Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Quang 1 sk thái đình hòa 2023

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.04 MB, 35 trang )

1


2

MỤC LỤC
NỘI DUNG
I.Đặt vấn đề
1. Lí do chọn đề tài:
2. Xác định mục đích nghiên cứu:
3. Đối tượng nghiên cứu:
4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm:
5. Phương pháp nghiên cứu:
6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu:
II.Nội dung:
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan trực tiếp đến
vấn đề nghiên cứu.
2.Thực trạng của vấn đề nghiên cứu:
3. Mơ tả, phân tích các giải pháp:
4. Kết quả thực hiện
III.Kết luận và kiến nghị
1. Những kết luận đánh giá cơ bản nhất về sáng kiến
2. Các đề xuất, kiến nghị

TRANG
Trang 3
Trang 3
Trang 4
Trang 6
Trang 6
Trang 6


Trang 7
Trang 7

Trang 7
Trang 7
Trang 9
Trang 29
Trang 30
Trang 30
Trang 30

ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ CẢI TIẾN GIÚP HỌC SINH LỚP 4


3

VIẾT VĂN MIÊU TẢ LỒI VẬT
I- ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài:
1.1Cơ sở lí luận
Như chúng ta đã biết, cấp Tiểu học là bậc học đặt nền móng cho việc hình
thành nhân cách của học sinh. Đây là bậc học cung cấp những tri thức khoa học
ban đầu về tự nhiên và xã hội, trang bị những kiến thức kỹ năng đầu tiên về hoạt
động thực tiễn, bồi dưỡng, phát huy những tình cảm, thói quen và đức tính tốt
của con người. Trong 9 mơn học của bậc Tiểu học thì Tiếng Việt là mơn học giữ
vị trí quan trọng, bởi nó là cơng cụ để giao tiếp và tư duy. Không một quốc gia
nào không chăm lo đến việc dạy tiếng mẹ đẻ trong nhà trường Tiểu học. Đó là
mơn học góp phần hình thành và phát triển ở học sinh 4 kỹ năng: nghe – nói –

đọc – viết. Trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại chiếm một vị trí
khá quan trọng vì nó là sự “tích hợp” 4 kỹ năng của học sinh.
Trong đời sống, muốn người khác công nhận ra những điều mình đã nhìn
thấy, đã sống, đã trải qua… chúng ta phải miêu tả. Trong văn học, các câu
chuyện, các cuốn tiểu thuyết, thậm chí ngay cả trong văn nghị luận hay văn viết
thư, nhiều lúc ta cũng chen vào các đoạn văn miêu tả. Vì thế, có thể nói văn
miêu tả có một vị trí quan trọng trong sáng tác văn chương. Cũng vì thế văn
miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình Tập làm văn ở
bậc tiểu học.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Theo chương trình đổi mới sách giáo khoa lớp 4, văn miêu tả chiếm 30/62
tiết Tập làm văn của cả năm học. Bao gồm các kiểu bài: tả đồ vật, tả cây cối, tả
con vật. Như vậy, việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cho học sinh là một việc
làm vơ cùng quan trọng và cần thiết. Điều đó tạo tiền đề vững chắc để học sinh
làm được những bài văn hay, câu văn súc tích, giàu hình ảnh, diễn đạt rõ ý, cảm
xúc chân thật, sinh động và sáng tạo. Để tạo điều kiện cho học sinh có những cơ
sở học tốt tất cả các kiểu bài miêu tả (kể cả tả cảnh và tả người ở lớp 5) đòi hỏi
người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Lấy học sinh làm trung tâm,
còn thầy chỉ là người tổ chức, định hướng, hướng dẫn, trò tự khám phá và lĩnh
hội tri thức. Có như vậy thì mới nâng cao được hiệu quả và chất lượng giảng
dạy.


4
Khi vào thực tế giảng dạy, tôi thấy phần lớn học sinh còn lúng túng, vụng
về, gặp nhiều khó khăn khi làm văn miêu tả nói chung và tả lồi vật nói riêng. Số
học sinh làm được một bài văn hay, có sáng tạo thật là ít. Hầu hết khi miêu tả
các em chỉ đưa ra những nhận xét chung chung, câu văn rườm rà, diễn đạt ý thì
lủng củng…
2.Mục đích nghiên cứu:

* Xuất phát từ cơ sở mang tính lý luận và thực tiễn như trên, vấn đề đặt ra
là: Làm thế nào để các em viết được những câu văn, đoạn văn, bài văn hay, đặc
biệt là văn miêu tả lồi vật nên tơi đã chọn đề tài trên để giúp các em tự tin, phấn
khởi và yêu thích phân mơn Tập làm văn. Đờng thời qua đó giúp giáo viên tự
điều chỉnh phương pháp dạy học để tiết học diễn ra nhẹ nhàng và có hiệu quả
cao.
* Ngồi ra đề tài nghiên cứu của tơi còn giúp:
2.1.Giúp học sinh lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu loát,
mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bời dưỡng tình cảm u mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh
các em.
- Giải quyết các vấn đề còn tồn tại khi quan sát để tả một con vật.
- Nâng cao cho học sinh khá giỏi biết quan sát và tả các con vật (một đôi,
bầy đàn cùng loại, khác loại) trong văn miêu tả.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.
2.2.Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận
dụng phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tìm tòi, nâng cao tay nghề, đúc kết và rút kinh nghiệm trong giảng dạy
Tập làm văn nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
- Giúp các giáo viên trong tở vận dụng có hiệu quả nhất trong việc giảng
dạy văn miêu tả.
2.2.1.Thành công và hạn chế:
Ä Thành công: Trong suốt thời gian vận dụng sáng kiến trên vào việc giảng



5
dạy tôi đã thu được những thành công đáng kể. Sự tiến bộ của các em qua mỗi
bài tả con vật, qua các đợt kiểm tra định kì, qua bài kiểm tra sau tác động cũng
cho tôi thấy được mức độ thành công của bản thân khi áp dụng đề tài nghiên cứu
này.
Chúng ta ai cũng biết khi một học sinh có năng khiếu hoặc có niềm đam
mê về mơn tự nhiên (mà ở cấp Tiểu học cụ thể là mơn Tốn) thì niềm đam mê và
khả năng của các em dường như không còn là đáng kể cho các môn xã hội (điển
hình là môn Tiếng Việt – và trong môn Tiếng Việt thì phân môn Tập làm văn lại
là nỗi lo, là áp lực nhiều nhất đối với các em) cũng bởi những lí do đã đề cập ở
trên. Tuy nhiên cũng có những con số khơng nhiều các em có khả năng và có
niềm đam mê ở cả hai lĩnh vực đó. Mặt khác, trong thời b̉i của công nghệ
thông tin này, việc các em say mê các môn tự nhiên cũng là một lẽ đương nhiên,
dễ hiểu. Vì vậy, với đối tượng học sinh của tôi, khi làm cho các em có một chút
thay đởi như: khơng ngại học, có những cố gắng và tiến bộ dù nhỏ, tơi cũng cảm
thấy hài lòng và xem đó đã là một thành công nhỏ của mình.
Ä Hạn chế: Tuy vậy, hạn chế còn gặp phải đó là do vốn sống, vốn nhận
thức của các em nên dù có cố gắng và đã đạt được kết quả cụ thể, nhưng kết quả
đó khơng cao như mong muốn.
2.2.2.Các ngun nhân và yếu tố tác động
►Với tâm huyết của người giáo viên yêu nghề mến trẻ, tôi đã tìm hiểu
những nguyên nhân dẫn đến khó khăn trên là vì:
- Học sinh chưa nắm chắc yêu cầu của đề bài thiếu sự tưởng tượng, ít cảm
xúc về đối tượng miêu tả, khơng quan sát theo đúng yêu cầu. Do vốn ngôn ngữ
còn quá ít ỏi nên việc ghi chép các ý khi quan sát để miêu tả còn hạn chế.
- Giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo, hướng dẫn học sinh quan sát chưa kĩ.
Ngoài ra, vì thời gian của các tiết học còn hạn chế nên giáo viên khơng có nhiều
thời gian để uốn nắn, sửa chữa cách dùng từ, đặt câu cho học sinh.
- Phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức tới việc học ở nhà của con
em mình mà chủ yếu là giao cho nhà trường và giáo viên chủ nhiệm.



6
2.3.Những cơ sở và yêu cầu cần đạt trong dạy – học văn miêu tả
@. Liên hệ với chương trình
Chương trình tập làm văn lớp 4-5 như sau:
Thể loại
Lớp
Bốn

Năm

Tổng cộng

Tả đồ vật
10 tiết
4 tiết
14 tiết
Tả con vật
8 tiết
2 tiết
10 tiết
Tả cây cối
11 tiết
3 tiết
14 tiết
Tả người
16 tiết
16 tiết
Tả cảnh

19tiết
19 tiết
Qua bảng thống kê ta nhận thấy số tiết dạy văn tả con vật là ít nhất nên giáo
viên cần :
- Tích cực hơn trong giảng dạy, giúp học sinh học tốt hơn trong khi học Tập
làm văn.
- Nâng cao hứng thú cho học sinh với phân môn Tập làm văn, lời nói sống
động, có hình ảnh, tinh tế… Đó là phương tiện tốt nhất để các em giao tiếp, ứng
xử trong mọi trường hợp.
- Phát triển hoạt động nhận thức của học sinh, giúp các em biết liên tưởng,
tích hợp, tập các em có thói quen tham khảo tài liệu, đọc sách báo và phát triển
nhu cầu tự học.
- Giúp học sinh tích lũy kiến thức Tiếng Việt trong mỗi giờ học trở nên
nhiều hơn, sâu sắc hơn, nâng cao cả về mặt kiến thức lẫn các kĩ năng ngôn ngữ.
3.Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng tôi nghiên cứu là học sinh lớp 4B mình phụ trách và học sinh
trong khối 4 của trường mình dạy.
4.Đối tượng khảo sát thực nghiệm:
Đối tượng tơi khảo sát, thực nghiệm là chính học sinh lớp mình đang
giảng dạy và học sinh các lớp cùng khối lớp 4.
5.Phương pháp nghiên cứu:
* Để thực hiện tốt đề tài cần tiến hành các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp đọc sách và tham khảo.
- Phương pháp phân tích chương trình mơn Tiếng Việt.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp vận dụng.
- Phương pháp trao đổi.
- Phương pháp thống kê.
6. Phạm vi và thời gian nghiên cứu.
- Dạng văn miêu tả loài vật ở lớp 4.

- Đề tài này được nghiên cứu dựa trên thực trạng dạy viết văn miêu tả loài
vật của học sinh lớp 4 Trường Tiểu học số 1Phước Quang từ năm học 2021 –


7
2022 đến năm 2022-2023.
- Đồng thời phối hợp, học hỏi đồng nghiệp trong trường, qua giao lưu, tiếp
xúc.

II.NỘI DUNG
1.Cơ sở lý luận và thực tiễn có liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên
cứu.
- Dạy Tập làm văn là bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói
quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Với việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa mới hiện nay, nội
dung dạy học Tiếng Việt ở giai đoạn 2 (lớp 4 - 5 ) được nâng lên ở mức độ cao
hơn và hoàn thiện hơn, như u cầu hồn chỉnh một số văn bản. Phân mơn Tập
làm văn có tính chất tởng hợp, nó vận dụng toàn bộ các kĩ năng của học sinh
được hình thành từ nhiều phân môn khác (kĩ năng viết, kĩ năng đọc, kĩ năng về
chính tả, kĩ năng nghe, nói…). Ngồi ra, học sinh còn sử dụng kiến thức và kĩ
năng từ vốn sống thực tế của mình. Mỗi một bài văn là một sản phẩm không lặp
lại của từng học sinh trước đề bài. Kết quả học tập của phân môn Tập làm văn
phản ánh trình độ sử dụng Tiếng Việt, vốn tri thức và hiểu biết đời sống của học
sinh.
- Ở Tiểu học, văn miêu tả là thể loại chiếm thời gian nhiều nhất. Nó đòi
hỏi học sinh phải biết vận dụng các kĩ năng của Tiếng Việt để làm được một bài
văn miêu tả, nhằm làm “sống lại” một con vật, một cảnh vật,…Đó là yêu cầu
cần đạt ở mỗi học sinh sau khi học xong bậc Tiểu học.
- Ở lớp 4, đối tượng để học sinh miêu tả là đờ vật, cây cối và lồi vật.

Song, văn miêu tả lồi vật là một loại văn khó đối với học sinh. Vì các em phải
biết dùng ngôn ngữ của mình để viết một bài văn tả về con vật, làm cho con vật
“sống lại” trong con mắt và tâm hờn người đọc. Học sinh biết cụ thể hóa, cá biệt
hóa, mục đích hóa, cảm xúc hóa sự vật. Làm thế nó giúp học sinh thốt khỏi
một bài văn miêu tả nghèo ý, ít hình ảnh, đó là nhiệm vụ mà vấn đề đặt ra cần
giải quyết có hiệu quả để giúp học sinh học tốt hơn.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
2.1.Thuận lợi.
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt là một trong những mơn học
có vai trò rất quan trọng. Nó giúp giáo viên hình thành và phát triển ở học sinh
các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp
trong cuộc sống. Thông qua việc dạy và học môn Tiếng Việt, trong đó có phân
mơn Tập làm văn sẽ góp phần giúp giáo viên rèn luyện các thao tác tư duy cho
học sinh.


8
Những năm gần đây, nhờ áp dụng những phương pháp mới trong dạy học
nên số lượng học sinh Tiểu học đủ điểm môn Tiếng Việt cuối năm đạt 100%,
đây là kết quả đáng mừng. Tuy nhiên, số lượng học sinh đạt điểm cao và tuyệt
đối còn hạn chế, mà nhất là ở phân môn Tập làm văn. Do học sinh chưa thực
hiện tốt các nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn yêu cầu.
2.2. Khó khăn của vấn đề trên là.
Ä Về phía học sinh: Chương trình đòi hỏi các em biết kết hợp cả 4 kĩ năng
để học tốt môn Tập làm văn. Học sinh cần làm chủ quá trình hình thành kĩ năng
sản sinh văn bản trên cả hai hình thức văn bản nói – văn bản viết. Trong thực
tế, tơi thấy rằng học sinh có nhiều hạn chế như:
- Học sinh chưa biết cách quan sát đối tượng một cách tinh tế, chưa biết
chọn lọc đặc điểm nổi bật, vẻ đẹp riêng của từng con vật.
- Còn lúng túng khi lập dàn bài chi tiết một bài văn. Học sinh thường tả

ngoại hình, chưa tả tính nết, lối sống, sự hoạt động của con vật. Nên con vật
được miêu tả chỉ là con vật “chết”, một con vật vẽ trong tranh mà thôi.
- Cách vận dụng từ ngữ trong văn còn hạn chế (còn lặp từ, chưa biết dùng
đại từ thay thế…), chưa biết dùng nghệ thuật so sánh hay nhân hóa để làm con
vật thêm sống động.
- Học sinh thường quan sát một đối tượng và miêu tả đối tượng đó, chưa
nâng cao hơn trong quá trình quan sát và viết.
Ví dụ : Học sinh có thể làm bài văn tả một con gà, nhưng khó khăn trong
việc “tả một đàn gà đang kiếm mồi trong vườn” hay “ tả mẹ con chú mèo đang
tắm nắng ”.
Ä Về phía giáo viên:
Việc dạy cho học sinh đạt được 4 kĩ năng nghe – nói – đọc – viết là một
nhiệm vụ quan trọng. Việc đó đòi hỏi người giáo viên phải có trình độ, tận tâm,
biết tích hợp, tổng hợp kiến thức một cách khoa học nhất. Nhưng hiện nay giáo
viên chúng ta chủ yếu là dạy sao cho hoàn thành mục tiêu tiết dạy, chưa hướng
dẫn cụ thể cho học sinh biết cách quan sát tỉ mỉ về đối tượng miêu tả, ít tích


9
hợp, ít sửa sai cụ thể mà còn mang tính chung chung.
Ä Về phía phụ huynh học sinh:
- Nhiều phụ huynh có thể giúp con em mình học tốt các môn học khác
nhưng đối với môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn Tập làm văn thì số người phối
hợp để giúp con mình học tốt là rất ít.
- Thực tế cho thấy nhiều bậc phụ huynh chỉ muốn con học nâng cao mơn
Tốn chứ khơng để ý phân mơn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt.
Trong thực tế hiện nay, mặc dù giáo viên đã sử dụng các kĩ thuật và
phương pháp dạy học tích cực trong dạy học nhưng vì những khó khăn trên mà
hiện tượng học sinh lớp 4 làm văn miêu tả loài vật đạt kết quả chưa cao. Với
lương tâm và trách nhiệm của một người giáo viên hết lòng vì học sinh thân yêu,

trong những năm qua, tơi đã có một số cải tiến trong việc giúp học sinh lớp 4
viết văn miêu tả lồi vật. Tơi đã và đang áp dụng một số cải tiến này một cách có
hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tập làm văn.
3. Mô tả phân tích giải pháp của đề tài.
3.1.Một số lỗi thường gặp
3.1.1.Trong phần trên tôi đã đề cập những vấn đề chung thường gặp ở bài
văn miêu tả loài vật của học sinh lớp 4: bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh,

Ví dụ : Con mèo nhà em rất đẹp. Nó thuộc giống mèo tam thể. Bộ lơng của
con mèo mềm mượt. Chú có cái đầu trịn. Con mèo đi rất nhẹ nhàng.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa.
Nhưng miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một con vật. Và nó cũng rất
chung chung, khơng làm nởi bật được nét riêng của con vật đó.
3.1.2.Đọc bài văn miêu tả của các em, ta còn thấy sự khô khan, nghèo cảm
xúc, sự liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối
tượng miêu tả, đơi khi còn mang tính bịa đặt.
Ä Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện.
Ví dụ : Con gà to như con lợn con.
Ä Hình thức câu lặp lại nhiều lần: Mắt của nó màu đen. Râu của nó dài.
Lơng nó thì đen…
Chưa liên kết chặt chẽ giữa các câu trong đoạn, trong bài.
Ä Chưa biết sử dụng dấu câu nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt.
Ví dụ : Cún con mới dễ thương làm sao. (!)
3.1.3. Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Lỗi chính


10
tả, lỗi dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi chủ đề. Cụ thể như sau:
3.1.3.1.Lỗi chính tả: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm s/x, d/r/gi. Ở

đây, tôi sẽ không đề cập sâu vấn đề này.
3.1.3.2.Lỗi dấu câu:
Ä Không dùng dấu câu: thường xảy ra nhiều với học sinh yếu kém. Các em
khơng sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc trong
một bài văn.
Ä Sử dụng dấu câu sai.
Ví dụ : Con chó lơng xám. Xù xì.
3.1.3.3.Lỗi diễn đạt:
Ä Lỗi dùng từ khơng phù hợp.
Ví dụ : Con mèo có bộ lơng trắng tinh.
Ä Câu khơng đủ thành phần.
Ví dụ : Ăn chậm và thích ăn cơm trộn cá.
Ä Câu thừa thành phần (lặp lại thành phần một cách khơng cần thiết).
Ví dụ : Em rất yêu quý con mèo nhà em.
Ä Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.
Ví dụ : Con gà trống dậy rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
Ä Câu sai nghĩa.
Ví dụ : Con mèo nặng khoảng 2 tạ.
Ä Câu không rõ nghĩa.
Ví dụ : Con mèo lơng trắng mắt nó em u chú lắm.
Ä Câu khơng có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các
vế câu.
Ví dụ : Con mèo của em màu trắng để giúp em học giỏi.
Ä Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Con mèo to, mập mạp. Thân nó
khẳng khiu.
3.1.3.4.Lỗi lạc chủ đề :
Ví dụ : Tả con mèo của nhà em : Nhà bác em có ni rất nhiều con vật
nhưng em thích nhất con mèo.
→ Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi.
Tuỳ theo mức độ, học sinh khá, giỏi có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản.

Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc,
giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
3.2.Nguyên nhân
- Giáo viên chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả con vật xung
quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt
được sự khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.


11
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh
tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi
tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,
…còn hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài, bố cục thiếu rõ
ràng, chưa khoa học.
- Khơng có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, … khi viết
văn.
- Khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế: cảm xúc, tình cảm
khơng tự nhiên, có sự gượng ép.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa được sửa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy
đủ; các em cảm thấy nặng nề, thất vọng về bài viết của mình.
- Các em chưa thực sự cảm thấy yêu môn học.
3.3.Những giải pháp giúp học sinh viết văn miêu tả con vật
* Mục tiêu của giải pháp
- Giúp giáo viên Tiểu học dạy học sinh viết được bài văn miêu tả con vật
theo yêu cầu, khắc phục được các lỗi về dấu câu, lỗi diễn đạt, lỗi dùng từ, …. Từ
đó rèn cho học sinh kĩ năng viết đúng bài văn miêu tả nói chung, văn tả con vật
nói riêng. Qua đó giúp các em ham thích học mơn Tập làm văn và sẽ đạt được

kết quả cao, góp phần nâng cao chất lượng học tập của các em ở phân mơn Tập
làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung. Giúp giáo viên thoải mái về
tâm lí trong giảng dạy.
- Khi vận dụng các giải pháp của đề tài sẽ giúp giáo viên chủ động được
thời gian của tiết học vì học sinh sẽ không còn lúng khi dùng từ đặt câu để viết
văn.
- Góp phần phát triển tư duy, nâng cao vốn từ Tiếng Việt cho các học sinh.
- Góp phần bời dưỡng cho học sinh tình u Tiếng Việt và thói quen giữ
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
* Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp
► Tìm hiểu chung
- Khác với tả đờ vật, cây cối, tả lồi vật có những nét riêng biệt sau:
+ Vận chuyển, di chuyển: chim bay, cá lội, thú chạy,…
+ Thói quen sinh hoạt: chó đi khoan thai, chạy tứ tung,…Mèo thì đi nhẹ
nhàng,…
+ Tính nết: trung thành, khôn lanh,…


12
+ Tình cảm (mối quan hệ giữa con vật với con người): chó vui mừng khi
thấy chủ về, nổi giận – sủa toáng cả lên khi thấy người lạ vào nhà chủ…
+ Ích lợi: mèo bắt chuột, chó giữ nhà,…
- Trong văn miêu tả lồi vật thường có hai kiểu bài tả con vật: Tả một con
vật, tả nhiều con vật (một đơi, bầy đàn)
Ví dụ :
Tả con gà mái - Tả gia đình gà đang kiếm mồi.
Tả con bò – Tả đàn bò đang ăn cỏ.
► Một số giải pháp thực hiện dạy Tập làm văn miêu tả loài vật:
* Giải pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh để có phương pháp giảng

dạy phù hợp
Để thực hiện giải pháp của mình, đầu tiên tôi tiến hành nắm bắt đối tượng
và khả năng tiếp thu của học sinh (việc này được làm ngay từ đầu năm học).
Bằng việc nghiên cứu kỹ biên bản bàn giao chất lượng học sinh của giáo viên
chủ nhiệm cũ, nắm bắt qua học bạ của học sinh để tơi có được những nhận xét sơ
bộ ban đầu và có sự phân l̀ng về chất lượng học sinh năm đó do mình phụ
trách. Cùng là đối tượng học sinh trong một trường nhưng cũng có những năm,
có những học sinh nhận thức vượt trội hơn hẳn những em khác, có những em có
những cách hiểu, cách diễn đạt “khéo” hơn các em khác rất nhiều, còn lại hầu
hết là các em có mức độ tiếp thu ngang nhau.
* Giải pháp 2: Tạo động cơ ham thích học văn miêu tả lồi vật
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với
học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,…Mỗi con vật
đều có đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả
cái chung, và cả những nét tiêu biểu của lồi vật như màu sắc, vóc dáng, tính
nết. Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi
ích nên bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm yêu mến của học sinh
đối với chúng.
Khi ra đề văn, giáo viên cần lưu ý ra những đề tả các con vật gần gũi, thân
thiết với học sinh, tạo ra được động cơ nói năng, kích thích các em muốn nói,
viết về nội dung đề bài đã u cầu.
Ví dụ:
Đề 1: Hãy tả một con vật mà em yêu thích.
Đề 2: Hãy tả một con vật do chính tay em chăm sóc, …
* Giải pháp 3: Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: Miêu tả là dùng
ngôn ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể
hình dung được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.
Nhà văn Phạm Hổ: Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc



13
như thấy cái đó hiện ra trước mắt mình: một con người, con vật, dịng sơng…
Người đọc cịn có thể nghe được tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí
cịn ngửi thấy mùi hơi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc…
nhưng đó chỉ mới là miêu tả bên ngồi cịn sự miêu tả bên trong nữa là tâm
trạng vui, buồn, yêu ghét của con người, con vật và cả cây cỏ.
* Giải pháp 4: Định hướng (tìm hiểu bài)
- Giúp học sinh phân tích đề, kĩ năng xác định đề bài, yêu cầu giới hạn của
đề.
- Xác định đối tượng cần miêu tả.
Ví dụ
1/ Tả một con vật mà em thích nhất.
2/ Nhà em có một đàn gà, trong đó có một con gà trống rất hiếu chiến. Em
hãy tả con gà trống đó.
3/ Nhà em có ni một đàn gà. Em hãy tả đàn gà lúc đang kiếm mồi.
Việc tìm hiểu đề bài có ý nghĩa rất quan trọng. Đây là bước định hướng
cho cả quá trình làm bài. Định hướng đúng hay sai sẽ quyết định làm bài sai hay
đúng.
Muốn tìm hiểu đề bài phải đọc đề bài nhiều lần, tìm hiểu ý của từng từ,
từng câu, chọn ra các từ ngữ quan trọng nhất.
* Giải pháp 5: Lập chương trình nội dung biểu đạt
1. Khả năng quan sát, tìm ý:
+ Quan sát: là xem xét để thấy, để biết rõ sự vật, hiện tượng nào đó
(quan: xem, xem xét – sát: xét, thẩm xét)
+ Tìm ý: là chọn từ ngữ chính xác, đặt câu thích hợp để ghi lại (vào vở
nháp) cho rõ nét và đầy đủ những điều đã quan sát được.
Khi làm văn miêu tả (con vật, loài vật) nhất thiết phải cho học sinh tiếp xúc
và quan sát kĩ đối tượng miêu tả bằng nhiều giác quan: mắt thấy, tai nghe, tay sờ,
…biết hời tưởng, biết tưởng tượng. Có như vậy, học sinh mới thực tế, có tài liệu,

có ý, có cảm xúc. Đưa học sinh đến tiếp xúc với đối tượng là điều không thể
thiếu được. Điều quan trọng là học sinh được ngắm con vật thật và quan sát
nhiều lần, quan sát tỉ mỉ ở nhiều góc độ, nhiều khía cạnh. Trong q trình quan
sát đó, chúng ta còn hướng dẫn học sinh tìm ra những nét chung, nét tiêu biểu
của con vật sẽ tả. Không chỉ quan sát thực tế mà còn giúp học sinh thấy được vẻ
đẹp của từng con vật thông qua các bài tập đọc, học thuộc lòng hay bài kể
chuyện,…
Ä Đối với kiểu bài miêu tả con vật, quan sát là cơ sở chủ yếu để tìm ý:
1/ Quan sát bằng nhiều giác quan; mắt thấy, tai nghe, tay sờ…
2/ Quan sát theo không gian: xa – gần, trên – dưới,…
3/ Quan sát theo thời gian: trong ngày (sáng, trưa, chiều ), theo mùa, thời
tiết
(mưa, nắng)
4/ ………


14
Giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh tìm ra nét tiêu biểu, đặc sắc của con
vật, phải có cảm xúc riêng của mình trước con vật.
Ví dụ:
Tả chú gà trống nhà em – Tả “gia đình” gà đang tìm mồi.
Quan sát
- Thời gian
- Giác quan:
+ Tai

Một chú gà trống
Một đàn gà
- Mới sáng tinh mơ, trưa,chiều… - Vừa hửng sáng, trước lúc vào
chuồng…

- Chú gà trống cất tiếng gáy ò… - Những tiếng tục tục liên hời,
ó …o…
những tiếng kêu chíp chíp đáng
u.

+ Mắt

- Tơi đưa mắt nhìn và thấy chú
từ trên cành cây cao nhảy phốc
xuống đất và đi kiếm mồi.

- Vào những buổi sáng tinh mơ, tơi
mang thóc vải cho gà ăn, trơng
chúng thật đáng u làm sao!

-Không gian
(xa,gần)

- Từ xa đi lại chú lững thững với
dáng vẻ tự đắc làm cho những
chú gà hàng xóm phải kính nể.
Khi đến gần, trơng chú mới oai
vệ làm sao!

- Gà mẹ đưa mắt nhìn quanh và
miệng luôn “tục tục” kêu gọi đàn
con. Từ xa, đàn con như những
hòn tơ nhỏ chạy như lăn tròn đến
bên mẹ.


- Để chuẩn bị cho tiết học hôm sau, tôi giao việc cho các em là về nhà quan
sát con gà trống, con vật mà em sẽ tả, … rồi ghi lại vào vở những gì mình quan
sát được.
- Để cho các em biết cách quan sát, (bằng hình minh họa đã chuẩn bị) tôi
hướng dẫn các em đi từ cái bao quát (cái chung) đến cái chi tiết (cái cụ thể, bộ
phận) của đối tượng cần miêu tả. Tả một con vật, tơi gợi ý cho các em phải có sự
sắp xếp ý theo một trình tự. Tả con vật thì ta tả từ đầu (mắt, mũi, tai…) rồi đến
mình, đến chân và đi. Cũng có thể những em khá, giỏi sẽ thay đởi trình tự đó
một chút, có nghĩa là đặc điểm nào nổi bật, là điểm nhấn ở con vật.
- Khi quan sát đối tượng cần miêu tả, yêu cầu học sinh biết cách quan sát
theo trình tự và chọn lọc những nét nổi bật riêng biệt, nét tiêu biểu, đặc sắc
của con vật.
Ví dụ: Khi tả chú gà trống, học sinh có thể quan sát và tả theo trình tự trên dưới để người đọc dễ hình dung đối tượng được miêu tả.
+ Đầu: mào, mỏ, mắt, cổ.
+ Mình: lơng, cánh…
+ Chân: móng, cựa…
Nhưng khi quan sát một đàn gà, học sinh phải biết phối hợp từng đặc điểm
riêng của mỗi con vật trong đàn (nét tiêu biểu về hình dáng cùng với những đặc
điểm về sinh hoạt của chúng) thành nét chung của cả đàn.
Khi quan sát để tìm ý, học sinh có thể tìm ra được nhiều ý, tôi hướng dẫn


15
học sinh biết chọn lọc ý, biết “ bỏ thô lấy tinh ” để làm nởi bật con vật đó.
2.Khả năng lập dàn bài:
- Khi học sinh đã biết quan sát, tìm ý và đã hình dung được một bài văn cần
phải viết. Tôi giúp học sinh biết cách lập dàn bài chi tiết để khi viết nội dung
được gắn kết, không rời rạc và không sai yêu cầu.
- Muốn lập dàn bài chi tiết (tả một con vật – tả nhiều con vật cùng loại) học
sinh cần phải nắm được dàn bài chung trên cơ sở đó mở rộng thêm.

- Khi lập dàn bài và miêu tả, các em chú ý đến các thứ tự sau: Thứ tự tâm
lý – thứ tự thời gian – thứ tự không gian. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh
dùng kiểu thứ tự tâm lý (cái gì nổi bật ấn tượng nhất mà mình chú ý thì tả trước)
để tả lồi vật đờng thời kết hợp với các thứ tự khác.
Ví dụ : Khi tả một con vật, học sinh không nhất thiết phải tả từ đầu, mình
rồi đến chân mà tùy theo sở thích của từng em. Tuy nhiên phải tuân thủ theo
nguyên tắc:
Miêu tả xong bộ phận này rồi mới đến bộ phận kia, không nên tả trùng lặp,
lộn xộn. Trong dàn bài, khi tả các bộ phận của con vật cần kết hợp với:
+ Tả thói quen sinh hoạt, hoạt động chính của con vật.
+ Tính nết của con vật được bộc lộ qua hoạt động của con vật.
+ Tình cảm và sự chăm sóc đối với con vật.
Ä Dàn bài thơng thường tả lồi vật:
Dàn bài tả một con vật:
1- Giới thiệu con vật (thấy nó ở nơi nào, lúc nào)
2- Phần tả con vật
- Tả nét bao quát
- Tả những nét tiêu biểu về hình dáng (khơng cần tả hết các bộ phận)
- Tả tính nết, sự hoạt động (phần này nên tả xen với phần tả hình dáng ở
trên. Nếu đầu bài yêu cầu tả một con vật đang hoạt động thì phần này phải tả
kĩ)
3- Kết luận : Nêu cảm tưởng của mình đối với con vật.
Dàn bài tả nhiều con vật cùng loại:
1- Giới thiệu cả bầy (đang hoạt động ở nơi nào, lúc nào)
2- Phần tả:
- Tả nét bao quát về màu sắc, số lượng, tiếng kêu…
- Tả những nét nổi bậc nhất của cả bầy.
- Sự hoạt động của cả bầy và từng giống, từng lứa (con đực, con cái, con
lớn, con nhỏ)
3- Kết luận: Nêu cảm tưởng của mình đối với lồi vật.

* Giải pháp 6: Hình thành câu – đoạn – bài văn
Sau khi lập được dàn ý cho đối tượng cần miêu tả. Giáo viên giúp học sinh
biết chọn từ, chọn câu văn và biết sử dụng nghệ thuật tu từ trong bài để bài văn
có hình ảnh, có cảm xúc, gây ấn tượng với người đọc. Rõ ràng trong thực tế
giảng dạy muốn có một bài văn hay thì phải có đoạn văn hay, muốn có đoạn văn
hay cần có câu văn hay, có hình ảnh, mang sức gợi cảm, gợi tả, phản ánh đúng


16
yêu cầu đề bài đặt ra. Song muốn có những câu văn có sức nặng như thế là yêu
cầu học sinh biết dùng từ đúng nghĩa, sát nghĩa. Đây là điều quan trọng mà mỗi
giáo viên không thể bỏ qua, phải coi đây là một khâu quyết định thành công hay
thất bại của bài viết của học sinh.
Từ
→ Câu
→ Đoạn
→ Bài
1.Rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả cho học sinh
tiểu học:
(GD&TĐ) - Học sinh tiểu học bước đầu đã được làm quen với dạng văn
miêu tả (tả đồ vật, tả con vật, tả cây cối, tả người...) nhưng thực tế các em vẫn
còn lúng túng, chưa thành thạo trong việc sử dụng ngơn ngữ thích hợp để viết
bài. Cho nên, rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả cho học
sinh là vấn đề hết sức cần thiết đối với giáo viên nhằm giúp các em thành thạo
sử dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả, nâng cao chất lượng bài làm văn.
Theo "Từ điển Tiếng Việt cơ bản" (Nguyễn Như Ý- chủ biên), "Từ điển tiếng
Việt" (Viện ngôn ngữ học), sách giáo khoa phở thơng... Nhìn chung, các định
nghĩa đều có cái nhìn giống nhau về ngôn ngữ miêu tả: Miêu tả là dùng ngôn
ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình
dung được cụ thể sự vật, sự việc, con người. Muốn miêu tả được phải quan sát,

tổ chức sắp xếp các chi tiết theo logíc, lựa chọn từ ngữ, cách đặt câu, dựng đoạn
một cách có nghệ thuật... cốt để làm nổi bật cái thần, cái hồn của đối tượng
miêu tả.
Ä Trước hết, ngơn ngữ miêu tả là phải có tính chính xác. Ngơn ngữ miêu tả
chính xác là ngơn ngữ miêu tả sát đúng, cụ thể từng biểu hiện của sự vật, sự
việc, con người (ngay cả ý nghĩ, tư tưởng...). Bởi văn học phản ánh cuộc sống
một cách chân thực, do đó "văn muốn hay là phải đúng" (Lê Q Đơn). Tả con
mèo thì mắt phải tròn, tiếng kêu “meo meo”, ngủ “lim dim”, đi “nhẹ nhàng”…
Ä Thứ hai, tính hàm súc : Hàm súc nghĩa là súc tích, ít lời mà nhiều ý. Đây
là đặc điểm nổi bật đối với văn miêu tả bởi có thế thì đối tượng cần tả mới nởi
bật, gợi cảm.
Ä Thứ ba, tính hình tượng : Ngôn ngữ miêu tả giàu hình tượng là ngôn ngữ
giàu hình ảnh, đường nét màu sắc, âm thanh, nhạc điệu... có khả năng gây ấn
tượng mạnh, tác động sâu xa trong trí tưởng tượng và cảm nhận của người đọc.
Ä Thứ tư, ngơn ngữ phải mang tính truyền cảm : Thơng qua hệ thống tín
hiệu ngơn ngữ, nhà văn phải bộc lộ những cung bậc tình cảm khác nhau, có thể
là niềm vui hay nỗi b̀n, u thương hay giận hờn... trước đối tượng mình tả.
Từ đó mà hướng dẫn nhận thức và thôi thúc hoạt động của con người. Hướng
dẫn học sinh tả con vật thì phải sử dụng những từ ngữ yêu thương, quý mến như:
nhớ, thương, u q...
Ä Tính cá thể hố cũng là một u cầu cao đối với văn miêu tả : Mỗi học
sinh do xu hướng, sở trường, thị hiếu, tập quán, tâm lý xã hội, cá tính mà hình
thành giọng điệu riêng, cái vẻ riêng về cách dùng từ, đặt câu, dựng đoạn trong
bài văn. Có như vậy người đọc nhận ra một bài văn có phong cách, ở chỗ nó cho
cảm giác “về một cái khép kín” (Mắc Gia Cốp). Như vậy, rèn luyện kỹ năng sử


17
dụng ngôn ngữ trong văn miêu tả cho học sinh tiểu học là một trong những vấn
đề cần thiết trong dạy học môn văn. Bởi nếu không thì học sinh sử dụng ngôn

ngữ tùy tiện, tùy hứng dẫn đến chất lượng bài văn kém và kéo theo các dạng văn
khác các em cũng không thể làm tốt được, bởi văn miêu tả còn được vận dụng
trong các dạng văn khác nữa như văn kể chuyện, trần thuật, phát biểu cảm nghĩ,
tưởng tượng,…
Ví dụ : Tả thân hình chú gà trống : to lớn → dềnh dàng → mập ú : Chú gà
có thân hình to lớn, dáng dấp vạm vỡ,...
+ Tả móng : Nhọn → Nhọn hoắt : Những móng vuốt rất sắc, nhọn hoắt,
xòe ra như những mũi tên..
- Để giúp học sinh có được vốn từ phong phú như trên, đòi hỏi người giáo
viên phải biết tích hợp vốn từ ngữ trong các môn học khác, đặc biệt là phải tạo
điều kiện cho học sinh tiếp xúc với đối tượng cần miêu tả để học sinh được thấy,
được nghe, được sờ mó…Đây là một trong những quy trình rất quan trọng không
thể bỏ qua.
Học sinh nghe thấy, cảm nhận được, và biết nói thế nào cho đúng văn cảnh,
chọn từ cho thích hợp với từng văn cảnh cụ thể. Để giúp học sinh dùng từ chính
xác, giáo viên cần cho học sinh:
+ Tham khảo từ điển Tiếng Việt để hiểu được nghĩa của từ.
+ Cho học sinh luyện tập nhiều bài tập về nghĩa của từ dưới hình thức trắc
nghiệm, nối từ với nghĩa của từ đó cho thích hợp.
+ Hướng dẫn cho học sinh dùng từ ngữ phù hợp với sự vật.
Ví dụ: Dùng từ đờng nghĩa cho đúng sắc thái tình cảm cần bộc lộ:
Đờng chí ấy đã dũng cảm hi sinh. (Thể hiện sự kính trọng, biết ơn)
Một tên giặc trúng đạn đã chết ngay tại chỗ. (Thể hiện thái độ bình thường)
Giáo viên khuyến khích học sinh dùng từ cùng nghĩa, trái nghĩa, dùng các
biện pháp tu từ, từ tượng thanh, từ tượng hình.
2.Kĩ năng viết những câu văn sinh động, gợi tả, gợi cảm, giàu hình ảnh
và nhạc điệu.
Từ cách dẫn dắt, gợi mở của giáo viên và từ một ý cho trước hay từ một câu
đơn (chỉ có một cụm chủ ngữ, vị ngữ), giáo viên hướng dẫn học sinh tập mở
rộng câu bằng cách thêm cách thêm các thành phần phụ cho câu như: trạng ngữ,

bở ngữ, động từ, tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, … Sử dụng các
hình ảnh, chi tiết sinh động, biểu cảm; các biện pháp nghệ thuật như: nhân hóa,
so sánh, điệp từ, điệp ngữ, hoán dụ, … làm cho cách diễn đạt câu văn, đoạn văn
thêm cụ thể, sống động giúp người đọc như cùng cảm nhận với mình.
Yêu cầu rèn luyện kĩ năng này có thể thực hiện ở các tiết học Luyện từ và
câu hoặc tiết trả bài tập làm văn. Bài tập luyện viết câu sẽ gúp học sinh có ý thức
viết văn ngày càng chặt chẽ về ý tứ, sinh động, giàu xúc cảm,…từ đó giúp các
em cảm thấy hứng thú học tập mơn Tiếng Việt nói chung và phân mơn Tập làm
văn nói riêng. Sau đây là một số ví dụ (bài tập) về cách dùng từ, viết câu văn
sinh động:
* Bài tập 1: Từ câu văn đã cho, viết lại cho sinh động, gợi cảm xúc bằng


18
cách thêm biện pháp nghệ thuật:
- Bộ móng vuốt của mèo thật lợi hại.
Ä Bộ móng vuốt của mèo ta thật lợi hại, vừa cong vừa nhọn như một lưỡi
dao quắm và sắc bén chẳng khác gì lưỡi lam. (Biện pháp so sánh).
- Con gà trống tinh nghịch.
ÄCon gà trống láo khoét biết tán tỉnh mấy chị gà mái. Anh chàng còn tỏ
ra khá hào phóng mời chị gà đến để đãi giun. (Biện pháp nhân hoá).
* Bài tập 2: Điền thêm từ thích hợp vào chỗ dấu chấm chấm để tạo thành
những câu văn gợi tả, gợi cảm:
- Chú mèo mướp có đơi mắt tròn đen…
Ä Chú mèo mướp có đơi mắt tròn xoe đen láy như hai hạt nhãn, bộ ria
rung rung trắng như cước. (Biện pháp so sánh).
*Bài tập 3: Diễn đạt lại những câu văn sau đây bằng cách thêm các từ ngữ,
các biện pháp nghệ thuật cho sinh động, gợi cảm.
-Đôi cánh gà mẹ xoè ra rất rộng.
Kết hợp với tranh minh họa, tôi giúp học sinh quan sát, liên tưởng để miêu

tả “đôi cánh xịe rộng của gà mẹ” giúp các em có cách diễn đạt khác hay hơn.

Ví dụ:
Ä Đơi cánh gà mẹ xoè rộng ra như một chiếc ô vững chãi che chở cho đàn
con của mình khỏi mưa.
Ngồi cách viết câu, dùng từ, ngữ nêu trên; trong giảng dạy giáo viên cần
hướng dẫn học sinh chú ý đến các đặc điểm cấu tạo của từ Tiếng Việt là đa dạng
về kiểu loại (từ đơn, từ ghép, từ láy), phong phú về ý nghĩa (từ một nghĩa, từ
nhiều nghĩa, từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm khác nghĩa,…), linh hoạt
về cách sử dụng (từ dùng trong sinh hoạt, trong sách vở khoa học, từ địa
phương, từ nghề nghiệp,…).
- Yêu cầu học sinh biết những câu văn đã diễn tả được cảm xúc, tình cảm gì
trước sự vật, hiện tượng.
Ví dụ :
+ Chao ôi! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao!
+ Được đi giữa cánh rừng ríu rít tiếng chim như chào đón, trái tim tơi rộn
lên vì vui sướng.


19
Ví dụ : Lơng chú mượt mà, mềm mịn, êm như nhung. (so sánh)
Tồn thân mình chú khốc một bộ áo óng ánh màu đen bóng pha lẫn màu
đỏ lửa trông giống bộ áo giáp của một hiệp sĩ (nhân hóa – so sánh)
3.Rèn kĩ năng liên kết câu thành đoạn
- Liên kết các câu ta được một đoạn văn tả gà trống (Cho HS xem tranh
minh họa).


20


Tả cài mào gà:



×