BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
TRẦN NGUYỄN PHƯƠNG LAM
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TÀI SẢN
LÀ ĐỘNG SẢN BỊ KÊ BIÊN
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH
HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TÀI SẢN
LÀ ĐỘNG SẢN BỊ KÊ BIÊN
ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Vĩnh Châu
Sinh viên thực hiện
: Trần Nguyễn Phương Lam
Lớp
: 84-QTL42
TP HỒ CHÍ MINH - THÁNG 7 - NĂM 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ nội dung khóa luận “Hoạt động xử lý tài sản là động
sản bị kê biên để thi hành án dân sự” là kết quả của quá trình tổng hợp và nghiên cứu
của bản thân, dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Lê Vĩnh Châu. Những phần
sử dụng tài liệu tham khảo trong khóa luận đã được nêu rõ trong phần trích dẫn tài
liệu tham khảo. Các thơng tin được nêu trong khóa luận là trung thực và hồn tồn
chính xác, đúng sự thật.
Tác giả
Trần Nguyễn Phương Lam
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT TỪ VIẾT TẮT
TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT
1
BLDS 2015
Bộ luật Dân sự năm 2015
2
CHV
Chấp hành viên
3
Luật THADS 2014
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014
4
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 18 tháng 07 năm 2015 quy định chi tiết
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thi hành án dân sự
5
Nghị định số 33/2020/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 17 tháng 3 năm 2020 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐNghị định số 33/2020/NĐ-CP
CP của Chính phủ ngày 18 tháng 07 năm
2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự
6
7
THADS
Thi hành án dân sự
Thông tư 01/2016/TT-BTP
Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày
01/02/2016 hướng dẫn một số thủ tục về
quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ
trong thi hành án dân sự
Thông tư liên tịch số
8
11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTPTANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát tối cao
ngày 01 tháng 8 năm 2016 quy định một số
vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối
hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ TÀI
SẢN LÀ ĐỘNG SẢN BỊ KÊ BIÊN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ......................7
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi
hành án dân sự .........................................................................................................7
1.1.1 Khái niệm về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án
dân sự ...................................................................................................................7
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án
dân sự .................................................................................................................11
1.2 Ý nghĩa của quy định về xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án dân
sự ............................................................................................................................12
1.3 Quy định của pháp luật về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi
hành án dân sự .......................................................................................................14
1.3.1 Bảo quản động sản sau khi kê biên ...........................................................14
1.3.2 Định giá, định giá lại động sản bị kê biên ................................................17
1.3.3 Giao động sản bị kê biên cho người được thi hành án .............................24
1.3.4 Bán động sản bị kê biên để thi hành án dân sự.........................................25
1.3.5 Đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng động sản cho người mua
trúng đấu giá, người nhận động sản để thi hành án ..........................................30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ....................................................................................33
CHƯƠNG 2: BẤT CẬP VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN BỊ KÊ BIÊN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ......34
2.1 Bảo quản động sản sau khi kê biên ..................................................................34
2.1.1 Chủ thể được giao bảo quản động sản bị kê biên .....................................34
2.1.2 Xử lý trường hợp tài sản kê biên bị hư hỏng, mất mát, bị thay đổi hiện trạng
............................................................................................................................36
2.2. Định giá, định giá lại động sản bị kê biên ......................................................37
2.2.1 Thực trạng của việc định giá, định giá lại động sản bị kê biên ................37
2.2.2 Việc xác định, thẩm định giá đợng sản hình thành trong tương lai hoặc xác
định, thẩm định giá trị động sản là động sản vơ hình ........................................43
2.3 Bán động sản đã kê biên để thi hành án dân sự ...............................................45
2.3.1 Thời hạn đăng ký tham gia đấu giá, thời hạn ký hợp đồng bán đấu giá,
thông báo công khai việc đấu giá tài sản, bước giá trong bán đấu giá động sản
bị kê biên.............................................................................................................45
2.3.2. Quyền nhận lại động sản bị kê biên của người phải thi hành án ............49
2.3.3. Xử lý động sản bán đấu giá không thành .................................................49
2.3.4. Thẩm quyền bán đấu giá động sản bị kê biên của Chấp hành viên .........50
2.4 Quyền nhận tài sản, đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng động sản
cho người mua trúng đấu giá .................................................................................51
2.4.1. Quyền nhận tài sản của người mua trúng đấu giá ...................................52
2.4.2. Đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người trúng đấu giá
............................................................................................................................55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ....................................................................................57
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động quan trọng để các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các cơ quan tài phán được thực hiện trên thực
tế, góp phần giữ vững kỹ cương phép nước, đảm bảo công bằng, thực thi công lý và
củng cố lòng tin nhân dân. Điều 106 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Việc ra đời của Luật Thi hành án dân sự 2008
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (sau đây gọi tắt là Luật THADS 2014) đánh dấu cột
mốc quan trọng trong lĩnh vực này. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay đòi hỏi hệ thống pháp luật phải ngày càng được hồn
thiện, có tính pháp điển cao, trong đó thi hành án là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên
quan trực tiếp đến hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước, đến trật tự kỷ
cương pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Trong bối cảnh toàn xã hội bị tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, Bộ Tư pháp
đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, quyết liệt để thực hiện các chỉ tiêu,
nhiệm vụ được giao, góp phần tích cực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất
nước. Kết quả THADS đạt được trong năm 2021 mặc dù giảm so với năm 2020 nhưng
cũng rất khả quan1.
Trong công tác THADS, hoạt động cưỡng chế để đảm bảo thi hành án là hoạt động
quan trọng của Chấp hành viên (CHV) trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết
định của Tòa án. Theo quy định của Luật THADS 2014 thì hiện nay có sáu biện pháp
cưỡng chế thi hành án, trong đó “Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án,
kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ”. Quy trình thực hiện hoạt động này vô cùng
phức tạp, vất vả, khó khăn, thậm chí cịn nguy hiểm, có tính rủi ro cao đối với cán bộ,
CHV và có tác động trực tiếp đến quyền lợi, đời sống sinh hoạt của người phải thi
hành án. Do đó trong quá trình thực hiện hoạt động thi hành án đòi hỏi cán bộ, CHV
phải thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn, đầy đủ các bước theo trình tự, thủ tục
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai, “Bộ Tư pháp tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2021, ban
hành
chương
trình
công
tác
trọng
tâm
năm
2022”,
1
truy cập
ngày 20/5/2022; Xem Phụ lục 1 –Thống kê kết quả thi hành về việc và tiền 10 tháng năm 2020.
2
do pháp luật quy định. Pháp luật THADS đã có những quy định khá cụ thể việc kê
biên, xử lý tài sản bị kê biên trong THADS, tuy nhiên khi thi hành trên thực tế vẫn
còn nhiều bất cập, vướng mắc, trong đó có hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê
biên để thi hành án. Cụ thể:
Một là, xuất phát từ những sai phạm của CHV, người phải thi hành án và kể cả chủ
thể được giao bảo quản tài sản trong hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để
thi hành án.
Hai là, bất cập trong quy định của pháp luật về định giá, bán đấu giá động sản bị
kê biên và đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng động sản cho người mua
trúng đấu giá, người nhận động sản để thi hành án.
Ba là, liên quan đến quy định về chủ thể được giao bảo quản động sản bị kê biên.
Bốn là, quy định về đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng động sản cho
người mua trúng đấu giá, người nhận động sản để thi hành án chưa rõ ràng, nhiều
trường hợp người mua tài sản bị kê biên, nhận tài sản bị kê biên nhưng khơng thực
hiện được việc đăng ký.
Bên cạnh đó, hiện nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về THADS,
tuy nhiên, rất ít cơng trình nghiên cứu chun sâu về hoạt động xử lý tài sản là động
sản bị kê biên để THADS.
Vì vậy, xuất phát từ vai trò quan trọng của công tác xử lý tài sản bị kê biên, đặc
biệt là động sản bị kê biên để đảm bảo thi hành án đối với toàn bộ quá trình thi hành
án, tác giả chọn đề tài “Hoạt đợng xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành
án dân sự” để làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm gần đây đã có một số cơng trình nghiên cứu về lĩnh vực THADS. Mặc
dù công trình nghiên cứu về hoạt động xử lý động sản bị kê biên để THADS vẫn cịn
hạn chế nhưng vẫn có các tài liệu, luận án, luận văn liên quan, cụ thể như sau:
- Luận án, luận văn:
Bùi Đức Tiến (2018), “Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án ở Việt Nam”,
Luận văn Tiến sĩ của Học viện Chính trị quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; Lê Anh
T́n (2017), “Mợt số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở
Việt Nam”, Luận án Tiến sĩ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung của
luận án nghiên cứu về pháp luật và thực hiện pháp luật về cưỡng chế THADS ở Việt
Nam, qua đó nêu lên thực trạng và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao và đảm
bảo thực hiện pháp luật về THADS ở Việt Nam. Tuy nhiên, nội dung của luận án này
3
chỉ dừng lại ở việc khái quát chung về các biện pháp cưỡng chế THADS mà chưa
nghiên cứu cụ thể về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS.
Trần Thị Thùy Linh (2018), “Biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ theo pháp luật Việt Nam”,
Khóa luận tốt nghiệp của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung
khóa luận là nghiên cứu khái qt về biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của
người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ, từ đó chỉ ra thực trạng
pháp luật, thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện biện pháp cưỡng chế kê biên, xử
lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Do đó,
khóa luận chỉ nghiên cứu chi tiết quy trình áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với tất
cả các loại tài sản nên chưa nghiên cứu cụ thể đến hoạt động xử lý tài sản là động sản
bị kê biên.
Nguyễn Thị Thu Thảo (2021), “Xử lý tài sản là bất động sản bị kê biên để thi hành
án dân sự”, Khóa luận tốt nghiệp của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Nội dung của khóa luận là nghiên cứu trên cơ sở phân tích những khái niệm, các quy
định của pháp luật THADS về việc trình tự thủ tục xử lý tài sản thơng qua đó làm
sáng tỏ những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động xử lý bất động sản bị
kê biên. Qua đó, nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy phạm pháp luật về hoạt
động xử lý bất động sản bị kê biên trong thực tiễn, đồng thời chỉ ra những khó khăn,
vướng mắc cịn tồn tại để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử
lý tài sản để thi hành án. Do đó, khóa luận chỉ nghiên cứu đến hoạt động xử lý tài sản
là bất động sản bị kê biên chứ chưa nghiên cứu đến các quy định về hoạt động xử lý
tài sản là động sản bị kê biên.
- Giáo trình, sách chuyên khảo:
Giáo trình Nghiệp vụ thi hành án dân sự tập 1 (2016) của Học viện Tư pháp. Nội
dung của giáo trình là trang bị cho cán bộ, CHV những kỹ năng giải quyết các tình
huống phát sinh trong hoạt động THADS, trong đó bao gồm một số kỹ năng xử lý tài
sản bị kê biên để THADS.
Giáo trình Luật thi hành án dân sự (2017) của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo
trình Luật Thi hành án dân sự (2020) của Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nội dung của hai giáo trình là nêu những vấn đề
lý luận cũng như làm sáng rõ trình tự kê biên, xử lý tài sản bị kê biên nói chung. Do
mục đích của giáo trình là nhằm hướng đến việc giảng dạy trong các cơ sở đào tạo
Luật nên không đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật, cũng như chỉ ra bất cập, vướng
4
mắc và hướng hồn thiện. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những vấn đề lý luận mà các
cơng trình trên mang lại, tác giả cần chỉ ra bất cập và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật về xử lý tài sản, đặc biệt tài sản là động sản bị kê biên để THADS.
Bình luận Luật thi hành án dân sự (2019) của tác giả Hoàng Thị Thanh Hoa, Hồ
Qn Chính – Nguyễn Văn Nghĩa, cơng trình phân tích và bình luận tồn bộ các quy
định của Luật THADS, trong đó cũng chỉ ra những bất cập, vướng mắc của từng điều
luật. Vì là bình luận về điều luật nên chưa làm rõ được trình tự thủ tục của hoạt động
xử lý tài sản là động sản bị kê biên trong THADS.
- Bài viết tạp chí:
“Mợt số bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về bán đấu
giá tài sản thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay và kiến nghị hoàn thiện pháp luật”
của tác giả Lê Thị Hương Giang, tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, 2016, Số 6.
Nội dung bài viết chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật đối với hoạt động
bán đấu giá tài sản và từ đó kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bán đấu giá tài sản thi
hành án ở Việt Nam.
“Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự” của tác giả Bùi
Thị Thu Hiền, tạp chí Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, 2015, số 7. Trên cơ sở lý
luận, bài viết nghiên cứu khái niệm và đặc điểm của bán đấu giá trong THADS. Từ
đó, nêu lên quá trình và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động bán đấu
giá trong THADS.
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên, đa phần đều có liên quan đến đề tài
mà tác giả đang nghiên cứu, tuy nhiên những công trình này chủ yếu nghiên cứu lý
luận và thực tiễn của biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản nói chung hoặc một
giai đoạn cụ thể trong quá trình xử lý tài sản chứ không toàn diện các giai đoạn trong
hoạt động xử lý động sản bị kê biên. Do đó, trên cơ sở tham khảo các cơng trình, bài
viết nêu trên tác giả nghiên cứu đến hoạt động xử lý động sản bị kê biên. Từ đó, đưa
ra những kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về xử lý động
sản bị kê biên để THADS.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện các quy định của pháp
luật hiện hành cũng như phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật đối với hoạt động xử
lý động sản bị kê biên để thi hành án. Qua đó, chỉ ra các bất cập, vướng mắc trong
thực tiễn nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
5
về THADS đối với hoạt động xử lý động sản bị kê biên để THADS trong điều kiện
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Luận văn có nhiệm vụ phân tích nội dung của pháp luật về
THADS hiện hành đối với hoạt động xử lý động sản bị kê biên để THADS, thơng
qua đó làm sáng tỏ trình tự, thủ tục của hoạt động xử lý động sản bị kê biên.
- Về mặt thực tiễn: Phân tích, đánh giá quy định và thực trạng áp dụng pháp luật
về THADS đối với hoạt động xử lý động sản bị kê biên để thi hành án. Trên cơ sở đó,
chỉ ra bất cập, vướng mắc, đưa ra các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về xử lý động sản bị kê biên nói riêng cũng như về xử lý tài sản bị kê biên để thi
hành án nói chung.
4. Đới tượng, phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xử lý tài sản bị kê biên trong thi hành án có rất nhiều vấn đề chuyên sâu
đối với nhiều loại tài sản khác nhau. Do đó, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ
nghiên cứu về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS.
Tác giả tập trung nghiên cứu quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục của hoạt
động xử lý tài sản là động sản bị kê biên được quy định tại Luật THADS 2014 và văn
bản hướng dẫn thi hành Luật này, bên cạnh đó tác giả cũng nghiên cứu pháp luật
chuyên ngành có liên quan, như: Luật Giá năm 2012, Luật Đấu giá tài sản năm 2016,...
Tuy nhiên, để làm rõ hơn các vấn đề pháp lý về hoạt động xử lý tài sản là động sản
bị kê biên để THADS, tác giả cũng sử dụng pháp luật THADS các giai đoạn trước
đây, đồng thời sử dụng pháp luật của một số nước trên thế giới như Thái Lan, Trung
Quốc, Cộng hòa Pháp, Nhật Bản,... Qua đó, chỉ ra những thực trạng, bất cập trong
quy định của pháp luật cũng như việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn của cơ quan
thi hành án.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên
phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về THADS.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc
nội dung của đề tài. Cụ thể:
6
- Phương pháp phân tích: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm làm rõ các quy
định của pháp luật về xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS. Phương pháp
này được sử dụng trong toàn bộ khoá luận, tuy nhiên sử dụng nhiều nhất tại Mục 1.3
của Chương 1.
- Phương pháp tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm tổng hợp các
quy định của pháp luật, bất cập, vướng mắc trên thực tiễn, qua đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về THADS đối với hoạt động xử
lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS. Phương pháp này được sử dụng trong
toàn bộ khóa luận, tuy nhiên sử dụng nhiều nhất tại Mục 1.3 của Chương 1 và toàn
bộ Chương 2. Phương pháp này cũng được sử dụng để kết luận từng chương và kết
luận chung của khoá luận.
- Phương pháp so sánh: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm so sánh pháp luật
THADS hiện hành với pháp luật THADS giai đoạn trước đây cũng như là pháp luật
của một số quốc gia trên thế giới, từ đó làm rõ hơn các vấn đề pháp lý về xử lý tài sản
là động sản bị kê biên để THADS. Phương pháp này được sử dụng nhiều nhất tại Mục
1 Chương 1.
- Phương pháp thống kê: Tác giả sử dụng phương pháp này nhằm thể hiện kết quả
THADS đạt được. Từ đó, hoàn thiện hơn khung pháp lý về THADS cũng như là các
quy định về xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Hệ thống hóa cơ sở lý luận về xử lý tài sản là động sản bị kê
biên trong THADS. Đồng thời, chỉ ra những thực trạng, bất cập trong quy định của
pháp luật cũng như việc áp dụng pháp luật trên thực tiễn của thi hành án. Qua đó, đề
xuất kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động xử
lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS.
Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trở thành tài liệu tham
khảo cho quá trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn của các sinh viên ngành Luật.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của khóa luận gồm có 2 chương:
Chương 1: Khái quát một số vấn đề về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê
biên để thi hành án dân sự.
Chương 2: Bất cập và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản là động sản
bị kê biên để thi hành án dân sự.
7
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG XỬ LÝ
TÀI SẢN LÀ ĐỘNG SẢN BỊ KÊ BIÊN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi
hành án dân sự
1.1.1 Khái niệm về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án
dân sự
- Khái niệm về đợng sản
Luật THADS 2014 khơng có quy định cụ thể thế nào là “động sản”. Vì vậy, căn
cứ vào khoản 3 Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015 (sau đây gọi là BLDS 2015) thì
trong trường hợp luật khác có liên quan (Luật THADS) khơng quy định thì áp dụng
quy định của BLDS 2015. Vì vậy, khái niệm “động sản” trong hoạt động THADS ở
Việt Nam căn cứ theo quy định của BLDS 2015.
Nhìn chung, pháp luật các quốc gia đều ghi nhận động sản là những tài sản có thể
di dời được và khơng gắn liền với đất đai hoặc phục vụ cho việc khai thác đất đai.
Việc phân chia dựa trên tính chất vật lý (khả năng di dời trong không gian) được sử
dụng lần đầu tiên trong Luật La Mã và sau này trở thành tiêu chí phổ biến để phân
biệt tài sản của hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới.
Điều 907 Bộ luật Dân sự Quebec (Canada) quy định “Những thứ có thể di dời
được là động sản2”. Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Động sản là tài sản có khả năng
di dời theo bản chất của nó hoặc theo quy định của pháp luật3” và tại Điều 528 quy
định: Động sản theo bản chất của chúng là những phần có thể di dời được từ nơi này
sang nơi khác, cho dù là tự di chuyển như động vật, hay những thứ khơng thể di
chuyển được nếu khơng có tác động của ngoại lực4. Bên cạnh đó, tại Điều 529 Bộ
luật này còn định nghĩa về động sản theo quy định của pháp luật.
Cũng cùng tiêu chí trên, Bộ luật Dân sự Philippines quan niệm rằng tất cả những
gì đang hoặc có thể là đối tượng của sự chiếm hữu đều được công nhận là một trong
hai loại động sản hoặc bất động sản. Sau đó Bộ luật này liệt kê một số đối tượng được
xem là động sản tại Điều 416.
2
3
The Civil Code of Quebec, Article 907: “Things which can be moved are movables”.
The Civil Code of France, Chapter II, Article 527: “Property is moveable in its nature, or by the determination
of the law”.
4
The Civil Code of France, Chapter II, Article 528: “Moveables in their nature are bodies which may be
transported from place to place, whether they move themselves like animals, or whether like inanimate things,
they are incapable of changing their place, without the application of extrinsic force”.
8
Bên cạnh đó, pháp luật của Việt Nam đề cập khái niệm động sản tại khoản 2 Điều
107 BLDS 2015 theo phương pháp loại trừ, cụ thể: “Động sản là những tài sản không
phải là bất động sản”. Bên cạnh đó, cũng có một số quốc gia sử dụng phương pháp
loại trừ này, chẳng hạn như:
Điều 140 Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định: “Động sản là tài sản
không phải là bất động sản, bao gồm các quyền gắn với nó5”. Bộ luật Dân sự Nhật
Bản thì quy định tại Điều 86: “Đất và những vật gắn liền với đất là bất động sản. Các
vật khác là động sản”. Ngoài ra, theo Luật về quyền sở hữu tài sản năm 2007 của
Trung Quốc thì bất động sản chỉ là ruộng đất và nhà cửa, cây rừng,... và những vật
gắn liền trên đất. Còn động sản chỉ là những vật ngoài bất động sản. Luật này còn
quy định rằng động sản là vật có thể di chuyển được, đồng thời không vì di chuyển
mà tổn hại giá trị.
Như vậy, theo quy định tại Điều 107 BLDS 2015 thì động sản là những tài sản
không phải là đất đai; nhà, công trình xây dựng; tài sản khác theo quy định của pháp
luật. Vì vậy, tài sản là động sản có phạm vi rất rộng và phong phú.
- Khái niệm về kê biên trong THADS
Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam của nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh thì
kê biên là một từ Hán – Việt. “Kê” nghĩa là tính tốn, cịn “biên” có nghĩa là ghi chép
lại theo một trật tự nhất định. Vậy kê biên có nghĩa là tính tốn và ghi chép lại theo
một trật tự nhất định.6
Bên cạnh đó, trong cuốn Từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng cũng của nhà
x́t bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có định nghĩa về kê biên tài sản, cụ thể:
“Kê biên tài sản là việc ghi lại từng tài sản, cấm việc tẩu tán, phá hủy, để đảm bảo
cho việc xét xử và thi hành án”. Như vậy, kê biên tài sản là một thuật ngữ pháp lý chỉ
việc tính tốn và ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ thể.
Tài sản ở đây có thể là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản7.
Cưỡng chế THADS là việc chủ thể có thẩm quyền dùng quyền lực nhà nước thực
hiện biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật về THADS đối với tổ chức, cá
The Thailand Civil and Commercial Code, Article 140: “Movable property denotes things other than
immovable property. It includes rights connected therewith”.
5
6
Nguyễn Lân (2000), Từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, tr. 913.
7
Khoản 1 Điều 105 BLDS 2015.
9
nhân nhằm bảo đảm thi hành trên thực tế quyền, nghĩa vụ đã được xác định trong bản
án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS8.
Qua các khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm về kê biên tài sản là động sản như
sau: Kê biên tài sản là động sản trong thi hành án dân sự là một trong các biện pháp
cưỡng chế thi hành án do pháp luật quy định được chủ thể có thẩm quyền tiến hành
để mô tả, tính toán và ghi chép lại tài sản là động sản theo một trật tự nhất định nhằm
đảm bảo cho việc thi hành án.
- Khái niệm về thi hành án dân sự
Có những nghiên cứu về khái niệm THADS với nhiều cách tiếp cận khác nhau như
cách tiếp cận mục tiêu, cách tiếp cận chủ thể hay cách tiếp cận phân loại hoạt động.
Dưới cách tiếp cận phân loại hoạt động, có quan điểm cho rằng THADS là một
giai đoạn tố tụng dân sự bởi tách THADS ra thì sẽ không thực hiện được mục tiêu
chung của toàn bộ quá trình tố tụng dân sự, đó là đưa chân lý trở thành hiện thực
trong đời sống thực tế. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo
vệ lợi ích của đương sự9.
Bên cạnh đó, từ cách tiếp cận mục tiêu, có tác giả đưa ra định nghĩa THADS là
hoạt động đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời bản án, quyết định về dân sự có hiệu
lực thi hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Theo tác giả, về bản chất, thi
hành án là quá trình thực tế hóa các quyền và nghĩa vụ theo bản án, quyết định có
hiệu lực thi hành, tuy nhiên tùy theo tính chất của bản án, quyết định, thì việc tổ chức
thi hành án được thực hiện theo các trình tự, thủ tục có tính đặc thù nhất định10.
Với cách tiếp cận chủ thể, quan điểm khác cho rằng: “THADS là việc các bên
đương sự – cơ quan, tổ chức, cá nhân bằng hành vi tích cực của mình tự nguyện chấp
hành hoặc dưới sự tác động của cơ quan THADS thực hiện hành vi theo quy định của
pháp luật để thi hành những phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp”11.
8
Lê
Anh
Tuấn,
“Khái
niệm,
đặc
điểm
của
cưỡng
chế
thi
hành
án
dân
sự”,
truy cập ngày
20/5/2022.
Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong việc soạn thảo Bộ luật Tố tụng dân sự”,
Tạp chí Luật học, số (5) năm 1998, trang 36-38.
9
Bùi Đức Tiến (2018), Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sỹ
Luật học, Học viện Khoa học xã hội, trang 31.
10
11
Hoàng Thế Anh (2015), Giám sát thi hành án dân sự, Luận án tiến sỹ Luật học, Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, trang 31.
10
Theo quan điểm của mình, tác giả cho rằng: Thi hành án dân sự là giai đoạn cuối
cùng của quá trình tố tụng do cơ quan, tở chức, người có thẩm quyền tiến hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đưa bản án, quyết định về dân sự của
Tòa án hoặc các quyết định khác theo quy định của pháp luật được thực hiện trên
thực tế, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Sau khi kê biên động sản, CHV bắt đầu các hoạt động để xử lý động sản bị kê biên.
Như vậy, có thể hiểu là xử lý tài sản là động sản bị kê biên là giai đoạn tiếp theo của
việc áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản
đang do người thứ ba giữ.
Thông qua các khái niệm đã đề cập, tác giả cho rằng:
Hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án dân sự được hiểu là
một trong những giai đoạn của việc áp dụng một trong các biện pháp cưỡng chế thi
hành án theo quy định của Luật THADS mà đối tượng là động sản được xác định
theo quy định của BLDS hiện hành. Sau khi kê biên động sản, để thực hiện nghĩa vụ
của người phải thi hành án đó với đối với bản án, quyết định của Tòa án và cơ quan
có thẩm quyền khác, CHV tiến hành các hoạt đợng theo trình tự, thủ tục mà pháp ḷt
quy định.
Hiện nay, các quy định pháp luật THADS không phân loại động sản để kê biên,
cưỡng chế thi hành án mà chỉ quy định việc kê biên đối với từng nhóm tài sản được
quy định: cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền, cưỡng chế tài sản là giấy tờ
có giá, cưỡng chế đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ, cưỡng chế đối với tài sản là
vật tại các Mục 3, 4, 5, 6 Chương II của Luật THADS 2014. Tuy nhiên, biện pháp
cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là động sản chỉ áp dụng đối với hai nhóm tài sản: kê
biên, xử lý động sản là quyền sở hữu trí tuệ và kê biên, xử lý động sản là vật.
Thứ nhất, quyền sở hữu trí tuệ. Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân
đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng12. Theo đó, CHV ra quyết
định kê biên, xử lý quyền sở hữu trí tuệ thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành
án.
12
Khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 2 Điều 1 Luật Sở hữu trí
tuệ sửa đổi 2009).
11
Thứ hai, đợng sản là vật. Trong nhóm tài sản này, có thể kể đến là việc xử lý các
loại động sản như: phương tiện giao thông, hoa lợi, máy móc, thiết bị, vốn góp.
Như vậy, việc pháp luật phân chia các mục này đối với các nhóm tài sản và quyền
tài sản để có các quy định cho phù hợp với biện pháp và cách thức kê biên và thủ tục
tiến hành xử lý đối với tài sản.
Đối với giấy tờ có giá và tiền là hai loại động sản mà pháp luật THADS không quy
định bằng biện pháp cưỡng chế. Đối với tiền mặt, áp dụng biện pháp cưỡng chế thu
tiền, khấu trừ tài khoản. Đối với giấy tờ có giá áp dụng biện pháp thu giữ.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án
dân sự
Hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS thể hiện quyền
năng đặc biệt của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
Biện pháp cưỡng chế kê biên nói chung và hoạt động xử lý động sản bị kê biên nói
riêng phải do cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Ở nước ta, thẩm quyền tiến hành hoạt
động xử lý động sản bị kê biên thuộc về cơ quan THADS.
Thứ hai, hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS được tiến hành
theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi gây cản trở, chống đối hoạt động xử lý động
sản bị kê biên đều có thể bị phạt tiền hoặc bị đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự và
phải chịu trách nhiệm hình sự.
Thứ ba, hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS khơng những có
hiệu lực với người phải thi hành án mà cịn có hiệu lực đối với cả cá nhân, cơ quan tổ
chức có liên quan.
Thứ tư, hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS có đối tượng là
động sản. Tài sản bị kê biên để thi hành án có nhiều loại tài sản khác nhau, có thể là
bất động sản như: quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
hoặc động sản như: máy móc, dây chuyền sản xuất, phương tiện giao thơng, tàu
thuyền, quyền sở hữu trí tuệ, vốn góp, hoa lợi, lợi tức. Đối với một số tài sản như tiền,
giấy tờ có giá thì Luật THADS khơng quy định kê biên đối với tài sản này mà áp
dụng biện pháp cưỡng chế khác như khấu trừ thu nhập, khấu trừ tài khoản, thu giữ
giấy tờ có giá. Tài sản này có thể là tài sản thế chấp hoặc khơng thế chấp, do người
phải thi hành án giữ hoặc người khác giữ. Đối tượng là tài sản của hoạt động này là
động sản, kể cả tài sản của người phải thi hành án chung với người khác.
12
1.2 Ý nghĩa của quy định về xử lý tài sản là động sản bị kê biên để thi hành án
dân sự
Để thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân
các cấp và các cơ quan có thẩm quyền, CHV cơ quan THADS phải thực hiện nhiều
công việc và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như việc thiết lập hồ sơ thi hành án;
thực hiện việc xác minh điều kiện của người phải thi hành án; việc áp dụng các biện
pháp vận động, thuyết phục, tổ chức thỏa thuận thi hành án cho đương sự và những
tổ chức, cá nhân có liên quan; đặc biệt trong nhiều vụ việc thi hành án, CHV phải áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó phổ biến nhất, thường xuyên nhất
là biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án hoặc tài sản của người
thứ ba (trong trường hợp thế chấp hoặc bảo lãnh thế chấp). Quá trình kê biên, xử lý
tài sản thi hành án là trường hợp bắt buộc khi người phải thi hành án có điều kiện thi
hành án nhưng hết thời hạn tự nguyện mà không tự nguyện thi hành theo đúng nội
dung quyết định thi hành án của cơ quan THADS. Để thi hành dứt điểm một vụ việc
thi hành án, CHV phải thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục và quá trình này thường
diễn ra rất dài, bắt đầu từ hoạt động kê biên động sản, sau đó là giai đoạn thẩm định
giá hoặc xác định giá tài sản, bán động sản, đăng ký, chuyển quyền sở hữu, quyền sử
dụng động sản cho người mua trúng đấu giá, người nhận động sản để thi hành án.
Như vậy, trong trường hợp thi hành án mà CHV phải thực hiện kê biên, xử lý tài
sản thì các quy định về trình tự, thủ tục của hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê
biên để thi hành án dân sự đóng vai trị hết sức quan trọng. Cụ thể:
Thứ nhất, hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS thể hiện tính
nghiêm minh của pháp luật.
Do hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS là một trong những
giai đoạn của việc áp dụng một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Vì vậy,
hoạt động này cũng được xem là chế tài nghiêm khắc mà Nhà nước buộc cá nhân, tổ
chức phải tuân theo. Trong THADS, không phải lúc nào người phải thi hành án cũng
tự giác chấp hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Do người phải thi
hành án đã không tự thi hành nghĩa vụ của mình nên phải có biện pháp nghiêm khắc
để bắt buộc họ phải thi hành, trong số đó có biện pháp kê biên, xử lý tài sản. CHV,
người có thẩm quyền sẽ áp dụng trình tự thủ tục để bán động sản của người phải thi
hành án. Lúc này người phải thi hành án khơng cịn toàn quyền quyết định tài sản của
mình mà chịu sự cưỡng chế mang tính quyền lực nhà nước. Trường hợp người phải
13
thi hành án chống đối, cản trở sẽ áp dụng các chế tài hành chính hoặc hình sự để xử
lý hành vi chống đối, cản trở đó.
Thứ hai, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Mục tiêu cuối cùng của các bên trong giải quyết tranh chấp là giành quyền lợi cho
mình. Quyền lợi đó có thể là vật chất hoặc tinh thần, quyền lợi đó chỉ được thực hiện
khi các bên tổ chức thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, sau khi có phán quyết thì người
phải thi hành án ít khi tự giác thi hành vì những mâu thuẫn đã xảy ra trước hoặc trong
quá trình tố tụng. Vì vậy, xử lý tài sản là động sản bị kê biên để THADS được xem
là biện pháp bắt buộc để người có nghĩa vụ phải thi hành phán quyết.
Thứ ba, góp phần giữ vững ổn định kinh tế, trật tự xã hội.
Các phán quyết phải được thực thi một cách nghiêm túc không chỉ đảm bảo quyền
lợi các bên mà cịn góp phần vào duy trì sự ổn định trật tự xã hội, tạo niềm tin công
lý, tin vào pháp luật, quyền lợi bị xâm hại trái pháp luật được khơi phục. Từ đó các
chủ thể an tâm tham gia ngày càng nhiều vào các giao dịch trong xã hội góp phần
phát triển kinh tế, nâng cao đời sống.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án và các cơ quan có thẩm
quyền.
Một phán quyết về tài sản khơng cịn ngun ý nghĩa khi phán quyết đó khơng
được thực hiện hoặc khơng thể thực hiện trên thực tế. Pháp luật dân sự tôn trọng tối
cao nguyên tắc thỏa thuận, định đoạt của các bên. Trong q trình xét xử, Tịa án bắt
buộc phải tơn trọng các quyền này, vì vậy có những thỏa thuận sẽ khơng mang tính
khả thi dẫn đến khơng có khả năng tổ chức thi hành được nghĩa là quyền lợi của các
bên không được thực thi trên thực tế. Trong quá trình xét xử, nếu không giải quyết
thấu tình đạt lý, đúng pháp luật sẽ dẫn đến các đương sự có phản ứng quyết liệt, khơng
tơn trọng bản án. Từ đó việc tổ chức thi hành án sẽ kéo dài và tốn kém chi phí xã hội.
Những phán quyết được xử đúng pháp luật, thấu tình đạt lý thì việc thi hành án sẽ
thuận lợi. Qua đó, đánh giá được chất lượng của công tác xét xử.
Thứ năm, giáo dục, răn đe, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
Trong các phương thức quản lý xã hội từ trước đến nay, phương thức quản lý xã
hội bằng pháp luật được xem là phương thức tiên tiến và hiệu quả nhất bởi nó khơng
chỉ là cơng cụ cho nhà nước mà cịn là cơng cụ để người dân bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Người dân sử dụng pháp luật để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
bảo vệ quyền lợi của mình trong đó có việc yêu cầu phải thực thi phán quyết đã được
14
ban hành. Nếu người có nghĩa vụ khơng thực hiện thì sẽ bị áp dụng các chế tài bất
lợi, khi đó thiệt hại sẽ nhiều hơn. Hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để
THADS cũng khơng nằm ngoài mục đích là làm cho phán quyết được thi hành trên
thực tế, người có hành vi chống đối sẽ bị Nhà nước áp dụng biện pháp cưỡng chế
nhằm vào động sản của người phải thi hành án, khi đó họ sẽ gặp bất lợi và thiệt hại
nhiều hơn nên tự bản thân họ sẽ cân nhắc. Việc này không chỉ tác động vào bản thân
người phải thi hành án mà còn là “tấm gương” để các trường hợp khác soi rọi khi có
thái độ chây ỳ, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Từ đó giúp nâng cao ý thức chấp hành
pháp luật.
1.3 Quy định của pháp luật về hoạt động xử lý tài sản là động sản bị kê biên để
thi hành án dân sự
1.3.1 Bảo quản động sản sau khi kê biên
Bảo quản tài sản đã kê biên để thi hành án là một hoạt động của cá nhân, tổ chức
do pháp luật quy định nhưng việc quyết định giao tài sản đã kê biên để thi hành án
cho cá nhân, tổ chức bảo quản do CHV thực hiện. Quá trình THADS phải thực hiện
nhiều trình tự, thủ tục và trải qua nhiều giai đoạn thi hành án, trong đó có việc giao
bảo quản tài sản đã kê biên để thi hành án. Việc giao, bảo quản tài sản đã kê biên để
thi hành án được thực hiện trong trường hợp tài sản đã kê biên nhưng chưa được xử
lý.
Thứ nhất, chủ thể có quyền giao, nhận bảo quản tài sản.
Chủ thể có quyền giao bảo quản tài sản: Theo quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật
THADS 2014 thì Biên bản giao bảo quản tài sản yêu cầu phải ghi rõ họ, tên của CHV
và CHV có quyền chủ động trong việc quyết định, lựa chọn hình thức giao bảo quản
tài sản thi hành án sao cho phù hợp với điều kiện của người được giao bảo quản, loại
tài sản bảo quản và đảm bảo hiệu quả của việc thi hành án. Do đó, có thể xác định
chủ thể có quyền giao bảo quản tài sản là CHV.
Chủ thể nhận bảo quản tài sản: Đối với trường hợp tài sản là kim khí quý, đá quý
thì chủ thể được giao bảo quản được xác định là Kho bạc Nhà nước theo quy định tại
khoản 2 Điều 58 Luật THADS 2014. Còn đối với tài sản là động sản khác thì CHV
có quyền lựa chọn, quyết định việc giao bảo quản tài sản cho cá nhân, tổ chức được
quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật THADS 2014, cụ thể như sau:
- Giao cho người phải thi hành án: Thực tế tổ chức thi hành án, sau khi kê biên tài
sản của người phải thi hành án, CHV thường lựa chọn việc giao bảo quản tài sản cho
người phải thi hành án, nhất là đối với tài sản khó di dời được,... Việc bảo quản tài
15
sản cho người phải thi hành có nhiều thuận lợi vì đây là người trực tiếp hoặc gián tiếp
đang quản lý, sử dụng tài sản nên giao cho họ quản lý sẽ bảo đảm giá trị tài sản, hạn
chế phát sinh đơn thư khiếu nại và chi phí bảo quản (trong trường hợp phải thuê cá
nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản thì chi phí bảo quản do người phải thi hành án
chịu).
Tuy nhiên, việc giao bảo quản tài sản cho người phải thi hành án cũng gây khơng
ít khó khăn cho việc thi hành án, trong đó, có nhiều trường hợp người phải thi hành
án (đặc biệt là các doanh nghiệp) không hợp tác, cố tình chống đối (hành vi chống
đối được thể hiện ở nhiều dạng, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp như: thường xuyên
vắng mặt, khóa cửa, đe dọa, cản trở,...) khiến cho việc thẩm định giá, bán động sản,
kiểm tra hiện trạng tài sản khơng thực hiện được, dẫn đến khó khăn trong việc xử lý
tài sản để thi hành án. Có nhiều trường hợp người phải thi hành án tìm cách thông tin
không đúng sự thật về tài sản, làm cho người có nhu cầu không muốn mua hoặc trả
giá không đúng với với giá trị thực của tài sản, dẫn đến quá trình tổ chức thi hành án
kéo dài, gây ra khiếu nại, tố cáo bức xúc, làm ảnh hưởng đến tình nghiêm minh của
pháp luật.
Đây cũng là một trong những khó khăn, vướng mắc mà cơ quan THADS gặp phải
trong quá trình tổ chức thi hành án. Để khắc phục tình trạng này, đảm bảo hiệu quả
tổ chức thi hành án, tính nghiêm minh của pháp luật, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 17 tháng 3 năm 2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 07 năm 2015 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 33/2020/NĐ-CP) đã bổ sung thêm nội dung: “Trường hợp đương sự, người
đang quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản không thực hiện theo yêu cầu của Chấp hành
viên thì tùy từng trường hợp cụ thể mà Chấp hành viên tở chức cưỡng chế mở khóa,
mở gói; ḅc ra khỏi nhà, cơng trình xây dựng, tài sản gắn liền với đất hoặc các biện
pháp cần thiết khác để kiểm tra hiện trạng, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản hoặc
giao tài sản cho cá nhân, tổ chức khác bảo quản theo quy định của pháp luật 13”.
- Giao cho người thân thích của người phải thi hành án: Theo quy định tại khoản
2 Điều 40 Luật THADS 2014 người thân thích của người phải thi hành án có đủ năng
13
Đoạn 4 khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng 07 năm 2015 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung bởi theo quy
định tại khoản 8 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP).
16
lực hành vi dân sự cùng cư trú với người phải thi hành án bao gồm: Vợ, chồng, con,
ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì, anh, chị, em của người phải thi hành án, của
vợ hoặc chồng của người phải thi hành án.
- Giao cho người đang sử dụng, bảo quản tài sản: Bất kỳ cá nhân nào đang sử dụng,
bảo quản tài sản bị kê biên đều có thể trở thành chủ thể để cơ quan THADS giao, bảo
quản tài sản bị kê biên.
- Giao cho cơ quan, tổ chức có điều kiện bảo quản: Đây là hình thức bảo quản
thường được áp dụng đối với những tài sản có đặc thù nhất định nên cần phải giao
cho cơ quan, tổ chức có điều kiện thực hiện việc bảo quản. Đó là các tổ chức, cá nhân
hoạt động trong lĩnh vực trông coi, bảo quản tài sản và họ có đầy đủ trang thiết bị để
đảm bảo cho việc trông coi, bảo quản tài sản theo đúng yêu cầu đặt ra, ví dụ như tài
sản tươi sống, mau hỏng phải giao cho tổ chức có kho đơng lạnh để bảo quản trong
thời gian chờ xử lý, tài sản là tàu thuyền phải giao cho cảng, bến tàu nơi có chỡ neo
đậu để thực hiện việc bảo quản tài sản,...
Tuy nhiên, áp dụng hình thức này sẽ phát sinh chi phí rất tốn kém, thậm chí trong
nhiều trường hợp vượt quá giá trị tài sản. Do đó, hình thức này trên thực tế rất hạn
chế áp dụng.
- Bảo quản tại kho của cơ quan THADS: Đối với các tài sản là động sản, có khối
lượng và số lượng khơng lớn, khơng địi hỏi các yếu tố, điều kiện bảo quản mang tính
kỹ thuật cao; người phải thi hành án, người đang sử dụng, quản lý tài sản, người thân
thích của người phải thi hành án khơng nhận bảo quản hoặc xét thấy có dấu hiệu tẩu
tán, hủy hoại tài sản, cản trợ việc thi hành án thì tùy từng trường hợp cụ thể, CHV lựa
chọn hình thức bảo quản tại kho của cơ quan THADS. Việc bảo quản tài sản tại kho
cơ quan THADS có nhiều thuận lợi và thực sự đem lại hiệu quả trong việc tiếp cận
để xử lý tài sản cũng như hạn chế được hiện tượng tẩu tán tài sản mà không phát sinh
khoản chi phí trơng coi, bảo quản tài sản.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, kho vật chứng của một số cơ quan THADS đã
xuống cấp chưa được xây dựng lại hoặc diện tích kho nhỏ khơng đáp ứng u cầu
nên gây khơng ít khó khăn cho việc bảo quản tài sản. Do đó, trong nhiều trường hợp,
tài sản vẫn phải giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện trơng coi, bảo quản.
Thứ hai, điều kiện thực hiện việc giao bảo quản.
Người được giao bảo quản tài sản (người nhận bảo quản) có đủ điều kiện và thuộc
các trường hợp quy định tại Điều 58 Luật THADS 2014. Mặc dù pháp luật THADS
khơng có quy định cụ thể đối với “tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện bảo quản” nhưng
17
có thể hiểu đó là tổ chức, cá nhân được phép kinh doanh dịch vụ bảo quản, có các
trang thiết bị bảo đảm cho việc bảo quản tài sản hoặc có những điều kiện thuận lợi
nhất định trong việc bảo quản tài sản.
Thứ ba, thời điểm thực hiện việc giao bảo quản động sản bị kê biên.
Thời điểm thực hiện việc giao bảo quản tài sản đối với tài sản bị kê biên là ngay
sau khi thực hiện việc cưỡng chế, kê biên tài sản thì CHV thực hiện việc giao bảo
quản tài sản. Trường hợp không thể vận chuyển, di dời về kho của cơ quan THADS
hoặc nơi gửi giữ bảo quản khác thì CHV lập Biên bản giao cho người bảo quản tài
sản tại nơi, địa điểm có tài sản bị cưỡng chế kê biên.
1.3.2 Định giá, định giá lại động sản bị kê biên
Định giá động sản bị kê biên
Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Giá năm 2012 thì “Định giá là việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh quy định
giá cho hàng hóa, dịch vụ”.
Định giá tài sản bị kê biên là việc xác định giá trị của tài sản được CHV áp dụng
biện pháp cưỡng chế kê biên, tức là căn cứ quy định của pháp luật và tiêu chuẩn nhất
định nhằm đánh giá giá trị tài sản tại thời điểm thực tế nhằm mục đích làm giá khởi
điểm để đưa ra bán tài sản đó.
Tại khoản 15 Điều 4 Luật Giá năm 2012 quy định: “Thẩm định giá là việc cơ quan,
tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị bằng tiền của các loại tài sản
theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá thị trường tại một địa điểm, thời
điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định theo tiêu chuẩn thẩm định giá”. Như
vậy, thẩm định giá đã được xác định là một lĩnh vực chuyên môn, do các cơ quan, tổ
chức có chức năng, chun mơn phù hợp tiến hành thực hiện. Đối tượng của hoạt
động thẩm định giá được xác định là tất cả các loại tài sản theo quy định của Bộ luật
dân sự hiện hành, bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản14.
Đương sự thoả thuận xác định giá động sản bị kê biên. Tại Điều 6 Luật THADS
2014 quy định đương sự có quyền thỏa thuận việc thi hành án, nếu thỏa thuận đó
khơng vi phạm điều cấm của pháp luật và trái đạo đức xã hội (đương sự gồm người
phải thi hành án, người được thi hành án). Trong việc định giá tài sản, pháp luật về
THADS đã quy định cho các đương sự thời hạn nhất định để thỏa thuận với nhau về
giá của tài sản bị kê biên thì giá đó được dùng làm giá khởi điểm để bán tài sản.
14
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015.
18
Thuận lợi của việc thỏa thuận giá tài sản là khơng làm phát sinh chi phí thẩm định
giá, giảm thời gian tổ chức thi hành án, cũng như hạn chế được khiếu nại của các
đương sự. Tuy nhiên, việc định giá theo hình thức này rất ít khi xảy ra do các đương
sự thường có ý kiến khác nhau về giá trị tài sản bị kê biên. Ngoài ra, khi cơ quan
THADS đã phải sử dụng các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thì cũng đồng nghĩa
với việc các bên đương sự đã không tự nguyện trong việc thi hành án. Vì vậy, việc
thỏa thuận về giá tài sản kê biên cũng như việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá giữa
các bên thường không đạt kết quả, chưa kể đến việc người phải thi hành án thì luôn
muốn tài sản bị kê biên đưa ra bán với giá cao hơn giá trên thị trường nhằm kéo dài
thời gian thi hành án, gây khó khăn cho việc bán đấu giá, dẫn đến phải giảm giá nhiều
lần mà vẫn khơng có người tham gia đấu giá, trả giá.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 98 của Luật THADS 2014 thì thời điểm thỏa thuận
về giá tài sản bị kê biên là ngay tại buổi kê biên tài sản chứ không phải là 05 ngày
làm việc như Điều 43 Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004. Như vậy, trước khi
kê biên, CHV thông báo quyền thỏa thuận về giá tài sản bị kê biên cho người được
thi hành án và người phải thi hành án biết để họ thực hiện quyền thỏa thuận này ngay
khi kê biên.
Trường hợp tại buổi kê biên, nếu đương sự thỏa thuận được giá tài sản bị kê biên
thì CHV lập biên bản ghi nhận nội dung thỏa thuận. Mặt khác, trong biểu mẫu được
ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 hướng dẫn một
số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự (sau
đây gọi tắt là Thông tư số 01/2016/TT-BTP) cũng khơng có mẫu biên bản khơng thỏa
thuận được giá tài sản bị kê biên. Vì vậy, trường hợp ngay khi kê biên mà đương sự
không thỏa thuận hoặc thỏa thuận không được hoặc đương sự vắng mặt tại buổi kê
biên thì CHV không nhất thiết phải lập biên bản về việc đương sự không thỏa thuận
được giá tài sản bị kê biên vì pháp luật không bắt buộc. Trên thực tế, CHV vẫn lập
biên bản về việc đương sự không thỏa thuận được giá tài sản bị kê biên để làm căn
cứ ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá tài sản kê biên.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngay tại buổi kê biên đương sự không thỏa thuận
được giá tài sản bị kê biên nhưng sau buổi kê biên thì đương sự lại thỏa thuận được
về giá tài sản bị kê biên. Theo đó:
- Trường hợp nếu đương sự thỏa thuận về giá tài sản bị kê biên trước thời điểm
CHV ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá thì CHV căn cứ vào khoản 1 Điều 6 Luật
THADS 2014 và Điều 5 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18 tháng
19
07 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP) để chấp nhận hay khơng
chấp nhận thỏa thuận đó.
- Trường hợp nếu đương sự thỏa thuận về giá tài sản bị kê biên sau thời điểm CHV
ký hợp đồng dịch vụ thẩm định giá thì CHV không chấp nhận thỏa thuận đó vì thỏa
thuận đó đã ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức thẩm định giá mà CHV đã ký hợp
đồng dịch vụ và CHV chỉ chấp nhận thỏa thuận đó khi có sự đồng ý của tổ chức thẩm
định giá đã ký kết15.
Bên cạnh đó, mặc dù các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về giá của
tài sản bị kê biên thì pháp luật cũng quy định về việc các đương sự có quyền thỏa
thuận với nhau để lựa chọn tổ chức thẩm định giá. Điều 25 Nghị định 62/2015/NĐCP cũng đã mở rộng quy định về quyền thỏa thuận lựa chọn các tổ chức thẩm định
giá khơng chỉ trên địa bàn nơi mà cịn có thể ở ngoài địa bàn. Theo đó, các đương sự
có quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá không thuộc địa bàn tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản bị kê biên và CHV phải thực hiện việc ký
hợp đồng với tổ chức thẩm định giá do các đương sự thỏa thuận lựa chọn trừ trường
hợp tổ chức thẩm định giá đó từ chối ký hợp đồng.
Tổ chức thẩm định giá. Đây là cách thức định giá lần đầu tiên được quy định trong
Luật THADS 2014. Để đảm bảo tài sản khơng có sự thay đổi giá trị so với thời điểm
kê biên, ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự nên tại khoản 2 Điều 98 Luật
THADS 2014 đã quy định trong thời hạn khá ngắn (05 ngày làm việc) kể từ ngày kê
biên thì CHV phải ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương nơi có tài sản bị kê biên khi đương sự không thỏa thuận được
giá tài sản bị kê biên, không thỏa thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá và
các trường hợp thuộc diện chủ động ra quyết định thi hành án của Thủ trưởng cơ quan
THADS để tiến hành thẩm định giá.
Tuy nhiên, khoản 1 Điều 26 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định trường hợp
không ký được hợp đồng dịch vụ thẩm định giá theo điểm a khoản 3 Điều 98 Luật
THADS 2014 thì CHV có thể lưạ chọn và ký hợp đồng với tổ chức thẩm định giá
ngoài địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản bị kê biên. Kết quả
thẩm định giá của tổ chức thẩm định giá là giá khởi điểm để bán động sản.
15
Khoản 4 Điều 5 Nghị định 62/2015/NĐ-CP.