ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
---------------
ĐỖ THỊ LY
TRUYỆN NGẮN QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 1955 – 1975
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HĨA VIỆT NAM
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒNG THỊ THU GIANG
Thái Nguyên – 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và đƣợc sự
hƣớng dẫn khoa học của TS. Hoàng Thị Thu Giang. Các nội dung, kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chƣa từng đƣợc cơng bố dƣới
bất kỳ hình thức nào. Các thơng tin trích dẫn trong luận văn đều đƣợc ghi rõ
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin chịu hồn tồn
trách nhiệm về nội dung luận văn của mình.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2022
Tác giả
Đỗ Thị Ly
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tơi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Phịng Đào tạo, Khoa Ngơn ngữ và Văn hóa, Trƣờng Đại học Khoa học –
Đại học Thái Nguyên và các thầy, cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tơi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Hoàng
Thị Thu Giang, ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn và chỉ bảo tận tình để tơi hồn
thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, ngƣời thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tơi hồn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 11 năm 2022
Tác giả
Đỗ Thị Ly
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tƣợng, mục tiêu nghiên cứu ........................................................................ 7
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................. 7
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 8
6. Bố cục ................................................................................................................ 9
7. Đóng góp của luận văn ...................................................................................... 9
Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM VÀ
TRUYỆN NGẮN QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 1955 - 1975 ........................... 10
1.1. Sơ lƣợc về thể loại truyện ngắn .................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn ...................................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm truyện ngắn hiện đại ......................................................... 10
1.2. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội tác động tới sáng tác truyện ngắn Quảng
Ninh giai đoạn 1955 - 1975 ................................................................................. 17
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của Việt Nam giai đoạn 1955 –
1975 ............................................................................................................. 17
1.2.2 Bối cảnh lịch sử của Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975 ................. 22
1.3. Sơ lƣợc sự phát triển của truyện ngắn Việt Nam và truyện ngắn Quảng Ninh
giai đoạn 1955 - 1975 .......................................................................................... 27
1.3.1. Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975 ................................. 27
1.3.2. Truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975 ............................. 29
Chƣơng 2 KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT VÀ CON NGƢỜI TRONG
TRUYỆN NGẮN QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 1955 - 1975 ........................... 38
2.1. Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 1975 ..................................................................................................................... 38
2.1.1. Không gian Vùng mỏ gắn bó với lao động, sản xuất ................................ 38
iv
2.1.2. Cảnh sắc thiên nhiên Quảng Ninh ......................................................................... 42
2.2. Con ngƣời Quảng Ninh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ...... 46
2.2.1. Kỷ luật và đồng tâm....................................................................................... 46
2.2.2. Đột phá, sáng tạo............................................................................................ 54
2.2.3. Hào sảng, lành mạnh, giàu tình cảm ................................................. 59
2.2.4. Gắn bó với quê hƣơng, sẵn sàng hy sinh vì đất nƣớc ............................... 63
Chƣơng 3 NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CỦA TRUYỆN NGẮN QUẢNG NINH
GIAI ĐOẠN 1955 – 1975 ................................................................................... 72
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tình huống truyện .................................... 72
3.1.1. Kiểu cốt truyện đơn tuyến ................................................................. 72
3.1.2. Kiểu cốt truyện đa tuyến với tình tiết đơn giản ................................ 75
3.1.3. Kiểu cốt truyện lắp ghép các mảng sự kiện ...................................... 76
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật...................................................................... 79
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động nhân vật......................... 79
3.2.2. Cách thể hiện ngơn ngữ nhân vật ...................................................... 85
3.3. Giọng điệu nghệ thuật khi thể hiện bức tranh đất và ngƣời Quảng Ninh ..... 95
3.3.1. Giọng điệu ngợi ca, tự hào ................................................................ 95
3.3.2. Giọng điệu phê phán ....................................................................... 100
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................... 104
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 108
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Nằm trên dải đất hình chữ S duyên dáng, Quảng Ninh - dải đất ven
biển rộng lớn thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam có thế “tựa sơn, quan hải", đƣợc
đánh giá nhƣ "một Việt Nam thu nhỏ" với "tam sơn, tứ thủy, nhất phần điền”,
nổi tiếng với những danh lam, thắng cảnh đƣợc xếp vào loại đẹp nhất Việt Nam.
Nơi đây không chỉ đƣợc thiên nhiên ƣu ái với những cảnh đẹp, nguồn tài nguyên
phong phú mà còn là nơi đã diễn ra những sự kiện lịch sử quan trọng gắn với
quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ rất sớm, vùng đất Quảng Ninh đã xuất hiện các nền văn hóa cổ: Soi
Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long. Sang thời quốc gia phong kiến độc lập, với vị trí là nơi
phên giậu của đất nƣớc, nhiều anh hùng, bậc trí giả đã đến, gắn bó với mảnh đất
này. Đến thời hiện đại, Quảng Ninh tiếp tục là vùng đất hội tụ văn hóa, con
ngƣời đến từ nhiều vùng miền của đất nƣớc. Đây chính là nền tảng để văn hóa,
trong đó có văn học Quảng Ninh phát triển.
1.2. Văn học viết Quảng Ninh đƣợc bắt đầu với những tác giả nổi tiếng
nhƣ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông. Họ đều là những nhà
thơ lớn, những vị vua anh hùng có gắn bó sâu nặng với vùng đất An Bang
(Quảng Ninh xƣa). Nhà văn, nhà chính trị, nhà tƣ tƣởng kiệt xuất Nguyễn Trãi,
hồng đế Lê Thánh Tơng, Hồ Xuân Hƣơng... đều đã từng dừng bƣớc nơi đây,
say mê miền đất này và viết nên những bài thơ tuyệt vời ca ngợi vẻ đẹp diễm lệ
của một vùng non nƣớc.
Sang thời hiện đại, Quảng Ninh cũng là nơi hội tụ của các tài năng văn
chƣơng của đất nƣớc. Nhiều nhà thơ, nhà văn lớn đã đi qua vùng đất này và để
lại những tác phẩm giá trị. Đặc biệt, các nhà văn, nhà thơ “bám trụ” lại với
Quảng Ninh, nhƣ: Võ Huy Tâm, Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cƣơng, Trần Nhuận
Minh, Dƣơng Hƣớng... đều là những tác giả ghi dấu ấn quan trọng trong nền văn
học nƣớc nhà. Họ đã đóng góp tài năng, sức sáng tạo để tạo nên một vùng văn
học mang bản sắc riêng.
2
1.3. Xét trong tổng thể tiến trình phát triển, văn học Quảng Ninh thế kỉ
XX đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong những thành tựu đó,
truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975 là điểm sáng nổi bật. Chính vì
vậy, đã có khơng ít cơng trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp, nội dung và
nghệ thuật truyện ngắn của các cây bút văn xuôi Quảng Ninh giai đoạn này. Tuy
nhiên, các cơng trình đã có chủ yếu dừng lại ở phạm vi nghiên cứu về các tác giả
cá nhân, chƣa có cơng trình nào tìm hiểu sự phát triển của truyện ngắn Quảng
Ninh trong cả một giai đoạn để từ đó có thể đƣa ra đánh giá, nhận xét về đặc
điểm, thành tựu của truyện ngắn Quảng Ninh và đóng góp của nó với văn học
Quảng Ninh nói riêng, văn học Việt Nam nói chung. Việc nghiên cứu truyện
ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975 sẽ giúp mang lại cái nhìn rõ nét hơn về
một giai đoạn văn học đặc biệt trong lịch sử Quảng Ninh cũng nhƣ lịch sử đất
nƣớc, bồi đắp niềm tự hào về văn học, văn hóa địa phƣơng, khơi dậy khát vọng
sáng tạo, cống hiến trong thế hệ trẻ để tiếp nối, kế thừa, phát triển những thành
tựu văn học đã có.
Với những lí do trên, chúng tơi chọn truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn
1955 - 1975 làm vấn đề nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nếu nhƣ trong kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), các sáng tác về
vùng đất, con ngƣời Quảng Ninh cịn ít ỏi, thƣa vắng thì ở thời kì đi lên chủ
nghĩa xã hội và kháng chiến chống Mỹ, chỉ qua thời gian ngắn văn học Quảng
Ninh đã bứt phá mạnh mẽ, có sự thay đổi căn bản về đội ngũ và chất lƣợng văn
chƣơng. Có thể khẳng định, từ sau năm 1954, văn học Quảng Ninh đã tạo đƣợc
bƣớc ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển, song hành với những phát triển
đột phá của vùng mỏ và ngành công nghiệp than.
Ở thời kì từ năm 1955 đến năm 1964, gƣơng mặt văn xuôi nổi bật nhất
của văn học Quảng Ninh là nhà văn Võ Huy Tâm. Với những sáng tác chuyên
về đất mỏ, công nhân mỏ, Võ Huy Tâm đã khẳng định ơng khơng chỉ là ngƣời
đặt nền móng cho văn học cơng nhân mà cịn là nhà văn đi đầu trong mảng đề
3
tài về công nhân mỏ trong văn học Việt Nam. Bên cạnh đó, văn xi vùng mỏ
giai đoạn này cịn có một cây bút đáng chú ý: Nhà văn Nguyễn Dậu (1930 2002) với sở trƣờng là tiểu thuyết và truyện ngắn. Ngồi ra, cịn một số cây bút
khác, chủ yếu từ lực lƣợng công nhân mỏ.
Đầu năm 1963, tỉnh Quảng Ninh đƣợc thành lập trên cơ sở hợp nhất khu
mỏ Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh, tạo nên sự thống nhất và đa dạng cho gƣơng
mặt văn nghệ tỉnh Quảng Ninh. Nhờ thế, năm 1964, lực lƣợng sáng tác Quảng
Ninh đã có thể cho ra mắt những tuyển tập thơ văn vừa đậm chất trữ tình vừa
giàu tính hiện thực, mang màu sắc riêng của vùng mỏ. Sau sự kiện ngày
5/8/1964, quân dân Quảng Ninh bƣớc vào thời kì chiến đấu và sản xuất gian khổ
mà hào hùng, oanh liệt. Bối cảnh lịch sử này chính là cơ sở để một loạt bút ký,
ghi chép, thơ ca, đặc biệt là truyện ngắn về đề tài sản xuất, chiến đấu ra mắt bạn
đọc. Truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn này tự hào với những gƣơng mặt sáng:
Võ Huy Tâm, Hoàng Văn Lƣơng, Tô Ngọc Hiến, Lý Biên Cƣơng, Sỹ Hồng, Tạ
Kim Hùng, Nguyễn Sơn, Nguyễn Đức Huệ, Nam Ninh, Nguyễn Thanh Kim, Lê
Hƣờng... Văn chƣơng của họ đã góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, quê hƣơng.
Trong số những gƣơng mặt văn chƣơng nêu trên, các tác giả Võ Huy
Tâm, Lý Biên Cƣơng, Tô Ngọc Hiến - những gƣơng mặt tiêu biểu của văn học
Việt Nam viết về đề tài công nhân giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và tác phẩm
của họ đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều hơn cả.
Là một gƣơng mặt tiêu biểu của văn học Quảng Ninh với đề tài ngƣời thợ
mỏ, là ngƣời mở đƣờng và phát triển dòng văn học công nhân Việt Nam, đƣợc
truy tặng giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật (đợt 1) năm 2001, nhà
văn Võ Huy Tâm đƣợc nhắc đến trong nhiều bài viết, bài nghiên cứu. Nhà văn
Tô Ngọc Hiến, ngƣời anh em kết nghĩa, một trong những ngƣời gần gũi nhất với
Võ Huy Tâm chia sẻ: “Trong hành trang, hành lý của ông thừa thãi chi tiết và
vốn sống, cái vốn lam lũ cực nhọc, suốt mấy chục năm nhà văn làm phu mỏ dưới
chế độ thực dân Pháp, rồi làm cán bộ dân vận sau này được Võ Huy Tâm phả
4
vào các tập tiểu thuyết Vùng mỏ, Những người thợ mỏ dày dặn hàng ngàn trang,
rồi tiếp theo Rượu chát, Viên gạch chịu lửa, Trăng bão,…” [23, tr. 239].
Nguyễn Huy Tƣởng thì nhận xét: "Võ Huy Tâm dường như nghĩ đến đâu viết
đến đấy, trong văn chương có cái hay sốt rẻo, được viết bằng thứ văn chương
chân chỉ hạt bột" [23, tr. 254]. Cịn Tơ Hồi đánh giá: "Đó là người vốn liếng
viết văn trường khốt", một người có "ngịi bút thấm sâu một thực tế dữ dội",
"câu nói và chữ của anh tinh túy cô đúc như ca dao, tục ngữ" [23, tr. 256]. Đọc
Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), nhà văn Nguyễn Đình Thi phát biểu: “Cách mạng và
kháng chiến đã thay đổi hẳn những nhân vật của văn chương. Vai chính trong
các truyện đã dần dần là những con người mới của công - nông - binh. Lần đầu
tiên, các đám đông công - nông - binh đã được đưa vào truyện. Những đám
đông bãi công trong tiểu thuyết Vùng mỏ đã đem tới một sức sống tưng bừng
cho tiểu thuyết kháng chiến, chưa từng thấy trong các tiểu thuyết cũ” [23, tr.
257]. Về Những người thợ mỏ (Võ Huy Tâm), Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Kỹ
thuật tả người của Võ Huy Tâm trong “Những người thợ mỏ” rất ... Việt Nam,
đưa ra là giới thiệu ngay nét chính diện, phản diện của nhân vật rồi khơng cần
giữ cho lắt léo. Đó là lối sáng tạo rất dân tộc. Nó khơng đơn sơ như truyện cổ,
cũng khơng bắt chước truyện mới... Nhiều nhân vật như Nguồn, Sa, Tài Bảo v.v..
rất sống và đẹp. Sức sống của cái thế giới nhân vật ấy tràn qua cả cái khung sơ
sài và chật hẹp của cốt truyện và chủ đề tư tưởng mà Võ Huy Tâm định nêu ra”
[23, tr. 257]. Cũng bàn về Những người thợ mỏ (Võ Huy Tâm), nhà văn Bùi
Huy Phồn nhận xét: “Võ Huy Tâm có một vốn sống phong phú về thợ mỏ nên
trong “Những người thợ mỏ” đã cho độc giả thấy cách sống, cách suy nghĩ,
cách làm việc và tác phong của cơng nhân mỏ...”. Nhà văn Tơ Hồi thì cho rằng
tác phẩm Những người thợ mỏ của Võ Huy Tâm: “Hay, biểu hiện được những
vấn đề mới...”. Còn với một số tác giả văn xi Quảng Ninh thế hệ sau nhƣ
Hồng Văn Lƣơng và Huỳnh Thái thì: ““Những người thợ mỏ” có nhiều nét
thật “ngun xi” của cơng nhân Cẩm Phả do tác giả nắm rất chắc nguồn gốc
của đa số công nhân ở đây, xuất thân từ nông dân với những cá tính, tập qn
của người nơng dân vùng lúa nước. Càng đọc càng thấy thêm yêu người thợ
5
mỏ...”[16, tr. 259]. Trong bài Vùng mỏ và những người thợ mỏ trong trang viết
của Võ Huy Tâm, nhà nghiên cứu Vũ Nho khẳng định: "Những truyện ngắn của
Võ Huy Tâm phần nhiều cũng chỉ xoay quanh cuộc sống mỏ và thợ mỏ. Có thể
nói Võ Huy Tâm một đời văn khơi nguồn và gắn bó với mạch văn vùng mỏ và
những người thợ mỏ. Vị trí của ơng trong văn học cơng nhân nói riêng và cả
trong văn học Việt Nam nói chung là khơng ai có thể thay thế". [43, tr. 35].
Nếu nhƣ Võ Huy Tâm mang tới cho văn học cách mạng vẻ đẹp "chân chỉ
hạt bột" (chữ dùng của Nguyễn Huy Tƣởng) thì Lý Biên Cƣơng - nhà văn đƣợc
truy tặng Giải thƣởng Nhà nƣớc về Văn học nghệ thuật đợt II năm 2012 lại
mang đến một làn gió mát lành nhƣ khí trời buổi ban mai. Với nửa thế kỉ cầm
bút và cống hiến cho văn chƣơng, Lý Biên Cƣơng đã tạo nên và định hình một
lối viết riêng, khơng lẫn với ai, mà ta có thể gọi là phong cách Lý Biên Cƣơng,
một phong cách có sự kết hợp nhuần nhuyễn đến tinh tế giữa chất báo chí và
chất văn học. Nhà văn Dƣơng Hƣớng cho rằng: “Văn là đời, câu nói đó rất đúng
với cuộc đời và văn chương sự nghiệp của nhà văn Lý Biên Cương. Hãy đọc tên
các tác phẩm (những đứa con tinh thần) của ông, ta cảm nhận như thể số trời đã
định. Âm vang của ngôn từ ngữ nghĩa cứ bám riết vào từng đoạn đường đời
thăm thẳm nỗi gian truân của ông” [16, tr. 473]. Trong Điểm nhìn trần thuật
trong truyện ngắn Lý Biên Cương, Hồng Thị Khuyên đã khái quát nghệ thuật
tạo dựng điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Lý Biên Cƣơng. Theo tác giả,
Lý Biên Cƣơng sử dụng điểm nhìn bên trong lẫn điểm nhìn bên ngồi “để diễn
tả tất cả ngõ ngách đời sống nội tâm ngƣời vùng than Quảng Ninh, miền đất mà
nhà văn gắn bó máu thịt”, "ơng dịch chuyển điểm nhìn từ người kể chuyện vào
nhân vật và từ nhân vật này sang nhân vật khác". "Bằng việc di chuyển điểm
nhìn, nhà văn làm cho câu chuyện trở nên khách quan hơn, có khả năng bao
quát nhiều vấn đề, đồng thời cho thấy cái nhìn đa chiều của tác giả về
nhiều vấn đề khác" [25]. Bài viết “Chất thơ trong truyện ngắn Lý Biên Cương”
của Phạm Học đã cho thấy một đặc điểm nghệ thuật khá nổi bật và cũng khá
riêng biệt, đặc sắc trong truyện ngắn Lý Biên Cƣơng: “Khơng ồn ào, đao to búa
lớn, cũng khơng gai góc, lạnh lùng, truyện ngắn Lý Biên Cương hiện diện trong
6
làng văn với chất thơ rất nhẹ nhàng. Chính cái chất thơ ấy đã tạo nên nét riêng
trong văn ông” [24]. Trong điếu văn đƣa tiễn Lý Biên Cƣơng, nhà văn Nguyễn
Trí Hn nhận xét: “Mặc dù cả đời ơng chỉ gắn bó với vùng than, chỉ viết về
than, về đất và người vùng mỏ nhưng do mỗi tác phẩm của ơng đều tích tụ nhiều
sự chiêm nghiệm sâu xa về cuộc đời nên nó ln có sức tỏa sáng đến mọi miền
đất nước” [16, tr. 479]. Những nhận xét, bình giá đó tuy mới chỉ chạm tới một
vài đặc điểm sáng tác hoặc phản ánh một phần văn nghiệp của Lý Biên Cƣơng,
song đã cho thấy vị trí, giá trị của tác phẩm Lý Biên Cƣơng trong truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn chống Mỹ cứu nƣớc.
Giống Võ Huy Tâm và Lý Biên Cƣơng, nhà văn Tô Ngọc Hiến cũng là
ngƣời dành cả cuộc đời cầm bút của mình để viết về vùng than Đông Bắc, nơi
ông cùng những ngƣời thợ mỏ đổ mồ hôi cho những tấn than ra lò. Là một trong
những nhà văn sống và viết tại vùng mỏ, Tơ Ngọc Hiến đã có hàng loạt các tác
phẩm về nghề khai thác than và cuộc sống của ngƣời thợ lò. Nhận xét về tác
phẩm văn học của Tô Ngọc Hiến, nhà văn Lý Biên Cƣơng phát biểu: “Đọc văn
anh thấy ngồn ngộn máu thịt một giọng riêng, một tư duy riêng, văn chứa đầy
hơi thở của sự sống, như xẻ da thịt để viết...”. Ông đã sống tận tâm với nghề, tận
hiến với nghiệp để gửi cho đời những trang viết thấm đẫm tình yêu với con
ngƣời và mảnh đất “vàng đen” này. “Anh sớm nhận biết một điều cốt tử của văn
chương là muốn gì thì muốn, người viết văn trước hết phải có văn, có giọng điệu
ngơn ngữ riêng, có phong cách sáng tạo chỉ riêng mình mình có. Viết nhân vật
là thợ thì phải thật thợ từ lời ăn tiếng nói, khơng pha tạp, không giả cầy. Anh lo
cho từng câu, từng trang viết, kỹ càng, khó tính như người thợ kim hồn trước
một thỏi vàng lớn phải tách ra từng mảnh nhỏ, rồi phải tỉ mỉ chạm, đục thành
những mĩ phẩm riêng biệt.” [16, tr. 500]. Còn nhà văn Trần Chiểu nhận xét: “Tô
Ngọc Hiến là một nhà văn đầy nghị lực, một trái tim nồng nhiệt, sống và
sáng tạo hết mình, đã để lại những tác phẩm giá trị về Vùng mỏ, về người Thợ
mỏ.” [16, tr. 500]. Nhà văn Vũ Thảo Ngọc, khi đọc tác phẩm Người kiểm tu - tác
phẩm gắn với Tô Ngọc Hiến nhƣ một thƣơng hiệu (Tô Ngọc Hiến - Ngƣời kiểm
tu) cho rằng: “Cụm từ “người kiểm tu” không chỉ dừng lại ở một công việc nghề
7
nghiệp cụ thể của người làm mỏ, mà nó đã nghiễm nhiên như một phép chơi chữ
tạo ra sức lôi cuốn đặc biệt của truyện ngắn này" [28]. Điều đó cũng góp phần
giải thích lí do Người kiểm tu của Tô Ngọc Hiến đã đƣợc nhận Giải nhất cuộc thi
truyện ngắn Báo Văn nghệ năm 1972 và đƣợc bạn đọc cả nƣớc biết đến.
Điểm qua tình hình nghiên cứu một số gƣơng mặt tiêu biểu của truyện
ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975, có thể thấy đến nay đã có khá nhiều
cơng trình nghiên cứu, bài viết, lời giới thiệu về các truyện ngắn, tập truyện
ngắn và tác giả tiêu biểu của truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chƣa có cơng trình nghiên cứu chun biệt
nào về truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 20 năm miền Bắc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc (1955 - 1975).
3. Đối tƣợng, mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng luận văn lựa chọn nghiên cứu là truyện ngắn của các nhà văn
sống và viết về Quảng Ninh từ mốc thời gian 1955 - khi Vùng mỏ Quảng Ninh
đƣợc giải phóng tới năm 1975 - khi đất nƣớc hịa bình, thống nhất với những
gƣơng mặt tiêu biểu nhƣ: Võ Huy Tâm, Nguyễn Dậu, Lý Biên Cƣơng, Tô Ngọc
Hiến, Hoàng Văn Lƣơng, Nguyễn Sơn Hà, Nguyễn Đức Huệ, Nam Ninh.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Tìm hiểu nhằm mang lại cái nhìn cụ thể về những nội dung cơ bản, những
đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 1975. Xác định các tác giả, tác phẩm tiêu biểu của truyện ngắn Quảng Ninh giai
đoạn 1955 – 1975. Từ đó, định vị sự phát triển của truyện ngắn Quảng Ninh giai
đoạn 1955 – 1975 trong tƣơng quan với truyện ngắn Việt Nam cùng giai đoạn,
góp tiếng nói trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn học Quảng Ninh.
4. Nhiệm vụ và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện bức tranh truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975,
định vị nó trong truyện ngắn Việt Nam cùng giai đoạn.
8
- Xác định, nghiên cứu các tác giả, tác phẩm tiêu biểu của truyện ngắn
Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975.
- Khái quát những nội dung, nghệ thuật chủ yếu đƣợc thể hiện truyện
ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp hệ thống: Nhận diện, hệ thống hóa truyện ngắn của các
tác giả viết về Quảng Ninh trên cơ sở sự tƣơng đồng về đặc trƣng thể loại.
- Phƣơng pháp phân tích tác phẩm theo đặc trƣng thể loại: Phân tích tác
phẩm theo đặc trƣng của thể loại truyện ngắn (nhân vật, ngôn ngữ, tình huống
truyện, …).
- Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu:
+ So sánh, đối chiếu các tác phẩm cùng thời để thấy rõ nét tƣơng đồng và
khác biệt trong thế giới nhân vật của các nhà văn, những nét giống và khác nhau
trong nghệ thuật phản ánh con ngƣời, đời sống.
+ So sánh các truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975 với truyện
ngắn thuộc các giai đoạn trƣớc và sau đó để thấy đƣợc sự kế thừa và phát triển
cũng nhƣ sức ảnh hƣởng của truyện ngắn giai đoạn này.
- Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Đặt tác phẩm vào mơi trƣờng văn
hóa mà nó sinh thành, vận động, xác định bối cảnh lịch sử, xã hội, những yếu tố
chi phối tới nội dung và cách thức kiến tạo tác phẩm.
Ngoài ra, luận văn sử dụng một số thao tác nhƣ: Thống kê, phân loại,
phân tích và tổng hợp,…
5. Phạm vi nghiên cứu
5.1. Phạm vi khoa học: Văn xuôi Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975 có sự
phát triển ở cả tiểu thuyết, truyện ngắn và ký. Luận văn chỉ nghiên cứu bộ phận
truyện ngắn của văn xuôi Quảng Ninh giai đoạn từ khi Vùng mỏ đƣợc giải
phóng (1955) tới khi miền Nam đƣợc hồn tồn giải phóng, đất nƣớc thống nhất
(1975).
9
5.2. Phạm vi tƣ liệu: Các truyện ngắn viết về Quảng Ninh và các truyện
ngắn của các tác giả sống và viết ở Quảng Ninh trong giai đoạn 1955 – 1975:
Khoảng không của đất, Nxb. Hội nhà văn Quảng Ninh, Truyện ngắn Lý Biên
Cương, Nxb. Văn học, Hà Nội, Ánh đèn trong lò, Nxb. Văn học, Tác phẩm chọn
lọc, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh, Truyện ngắn Quảng Ninh 1969
– 2009, Nxb. Hội nhà văn.
6. Bố cục
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về truyện ngắn Việt Nam và truyện ngắn
Quảng Ninh giai đoạn 1955 – 1975
Chƣơng 2: Bức tranh nghệ thuật trong truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn
1955 - 1975
Chƣơng 3: Nghệ thuật thể hiện của truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn
1955 – 1975
7. Đóng góp của luận văn
- Lần đầu tiên, truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975 với các
tác giả, tác phẩm tiêu biểu đƣợc hệ thống hóa.
- Nhận diện, khái quát những nét đặc trƣng về nội dung và nghệ thuật
truyện ngắn Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975.
- Là tài liệu tham khảo cho giáo viên dạy về văn học địa phƣơng (văn
học Quảng Ninh).
10
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM VÀ
TRUYỆN NGẮN QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 1955 - 1975
1.1. Sơ lƣợc về thể loại truyện ngắn
1.1.1. Khái niệm truyện ngắn
Mặc dù thuật ngữ “truyện ngắn” xuất hiện chính thức vào khoảng cuối thế
kỉ XIX cùng với báo chí, bản thân nó cũng đã từng có một lịch sử phát triển riêng,
nhƣng cho đến nay trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, ngƣời ta vẫn chƣa xây
dựng đƣợc một hệ thống lí luận hồn chỉnh về truyện ngắn. Đƣợc quan niệm là
“một bộ phận của tiểu thuyết” (Bùi Việt Thắng) hay là “một dạng tiểu thuyết đặc
biệt” (Vƣơng Trí Nhàn), truyện ngắn đã có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Với kinh nghiệm từ nhiều năm cầm bút, Pautopxki phát biểu: “Truyện
ngắn là truyện viết ngắn gọn, trong đó cái khơng bình thường hiện ra như một
cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái khơng bình thường”
[29, tr.105]. Từ những trải nghiệm trong thực tế sáng tác của mình, Aimatov lại
nói: “Truyện ngắn giống như một thứ tranh khắc gỗ, lao động nghệ thuật ở đây
đòi hỏi chặt chẽ, cô đúc, các phương tiện phải được tính tốn một cách tinh tế,
nét vẽ phải chính xác” [29, tr. 146]. Từng trăn trở rất nhiều trong mỗi trang viết,
nhà văn Nguyễn Công Hoan lại cho rằng “Truyện ngắn không phải là truyện mà
là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết”. [49, tr.186]
Một trong những định nghĩa súc tích về truyện ngắn và đƣợc nhiều ngƣời
đồng tình là phát biểu của Lại Nguyên Ân: “Một thể loại tự sự cỡ nhỏ, thường
được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con
người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là dung lượng, tác phẩm truyện
ngắn thích hợp với nhiều người tiếp nhận (độc giả) đọc nó liền mạch khơng
nghỉ.” [39, tr. 1846-1847].
1.1.2. Đặc điểm truyện ngắn hiện đại
1.1.2.1. Đặc điểm đầu tiên, dễ thấy nhất của truyện ngắn là dung lƣợng
nhỏ. Thông thƣờng, dung lƣợng của một truyện ngắn co dãn khoảng từ 3 đến 50
11
trang. Dƣới con số 3 trang, ngƣời ta gọi là “truyện ngắn mini”, hoặc “truyện
ngắn trong lòng bàn tay” trên con số 50 trang, ngƣời ta gọi là truyện vừa, trên
100 trang là tiểu thuyết. Những cách gọi này tƣơng ứng với các khái niệm đoản
thiên tiểu thuyết (truyện ngắn) trung thiên tiểu thuyết (truyện vừa) trƣờng thiên
tiểu thuyết (truyện dài) vốn phổ biến ở Việt Nam vào thời kỳ đầu của văn xi
tự sự hiện đại. Tuy nhiên tính chất "nhỏ" của truyện ngắn không chỉ nằm ở dung
lƣợng, mà quan trọng hơn là những quy luật cấu tạo đặc thù của truyện ngắn. Do
tính chất ngắn gọn, truyện ngắn đƣợc tổ chức bằng các phƣơng thức và chất liệu
đặc biệt.
Về “cách nắm bắt cuộc sống của thể loại”, truyện ngắn khơng có tham
vọng ơm vào mình một hiện thực rộng lớn, hoành tráng. “Ngắn ở đây đồng nghĩa
với hàm súc, tinh lọc và hay” (Bùi Việt Thắng). Nguyên tắc chƣng cất của truyện
ngắn không cho phép “dồn ép” hoặc “nhồi nhét” rút gọn nội dung của một
truyện dài, hoặc một hình thức tƣơng đƣơng nhƣ thế, thành truyện ngắn. Nếu ta
đem cắt tỉa, gọt đẽo một tiểu thuyết vài ba trăm trang xuống chỉ cịn vài chục
trang thì cái thành phẩm đặc biệt này cũng không phải và không thể trở thành
một truyện ngắn. Nhƣ vậy, ngắn gọn trong truyện ngắn là cái ngắn gọn tinh lọc và
chặt chẽ. Sekhov, một bậc thầy truyện ngắn thế giới đã viết: “Truyện ngắn cũng y
như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả phải đâu vào đấy, khơng có cái gì được
thừa. Khác với truyện dài và truyện vừa, truyện ngắn phải là “một lát cắt gọn
ghẽ”, “toàn truyện là một cái vịng khép kín khơng dài q, khơng ngắn q,
khơng xơ đẩy xộc xệch, thậm chí khơng thừa một chi tiết nào.” [48, tr.122]
Để đạt tới tầm cao và chiều sâu của ý tƣởng mà vẫn sống động tự nhiên,
truyện ngắn “phải lựa chọn được một cách nhìn và một điểm nhìn tập trung,
giống như cái tiêu điểm của thấu kính, tập trung ánh sáng mặt trời để có thể đốt
cháy đám bùi nhùi” [2, tr.42]. Các tác giả truyện ngắn thƣờng hƣớng tới việc
khắc hoạ một hiện tƣợng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay
trong đời sống tâm hồn con ngƣời. Ám ảnh và đầy ấn tƣợng cũng là một trong
những cách thức chiếm lĩnh hiện thực và hấp dẫn ngƣời đọc của truyện ngắn.
12
Về tác động của truyện ngắn, do tính chất cơ đúc, truyện ngắn có sức nén
và sức cơng phá cao. Chỉ cần một ít trang văn xi, ngƣời viết có thể làm “nổ
tung trong tình cảm và ý nghĩ của người đọc những điều rất sâu xa và da diết
của con người, khiến người đọc phải nhớ mãi, suy nghĩ mãi, đọc đi đọc lại mãi
không chán” [49, tr.148]. Đỗ Chu cũng có cùng quan điểm nhƣ vậy: “Một
truyện ngắn hay có thể làm cho người ta cười lớn hoặc ứa nước mắt” bởi vì
“sức chứa trong truyện có thể rất nhiều, sức nổ rất lớn”. Lỗ Tấn thì lại cho
rằng: Truyện ngắn có thể và cần phải trở thành “tòa đại lầu” để chứa đựng cả
tinh thần của thời đại nhờ phƣơng thức biểu hiện qua một con mắt mà truyền đạt
đƣợc cả tình thân con ngƣời vốn có của nó. Bằng sự trải nghiệm trong cuộc đời
cầm bút của mình, Thomas Mann khẳng định: “Truyện ngắn tuy bé nhỏ, nhưng
những cái bé nhỏ đó cũng có sức chứa nội tại lớn lao, cũng có thể bao quy được
tồn bộ đời sống" [44].
Về tính chất thƣởng thức, truyện ngắn khác tiểu thuyết ở chỗ độc giả có
thể đọc nó trong một hơi không nghỉ: “Truyện ngắn là một tác phẩm người ta có
thể đọc trong mười phút hoặc một giờ”. [29]
Tính nhanh nhạy, cập nhật cũng là một đặc điểm của truyện ngắn. Là một
thể loại dân chủ, truyện ngắn gần gũi với đời sống hằng ngày. Với đặc thù ngắn
gọn, súc tích, dễ đọc, truyện ngắn thƣờng gắn liền với hoạt động báo chí, có tác
động mạnh mẽ, kịp thời tới cuộc sống. Ở truyện ngắn, ngƣời viết không đƣợc
dông dài, độ căng của tác phẩm phải “như mũi tên mà dây cung đã bật, phải bay
vụt về tới địch khơng thể có một phần nghìn dây trù trừ” [49, tr.162].
1.1.2.2. Truyện ngắn là thể loại văn xuôi tự sự. Trên phƣơng diện này,
truyện ngắn gần với tiểu thuyết và các thể loại truyện kể dân gian nhƣ truyện cổ
tích, thần thoại, truyện cƣời và khác với tùy bút, thơ ca. Từ đặc trƣng lớn có tính
bao trùm này, có thể rút ra những nét riêng của truyện ngắn nhƣ sau:
Cốt truyện là yếu tố hết sức quan trọng của thể tự sự nói chung và truyện
ngắn nói riêng. Song khác với tiểu thuyết, cốt truyện của truyện ngắn “thường
tự giới hạn về thời gian, không gian” (Lại Nguyên Ân). Nếu tiểu thuyết dõi theo
13
cả một hay nhiều số phận nhân vật và tái hiện một bức tranh xã hội rộng lớn rậm
rạp với những mâu thuẫn, xung đột và diễn biến thì truyện ngắn tập trung vào
một khoảnh khắc, trong đó xây dựng một tình huống truyện. Trong những bài
giảng về Mỹ học, Hegel nói: “Tình huống là một trạng thái có tính riêng biệt
góp phần biểu lộ nội dung” [49, tr. 202]. Liên hệ với truyện ngắn, chúng ta thấy
tình huống là điểm giao cắt của nhiều yếu tố cùng một lúc, qua đó tính cách của
nhân vật tức thì hiện ra. Các nhà văn, nhà nghiên cứu ở Việt Nam đôi khi đồng
nhất khái niệm tình huống với tình thế. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng:
“Với truyện ngắn và với một tác giả có kinh nghiệm viết... đơi khi người ta nghĩ
ra được một cái tình thế xảy ra chuyện, thế là coi như xong một nửa… tình thế
trên khơng cần đến những mâu thuẫn gay gắt như kịch, nhưng nó là cái cớ hết
sức chắc chắn, hết sức cụ thể và mang tính riêng. Ở đó cốt truyện và nhân vật
nương tựa vào nhau để thực hiện đắc lực tất cả ý định của tác giả, ví như một
cái cọc vững chắc để cho cây bí leo lên mà ra hoa trái…” [4, tr. 114].
Nếu tiểu thuyết là cuộc đời trong sự trọn vẹn của nó thì truyện ngắn lại là
một “mặt cắt của dòng đời”. Nếu tiểu thuyết “diễn tả một quá trình vận động
của cuộc sống” thì truyện ngắn lại “tập trung vào một tình thế thể hiện một
bước ngoặt, một trường hợp hay một tâm trạng nhân vật” nếu tiểu thuyết “mở
ra một diện” thì truyện ngắn “tập trung xoáy vào một điểm” [49, tr. 73].
Về cách thức tiếp cận cuộc sống, truyện ngắn cũng có những khác biệt, nó
“khái quát cuộc sống theo chiều sâu, lấy điểm nối diện, lấy cái khoảnh khắc để
nối cái vĩnh cửu” [48, tr. 149]. “Tiểu thuyết thường vươn tới cái toàn thế, truyện
ngắn lại hay hướng về cái đơn nhất. Nếu ví tiểu thuyết như một căn phịng ấm
áp thì truyện ngắn có lẽ chỉ nên là một ngọn lửa nhiệt lượng tập trung thật mạnh
ở nhiệt độ cao. Nếu tiểu thuyết là một con người với đầy đủ phục sức, đường
nét... thì truyện ngắn chỉ cần là một đôi mắt nhưng đây là cửa sổ tâm hồn - hoặc
thậm chí là một cái ngước mặt, một ánh mắt vừa có sức cuốn hút mà độ sâu
thẳm lại khơng thể lường được” [49, tr. 378].
14
Nhiều nhà văn đã ra sức tìm một khoảnh khắc đích đáng cho truyện ngắn
của mình. Nó có giá trị nhƣ một một điểm xoáy, một phút giao cắt, trong đó nhân
vật có thể phơi mở, bộc lộ trọn vẹn tính cách. Truyện ngắn Lặng lẽ Sapa của
Nguyễn Thành Long, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Sang sông của Nguyễn
Huy Thiệp là những truyện ngắn có chứa đựng những khoảnh khắc nhƣ vậy.
Về tính chất, điều đặc biệt ở truyện ngắn là cốt truyện của nó nhiều khi rất
rõ nét, rất li kì hấp dẫn nhƣng cũng có khi khơng có, hoặc mờ nhạt. Thạch Lam
là một nhà văn có nhiều tác phẩm có cốt truyện mơ hồ, "truyện mà khơng có
chuyện” nhƣ thế. Và yếu tố khiến cho truyện ngắn vẫn đƣợc chấp nhận khi thiếu
vắng cốt truyện chính là chi tiết.
Ở truyện ngắn, chi tiết đóng vai trị rất quan trọng. Nó góp phần tạo dựng
cảnh trí, khơng khí, tình huống và khắc họa tính cách, hành động, tâm tƣ nhân
vật. Nhận xét về điều này, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định: “Truyện ngắn có
thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện ngắn cũng
có thể chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể
nghèo chi tiết. Nó sẽ như nước lã”. [38, tr. 33].
Cũng nhấn mạnh chi tiết, nhà văn Vũ Thị Thƣờng cho rằng: “Viết truyện
dài như là một căn nhà đồ sộ, còn bắt tay viết truyện ngắn là nhận làm việc
chạm trổ một cái khay, một tấm tranh khắc gỗ.” [29, tr. 128].
Nhƣ vậy, vai trò của chi tiết trong truyện ngắn là hết sức quan trọng.
Không chỉ vậy, nhiều chi tiết đắt giá có thể nâng tác phẩm lên đến “cấp độ
tượng trưng, tạo sức ám ảnh” [48, tr. 84]. Văn học Việt Nam hiện đại có nhiều
tác giả, nhiều tác phẩm đã lựa chọn đƣợc những chi tiết nhƣ thế, nhƣ chi tiết
Hoàng và vợ đọc Tam Quốc vào mỗi đêm trƣớc khi ngủ, trang trọng nhƣ
một thứ lễ nghi, chi tiết Hoàng vỗ đùi khen Tào Tháo “Tài thật! Tài thật! Tài
đến thế là cùng! Tiên sư anh Tào Tháo...” trong truyện ngắn Đôi mắt của Nam
Cao chẳng hạn. Hay chi tiết kết thúc truyện ngắn Oẳn tà roằn của Nguyễn Công
Hoan cũng thật độc đáo, ấn tƣợng: “Bắc nhìn kĩ cải tóc cái mặt, cái mũi con.
Rồi giở bọc ra ngắm thằng bé… Ngắm xong, bọc cẩn thận trả lại, chàng từ từ
15
lui ra, thở một cái rõ dài, nét mặt thất vọng. Té ra thằng bé con chàng nước da
lại đen như cái cột nhà cháy. Vậy nó khơng phải con Rồng cháu Tiên. Nó giống
Oẳn tà roằn, khơng biết chống gậy”…
Bên cạnh việc sử dụng các chi tiết đắt giá, cách kết thúc tác phẩm cũng có
một vai trị rất lớn trong việc tạo nên sự hấp dẫn của cốt truyện. Nhà văn Nga D.
Phuốcmanốp đã nói: “Sức mạnh của cú đấm (nghệ thuật) là thuộc về đoạn
cuối”. Và nhƣ vậy, ta có thể hiểu rằng, với truyện ngắn, tƣ tƣởng tác phẩm
thƣờng thể hiện đột ngột và có thể chỉ thể hiện trong mấy dòng cuối cùng của
văn bản. O. Henri là một nhà văn đƣợc nhiều độc giả trên thế giới u thích một
phần cũng là vì nghệ thuật kết thúc tác phẩm của ông rất độc đáo, ấn tƣợng.
Trong văn học Việt Nam, Nguyễn Công Hoan cũng là tác giả của những truyện
ngắn có kết thúc bất ngờ, ấn tƣợng.
Theo dịng lịch sử, đã có sự thay đổi đáng kể trong cách kết thúc tác phẩm
của truyện ngắn Việt Nam, từ kết thúc đóng chuyển sang kết thúc mở. Hơn thế
nữa, để nới rộng biên độ cho đoạn kết và kéo ngƣời đọc vào quá trình đồng sáng
tạo, một số cây viết truyện ngắn hiện đại lão luyện còn tạo ra một khoảng trống
tự do ở cuối truyện. Lối kết thúc mở có giá trị tạo nên dƣ ba, tạo nên sức ám ảnh
cho ngƣời đọc, cũng là cách làm cho tác phẩm có sức sống lâu bền với thời gian.
Là thể loại tự sự đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, kết cấu truyện ngắn cũng có
những nét đặc thù riêng. Theo Nguyễn Minh Châu: “Nếu tiểu thuyết là một
đoạn của dịng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dịng đời. Vì thế mà cũng
như kịch ngắn, truyện ngắn đòi hỏi người viết một công việc tổ chức và cấu trúc
truyện hết sức nghiêm ngặt. Quả thực có một thứ kĩ thuật viết truyện ngắn. Nó
cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén tư tưởng vào trong một
cốt truyện thật ngắn gọn, tự nhiên” [4, tr. 251]. Nhiệm vụ của kết cấu là phải tổ
chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung, tƣ tƣởng thống nhất và thấm sâu vào
toàn bộ các bộ phận của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất.
Gọn, cơ động, kết cấu trong truyện ngắn thƣờng đa dạng: Kết cấu theo
trình tự thời gian, kết cấu bằng cách đi thẳng vào giữa truyện, kết cấu theo tuyến
16
nhân vật, kết cấu tâm lí... Nam Cao là một trong số các nhà văn hiện đại tạo ra
đƣợc cách kết cấu tác phẩm rất đặc trƣng, ấn tƣợng: Kết cấu tâm lí. Trong văn
học Việt Nam đƣơng đại, ở thể loại truyện ngắn, nhiều nhà văn đã tạo ra cho
mình những kiểu kết cấu phá cách độc đáo, khơng trùng lặp và cũng rất khó gọi
tên nhƣ Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh, Lê Minh Khuê, Nguyễn
Huy Thiệp, ...
Nhân vật là một phƣơng diện rất quan trọng của truyện ngắn. Ở các truyện
ngắn đặc sắc, bao giờ các tác giả cũng xây dựng đƣợc những nhân vật điển hình:
AQ (AQ chính truyện – Lỗ Tấn), Chí Phèo (Chí Phèo – Nam Cao), tƣớng Thuấn
(Tướng về hưu – Nguyễn Huy Thiệp). Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành - Nguyễn Minh Châu...). Nếu tiểu thuyết theo đõi, mô tả tỉ mỉ sự thăng
trầm của số phận con ngƣời thì truyện ngắn chỉ tập trung ống kính vào một vài
khoảnh khắc của đời ngƣời. Do ngắn gọn, truyện ngắn thƣờng “khơng có mấy
nhân vật” [29, tr. 125] “một hoặc hai nhân vật chính, kèm theo đơi ba nhân vật
phụ lướt đậm nhạt mà diện xuất hiện chỉ cần có mặt với đơi đường nét mờ chìm
như cảnh núi, cảnh sơng” [29, tr. 26]. Là một hình thức tự sự cỡ nhỏ, truyện
ngắn thƣờng hƣớng tới việc “thể hiện một bước ngoặt, một trường hợp, một
trạng thái nhân vật” [49, tr. 73]. Bởi “phân tích một nỗi lịng, một cảnh ngộ,
một sự việc, phân tích một hiện tượng, một lời nói, một bức ảnh thì rất có thể
viết từ đầu đến cuối bằng một thái độ, bằng tâm tình của mình và viết ngắn
được. Và cũng chỉ có thể viết ngắn thôi. Điểm này cũng là điểm mà truyện ngắn
khác với truyện dài. Khi viết truyện dài tác giả chỉ có thể gửi tâm tình của mình
vào từng nhân vật, trong từng sự kiện” [29, tr. 121].
Nếu tiểu thuyết ngày càng có xu hƣớng là đa thanh, mỗi nhân vật đƣợc
nhà văn phả cho một giọng tƣơng ứng, thì với truyện ngắn, tính chất này khơng
phải là một yêu cầu tiên quyết. Tuy vậy, vẫn có những truyện ngắn dung nạp
nhiều giọng điệu. Lúc bấy giờ, ngƣời ta nói nhà văn ấy viết truyện ngắn bằng tƣ
duy tiểu thuyết, hay nói khác đi, đó là hiện tƣợng giao thoa về thể loại rất dễ
thấy trong kỉ nguyên hiện đại và hậu hiện đại.
17
1.2. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội tác động tới sáng tác truyện ngắn
Quảng Ninh giai đoạn 1955 - 1975
1.2.1. Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội của Việt Nam giai đoạn 1955 – 1975
Chiến dịch Đông – Xuân (1953 – 1954) mà đỉnh cao là chiến thắng Điện
Biên Phủ đã buộc thực dân Pháp phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ rút quân về nƣớc,
thừa nhận chủ quyền của ba nƣớc Đơng Dƣơng. Tuy nhiên do tình hình chính trị
thế giới phức tạp, Việt Nam tạm thời bị chia làm hai miền Nam – Bắc với hai
chế độ khác nhau: Miền Bắc đã hồn tồn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Sự nghiệp cách
mạng chƣa hoàn thành, hai nhiệm vụ đặt ra cho cách mạng Việt Nam giai đoạn
1955 - 1975 là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và giải phóng miền Nam
thống nhất đất nƣớc.
Đối với miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1960, nhiệm vụ cấp bách là khôi
phục nền kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Công cuộc khôi phục kinh tế diễn
ra trong hồn cảnh hết sức khó khăn. Vốn là một nƣớc thuộc địa lại vừa trải qua
chiến tranh nên mọi cơ sở vật chất cũng nhƣ tinh thần của nhân dân ta bị tổn thất
nặng nề. Trƣớc tình hình đó, tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết
vạch rõ nhiệm vụ trƣớc mắt là ổn định trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị
trƣờng. Trọng tâm ở cả thành phố và nông thôn là phục hồi và nâng cao sản xuất
mà then chốt là phát triển sản xuất nông nghiệp. Với quyết tâm cao độ, cuối năm
1957 kế hoạch khôi phục kinh tế của miền Bắc căn bản đã hoàn thành, nhiều chỉ
tiêu đặt ra đã hồn thành vƣợt mức. Nơng nghiệp, cơng nghiệp, giao thơng vận
tải đã có diện mạo mới, đặc biệt lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế đã phát triển
nhanh chóng.
Sau ba năm khơi phục kinh tế với nhiều thành quả quan trọng, miền Bắc
sôi nổi bƣớc vào giai đoạn cải tạo xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế. Khơng
khí này diễn ra trên tất cả các vùng miền từ đồng bằng đến trung du miền núi, từ
nông thông đến thành thị, ở tất cả các ngành, từ công nghiệp, nông nghiệp,
thƣơng nghiệp tới giáo dục, y tế. Thắng lợi của kế hoạch ba năm (1958 -1960)
18
và cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những chuyển biến to lớn trên toàn miền
Bắc nƣớc ta.
Ở miền Nam, trƣớc khi hiệp định Giơ-ne-vơ đƣợc ký kết, vào tháng
5/1954, với sự hậu thuẫn của Mỹ, Ngơ Đình Diệm lên làm Thủ tƣớng. Đƣợc Mỹ
khuyến khích, hỗ trợ, Ngơ Đình Diệm đã từ chối phối hợp thực hiện cuộc tổng
tuyển cử thống nhất Việt Nam. Chính quyền Ngơ Đình Diệm đã dùng nhiều thủ
đoạn độc ác, dã man, vừa mua chuộc, vừa mị dân, vừa đàn áp trắng trợn, cƣỡng
bức dân ta trong các chiến dịch tố cộng, vu khống, tố cáo cộng sản, đề cao Ngơ
Đình Diệm. Tình hình đó đã khiến cho cách mạng Việt Nam gặp nhiều tổn thất
nặng nề. Nhiều phong trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị đã diễn ra
cho đến hết những năm 1960 mà tiêu biểu là phong trào “Đồng khởi”. Xuất phát
từ yêu cầu của Nghị quyết 15 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng
vào tháng 1 – 1959, ngọn lửa đồng khởi đã cháy lên tại nhiều vùng rộng lớn ở
miền Nam, từ Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi cho đến các vùng Đơng
Nam Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt là vùng Bến Tre. Thắng lợi của
phong trào Đồng khởi đã thể hiện đƣợc sức mạnh của cách mạng miền Nam và
sự suy yếu của chính quyền Ngơ Đình Diệm.
Từ năm 1961 đến năm 1964, bối cảnh lịch sử xã hội có sự biến chuyển
tích cực rõ nét, miền Bắc đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ đƣợc
xem là quyết định nhất trong sự nghiệp cách mạng của cả nƣớc, còn miền Nam
tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhiệm vụ đƣợc xác định
là có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc đánh đổ đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện hòa bình và thống nhất đất nƣớc.
Từ năm 1961, tại miền Bắc, Đảng ta đã xác định lấy xây dựng chủ nghĩa
xã hội làm trọng tâm. Nhiều phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa dấy lên sôi
nổi. Nếu những năm trƣớc Đảng chú trọng phát triển nơng nghiệp thì sang giai
đoạn này Đảng chủ trƣơng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, thể hiện rõ trong kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965). Trong công nghiệp, các ngành công
nghiệp nhƣ điện, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng đã đƣợc hình
19
thành và phát triển, mạnh nhất là ngành điện và cơ khí. Nơng nghiệp cũng đƣợc
đầu tƣ phát triển đúng mức, hợp tác xã nông nghiệp và nông trƣờng quốc doanh
có sự phát triển mạnh, làm cơ sở cho sự phát triển nơng nghiệp. Văn hóa, giáo
dục ngày càng ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của ngƣời dân không
ngừng đƣợc nâng cao. Trong 5 năm này, đời sống của nhân dân miền Bắc ổn
định, với tinh thần tất cả cho chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất đã tạo cho miền Bắc cơ sở chính trị, tinh thần và vật chất để bảo vệ, liên
tiếp đánh thắng các cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ sau này, đồng
thời làm trịn nhiệm vụ cơ sở của cách mạng giải phóng miền Nam, hậu phƣơng
lớn của tiền tuyến miền Nam và là hậu phƣơng lớn của cách mạng ba nƣớc
Đông Dƣơng.
Trong khi đó, ở miền Nam, tình hình xã hội có nhiều biến động. Sau khi
Ken-nơ-đi lên làm tổng thống, Mỹ đã điên cuồng chống phá cách mạng Việt
Nam dƣới nhiều hình thức. Chúng đã dồn nhân dân vào ấp chiến lƣợc để dễ
dàng thực hiện âm mƣu của mình, dùng sức mạnh của bộ máy quân sự, chính trị
để cƣỡng bức, càn quét dài ngày vào nhiều địa phƣơng. Đời sống của nhân dân
miền Nam vô cùng cực khổ đau thƣơng. Tháng 1 năm 1961, Bộ Chính trị họp
quyết định về những nhiệm vụ công tác trƣớc mắt của cách mạng miền Nam,
theo đó đấu tranh vũ trang đƣợc phát huy với quy mô ngày càng lớn, kết hợp với
đấu tranh chính trị. Phong trào này bƣớc đầu đã phá vỡ từng mảng chính quyền
địch ở nơng thơn, tiêu diệt và làm tan rã hàng vạn tề ngụy, phá gần hết các “khu
dinh điền”, “khu trù mật” của địch... đƣa khí thế cách mạng ngày càng dâng cao,
làm phá sản chiến lƣợc chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ.
Trong ba năm (1965 – 1968), miền Nam kiên cƣờng chiến đấu chống
chiến lƣợc chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ. Ỷ vào ƣu thế qn đội đơng, vũ
khí hiện đại, hỏa lực mạnh, cơ động nhanh, Mỹ ngụy thƣờng xuyên mở những
cuộc càn quét lớn. Tuy nhiên, với thế chủ động “tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà
diệt”, quân và dân ta đã khiến chiến lƣợc chiến tranh cục bộ của Mỹ bị phá sản
hoàn toàn. Đỉnh cao cho phong trào cách mạng những năm 1965 - 1968 là cuộc
20
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 khiến địch chống váng. Cuộc tập kích
này tuy cịn nhiều hạn chế nhƣng đã tạo đƣợc bƣớc ngoặt quyết định cho cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nƣớc, làm lung lay ý chí xâm lƣợc của quân viễn
chinh Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh.
Với thủ đoạn thâm độc, không từ bỏ âm mƣu xâm lƣợc của mình, Mỹ
dựng lên “sự kiện vịnh Bắc bộ” chính thức mở rộng cuộc chiến tranh bằng
không quân và hải quân lần thứ nhất phá hoại miền Bắc vào ngày 7 – 2 – 1965.
Trƣớc tình hình đó miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa phối
hợp với miền Nam chống chiến tranh cục bộ, vừa tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã
hội trong điều kiện chiến tranh và làm tròn nhiệm vụ hậu phƣơng lớn.
Từ năm 1969 đến 1973, sau khi trúng cử Tổng thống, chính thức bƣớc
vào nhà Trắng, Nich-xơn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh Việt Nam với chiến lƣợc
Việt Nam hóa chiến tranh, “dùng ngƣời Việt đánh ngƣời Việt”, huy động sức
mạnh tối đa về quân sự của nƣớc Mỹ kết hợp với thủ đoạn ngoại giao xảo quyệt.
Tất cả những chính sách đó đã đẩy nhân dân miền Nam rơi vào tình cảnh đau
thƣơng, mất mát nặng nề.
Đáp lại lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều phong trào quần
chúng đã nổ ra khắp các vùng nông thôn khu vực Trung trung bộ và đồng bằng
sông Cửu Long với quyết tâm chống ác ôn, phá kìm kẹp, giành quyền làm chủ.
Ở thành thị, cơng nhân, sinh viên, học sinh, trí thức, tăng ni phật tử đấu tranh
bằng nhiều hình thức và thu đƣợc nhiều thắng lợi. Cuộc tiến công chiến lƣợc
năm 1972 là sự kiện tiêu biểu cho phong trào chống Mỹ giai đoạn này, giáng
một địn mạnh vào qn ngụy và quốc sách “bình định” của chiến lƣợc Việt
Nam hóa chiến tranh.
Trƣớc nguy cơ phá sản của chiến lƣợc Việt Nam hóa chiến tranh, Níchxơn tiến hành “Mỹ hóa” trở lại cuộc chiến tranh xâm lƣợc Việt Nam bằng cách
dùng một lực lƣợng lớn không quân và hải quân đánh chiếm miền Nam và phá
hoại miền Bắc. Miền Bắc vừa phải khôi phục phát triển kinh tế, chi viện cho
miền Nam vừa phải chống chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Đế quốc Mỹ.