chính mình để so
sánh với cái mà mình sẽ quan sát để tự sửa chữa trở thành người khác nhưng vẫn
là chính mình. Tự quan sát mình để biết được người khác muốn gì. Điều đó vô cùng
quan trọng trong sự phát triển đời sống xã hội và cộng đồng. Điều quan trọng hơn là
tự nhận thức bản thân giúp trẻ tự ý thức về mục đích cần đạt tới [17].
Tự nhận thức có mối quan hệ mật thiết với sự hình thành ý thức của trẻ:
- Tự nhận thức là một thành phần của tự ý thức, là mắt xích đầu tiên, là cơ
sở để tồn tại và phát triển của tự ý thức.
- Trong cấu trúc tự ý thức chứa đựng tự nhận thức ở tất cả các mặt cấu
thành của nó.


24
- Tự nhận thức là quá trình (đồng thời là kết quả) nhận thức hướng vào bản thân.
- Tự nhận thức được bắt đầu bằng sự hiểu biết bản thân làm cơ sở cho sự
tự ý thức về mình.
Người có ý thức bản thân mạnh có khả năng điều chỉnh ý thức bản thân
tương đối tốt và thúc đẩy ý thức cá nhân. Quá trình nhận thức ý thức cá nhân
giúp trẻ nhỏ phát huy tính linh hoạt và phản ứng nhạy bén [5; tr84].
1.4.1.2. Kĩ năng TNTBT đối với khả năng tự điều chỉnh của trẻ
Khi trẻ đã nhận thức được mọi sự việc đang diễn ra xung quanh trẻ, trẻ
được học hỏi, lĩnh hội được những tri thức về sự vật, hiện tượng hay tiếp thu

được những kinh nghiệm cho bản thân mình. Đầu tiên, trẻ biết bộc lộ cảm xúc,
học cách hiểu và quan tâm người khác sau đó trẻ biết thay đổi hành vi và thể
hiện cảm xúc phù hợp với hoàn cảnh [19]. Trẻ học cách hiểu và quan tâm đến
người khác, biết nói khẽ, đi lại nhẹ nhành khi người khác đang nghỉ, bị ốm; giữ
thái độ nghiêm túc khi hoạt động chung với cả nhóm; vui vẻ, hào hứng tham gia
các sự kiện chung ở lớp và ở gia đình: sinh nhật, ngày lễ…; buồn khi phải chia
tay với bạn bè và người thân. Trẻ cố gắng không để cảm xúc tiêu cực ảnh hưởng
đến người khác. Trẻ cố gắng trấn tĩnh lại và kiềm chế những hành vi tiêu cực
như đánh bạn, cào cấu, cắn, khóc…. Trẻ biết sử dụng lời nói diễn tả cảm xúc tiêu
cực, khó chịu, tức giận của bản thân để giải quyết một số vấn đề xung đột trong
giao tiếp.
Trẻ có các hành vi thích hợp trong ứng xử: Nhận ra hành động của mình
có ảnh hưởng đến người khác, biết đề nghị sự giúp đỡ của người khác khi cần
giúp đỡ. Nhận xét một số hành vi đúng hoặc sai của con người với môi trường và
điều chình hành vi đó sao cho đúng [19].
Trẻ ln hứng thú và muốn được tiếp xúc với nhiều đối tượng trong mơi
trường sống của mình. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng có trong MTXQ (con
người, động vật, thực vật…) đều gây sự chú ý đối với trẻ. Môi trường chính là
nguồn tri thức mà chúng ta cần giúp trẻ lĩnh hội được một cách có ý thức dựa
trên nhận thức cảm tính và giáo dục thái độ đúng với nó, phản ánh đúng hiện
thực hàng ngày. Nếu trẻ thiếu hụt tri thức hay có những hiểu biết sai lệch thì sẽ
dẫn đến trẻ có những hành động khơng đúng đắn làm ảnh hưởng xấu đến môi


25
trường sống. Chính vì vậy, tự nhận thức có vai trò quan trọng trong việc tự điều
chỉnh hành vi của trẻ lứa tuổi mầm non.
1.4.1.3. Kĩ năng tự nhận thức bản thân đối với hình thành lịng tự trọng của trẻ
Lòng tự trọng là một trong những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đó là
ln chú ý giữ gìn phẩm giá, nhân cách của mình dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.

Nhu cầu tự trọng là nhu cầu được thấy giá trị và tầm quan trọng của bản thân, có
bản lĩnh để tự chịu trách nhiệm với bản thân và chịu trách nhiệm với người khác
(Reasoner, 1982). [47]
Lòng tự trọng là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên giá trị bản thân
mình đồng thời nó là nền tảng điều chỉnh suy nghĩ, hành động giúp trẻ giao tiếp
một cách hiệu quả.
Lòng tự trong là thước đo đạo đức, nhân cách của mỗi con người. Người có
phẩm giá, biết tơn q, u thương bản thân mình thì mới có lịng tự trọng. [46]
Lịng tự trọng là sự nhận thức ý nghĩa, giá trị vốn có và tầm quan trọng
của bản thân như một con người. Từ đó, có mong muốn học tập, phát triển để
lịng tự trọng khơng bị tổn thương, học tập, tạo dựng thành tích cá nhân và tránh
những trải nghiệm tiêu cực vì bị coi là vô bổ, vô dụng [48].
1.4.1.4. Kĩ năng tự nhận thức bản thân đối với việc hình thành tính tự tin của trẻ
Kĩ năng TNTBT là kĩ năng quan trọng đối với mỗi cá nhân. Hình thành
được kĩ năng tự nhận thức bản thân sẽ giúp cá nhân đạt được thành công và hạnh
phúc trong cuộc sống, tránh được những sai lầm không đáng do sự ảo tưởng hoặc
quá tự ti về bản thân mang đến. Tự tin là có niềm tin vào bản thân; tự hài lòng
với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có
niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hồn thành các nhiệm vụ.
Kĩ năng thể hiện sự tự tin giúp cá nhân trẻ giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh
dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình. Đồng thời, cũng giúp bản thân trẻ có suy
nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống.
Kĩ năng TNTBT giúp cá nhân trẻ giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ
suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đốn trong việc ra quyết định và giải quyết
vấn đề, thể hiện sự kiên định, giúp suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc
sống. Trẻ thấy tin tưởng vào bản thân mình vào khả năng tự nhận thức cũng như
khả năng ứng xử của mình. Khi đó, trẻ cố gắng thực hiện cơng việc đó đến cùng.



×