Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Tiểu luận xã hội học tôn giáo e durkheim quan niệm về tôn giáo; phân tích phạm trù cái thiêng và cái phàm tục; chức năng của tôn giáo;

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.97 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................1
Chương 2: NỘI DUNG CHÍNH........................................................................3
1. Khái quát.........................................................................................................3
1.1. Tiểu sử của Emile Durkheim (1858- 1917)...........................................3
1.2. Đóng góp của Emile Durkheim với xã hội học nói chung và xã hội học
tơn giáo nói riêng..........................................................................................4
2. Quan niệm của Durkheim về tôn giáo..........................................................7
2.1. Các yếu tố cấu thành tôn giáo................................................................7
2.2. Phạm trù cái thiêng và phàm tục...........................................................8
2.3. Chức năng của tôn giáo.......................................................................10
3. Ưu điểm và hạn chế......................................................................................14
4. Tiểu kết chương 2.........................................................................................16
Chương 3: GỢI Ý VẬN DỤNG TRONG CÁC NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
............................................................................................................................18
KẾT LUẬN........................................................................................................22
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN...................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................25


Chương 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Tơn giáo là một hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn
năm nay, và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó mà có thể
đốn định được. Trong q trình tồn tại và phát triển, tơn giáo ảnh hưởng khá
sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống,
phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.
Lĩnh vực tôn giáo đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Mỗi tổ chức
xã hội, cá nhân, trường phải học thuật đều đưa ra nhiều định nghĩa về tôn giáo.
Trong số các nhà lý thuyết kinh điển về Xã hội học nói chung và xã hội học tơn
giáo nói riêng, E.Durkheim là một người có tầm quan trọng đặc biệt về lý
thuyết. Phản ứng lại với những nghiên cứu Nhân học của Tylor và Frazer, ơng


cho rằng những ví dụ về tôn giáo cần phải được nghiên cứu mà không có bất kỳ
giả định nào. Trong quan điểm về lý thuyết của Durkheim, ông đưa ra định
nghĩa tôn giáo, chỉ ra bản chất của tôn giáo và các lý thuyết chung.
Và theo Durkheim, ông cho rằng “Một tôn giáo là một hệ thống có tính
chất gắn bó của những niềm tin và những thực hành liên quan đến những điều
linh thiêng, nghĩa là được tách biệt, cấm đoán: Những niềm tin và thực hành gắn
bó tất cả những ai gia nhập vào một cộng đồng tinh thần, được gọi là giáo hội”
Cũng theo Durkheim, tơn giáo có nguồn gốc từ xã hội, nơi mà nghi lễ sẽ
mang đến những thực hành tôn giáo và niềm tin về một sức mạnh bên ngồi của
con người. Ơng đã dựa vào những nền văn hóa nguyên thủy và lập luận rằng vật
tổ của xã hội phản ánh xã hội như một tổng thể, nó trở nên lớn hơn so với một
người hay một xã hội riêng của mình. Sức mạnh thiêng liêng của vật tổ xuất
phát từ xã hội. Ông đã chỉ ra những thành tố cơ bản cấu thành nên tôn giáo, đó
chính là niềm tin và nghi lễ gắn liền với cái thiêng, đồng thời tơn giáo có chức
năng tạo nên sự cố kết xã hội.

1


Hiện nay, tình hình hoạt động tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp,
tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định, lợi dụng tín ngưỡng tơn giáo để
hành nghề mê tín; một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để tiến hành
các hoạt động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết của
dân tộc Việt Nam ta, gây mất ổn định chính trị.
Trên cơ sở nhận thức rõ vấn đề tôn giáo, quan điểm về tôn giáo cũng như
những chức năng của tôn giáo, Đảng ta, các ngành, các cấp đã chủ động, tích
cực thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về tơn giáo, phát triển kinh tế - xã
hội và giữ vững an ninh chính trị ở các vùng đồng bào tôn giáo, đồng thời đấu
tranh ngăn chặn, làm thất bại những hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để
hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước; hoạt động tôn giáo chịu sự quản lý của

Nhà nước và phù hợp với văn hoá truyền thống và lợi ích của dân tộc; từ đó
khắc phục được một bước đơn giản, lệch lạc, phiến diện về tôn giáo trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần tăng cường khối đại đồn kết tồn dân tộc;
tập hợp đơng đảo tín đồ trong khối đại đồn kết tồn dân, xây dựng cuộc sống
tốt đời, đẹp đạo, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước.
Nhận thấy những quan điểm của E.Durkheim về tôn giáo là một phần thể
hiện cơ sở, kim chỉ nam giải quyết các bài toán về tơn giáo. Với ý nghĩa đó,
nhóm thực hiện nghiên cứu về “E.Durkheim: Quan niệm về tơn giáo; phân
tích phạm trù cái thiêng và cái phàm tục; chức năng của tôn giáo; phân tích
các yếu tố cấu thành tơn giáo”.

2


Chương 2: NỘI DUNG CHÍNH
1. Khái quát
1.1. Tiểu sử của Emile Durkheim (1858- 1917)
Emile Durkheim ông là một nhà xã hội học người Pháp nổi tiếng, sinh
năm 1858 trong một gia đình do thái.
Ơng là nhà giáo dục học, triết học, một nhà kinh tế học và là một nhà xã
hội học. Ơng cịn được coi là nhà sáng lập xã hội học Pháp vì ơng đã có cơng
lớn đưa xhh trở thành một lĩnh vực khoa học, một ngành nghiên cứu về giáo dục
ở Pháp nên được coi là cha đẻ của xã hội học Pháp. Bối cảnh kinh tế xã hội
Pháp ở cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 ảnh hưởng lớn đến sâu sắc đến quan điểm
tư tưởng của ông về xã hội học. Nhiều học giả trên thế giới thừa nhận Xã hội
học này sinh ra trong bối cảnh đầy biến động của kinh tế – xã hội Pháp cuối thế
kỷ 18 đầu thế kỷ 19. Chính Durkheim đã gọi xã hội Pháp thời kỳ này là một xã
hội vơ tổ chức, một chính phủ vơ đạo đức. Ơng cho rằng cần phải có một khoa
học nghiên cứu các hiện tượng trong xã hội. Giải pháp xã hội học của ông đã
được thừa nhận như vậy. Ông đã đặt ra nhiệm vụ cho xã hội học là phải nghiên

cứu thực tại hiện tại xã hội để có giải pháp tổ chức lại trật tự xã hội.
Là người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng (functionalism) và
chủ nghĩa cơ cấu (structuralism); người đã góp cơng lớn trong sự hình thành bộ
mơn xã hội học và nhân chủng học. Những công sức của ông trong việc thực
hiện và biên tập tạp chí (L'Année Sociologique) đã giúp xây dựng xã hội học
thành một môn khoa học xã hội được chấp nhận trong giới hàn lâm.
Trong suốt cuộc đời mình, Durkheim đã thực hiện rất nhiều bài thuyết
trình và cho xuất bản vơ số sách xã hội về các chủ đề như giáo dục, tội phạm,
tôn giáo, tự tử và nhiều mặt khác của xã hội. Ông được coi là một trong những
nhà sáng lập môn xã hội học và là một nhân vật nổi bật của chủ nghĩa đoàn kết.

3


Năm 1987, Durkheim giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp Bordeaux;
trong thời gian làm việc ở Bordeaux, Durkheim đã hồn thành những cơng trình
xã hội học đồ sộ như "Phân công lao động trong xã hội" (The division of labor
in society) (1893), "Các quy tắc của phương pháp xã hội học" (The rule of
sociological method) (1895), "Tự tử" (Suicide) (1897).
Năm 1902, Durkheim giảng dạy tại Trường Đại học Tổng hợp Sorbonne,
tại đây vào năm 1912 ông viết một trong những tác phẩm xã hội học độc đáo và
quan trọng nhất của mình "Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo"
(The elementary forms of religious life). Việc Durkheim đưa vào giảng dạy môn
xã hội học trong nhà trường đại học đã mở đầu cho bước tiến quan trọng của xã
hội học với tư cách là khoa học.
Ngày 15 tháng 11 năm 1917, Émile Durkheim qua đời tại Paris, nước
Pháp do bị đột quỵ trong lúc giảng bài, hưởng thọ 59 tuổi.
1.2. Đóng góp của Emile Durkheim với xã hội học nói chung và xã hội
học tơn giáo nói riêng
Durkheim đã có nhiều đóng góp lớn cho xã hội học thế giới thơng qua các

tác phẩm, cơng trình như: “Sự phân công lao động xã hội”, “Tự tử”, “Những
quy tắc của phương pháp Xã hội học”, “Những hình thức sơ đẳng của đời sống
tôn giáo”.
Quan niệm về xã hội học và đối tượng nghiên cứu của nó
Theo Durkheim, quan niệm xã hội học là khoa học về “sự kiên xã hội”.
Ông chỉ ra đối tượng của xã hội học là các sự kiện xã hội, các sự kiện xã hội bao
gồm sự kiện xã hội vật chất (nhóm, dân cư tổ chức xã hội) và sự kiện xã hội phi
vật chất (hệ thống giá trị, chuẩn mực, phong tục, tập quán). Ông chủ trương lấy
hiện tượng xã hội này để giải thích cho hiện tượng xã hội khác, lấy tổng thế này
giải thích cho tổng thể khác.

4


Ông coi xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân, có trước cá nhân với nghĩa là cá
nhân sinh ra phải tuân thủ các chuẩn mực xã hội. Vì vậy Xã hội học cần xem xét
hệ thống xã hội, cơ cấu xã hội, hiện tượng xã hội với tư cách là sự vật, sự kiện.
Xã hội vận động, biến đổi từ đơn giản đến phức tạp.
Từ quan niệm trên về sự kiện xã hội, ông nêu ra 3 đặc điểm :
- Tính khách quan: Tồn tại bên ngồi các cá nhân. Nhiều sự kiện xã hội
đã tồn tại trước khi các cá nhân xuất hiện. Nó mang tính khách quan .
- Tính phổ quát: Là cái chung cho nhiều người (Giá trị hiếu thảo là cái
phổ biến đối với nhiều người) ở đâu có con người, có sự xã hội hố cá nhân thì
ở đó có sự kiện xã hội
- Sự kiện xã hội có sức mạnh kiểm sốt, điều chỉnh và gây áp lực đối với
cá nhân. Dù muốn hay ko, các cá nhân vẫn phải tuân theo các sự kiện xh.
Quan niệm về phương pháp nghiên cứu xã hội học
Ông cho rằng xã hội học phải vận dụng phương pháp thực chứng để
nghiên cứu. Để sử dụng hiệu quả phương pháp này nghiên cứu xã hội học, ông
đã chỉ ra một số quy tắc cơ bản:

- Quy tắc khách quan: Đòi hỏi nhà xã hội học phải xem các sự kiện xã
hội như một sự vật tồn tại khách quan bên ngồi cá nhân con người và nó có thể
quan sát được. Nó địi hỏi phải loại bỏ yếu tố chủ quan, ấn tượng chủ quan về
các hình tượng xã hội trong quá trình nghiên cứu .
- Quy tắc ngang cấp: Theo Durkheim, phải lấy các sự kiện xã hội để giải
thích xã hội, lấy nguyên nhân xã hội để giải thích hiện tượng xã hội. Lấy hiện
tượng này giải thích hiện tượng khác (hiện tượng tử tử, hiện tượng nghèo đói ..)
- Quy tắc phân loại: Yêu cầu nhà xã hội học khi nghiên cứu hiện tượng
xh cần phải phân biệt được đâu là cái bình thường phổ biến, chuẩn mực và đâu
là cái khác biệt, dị thường.

5


Mục đích phân loại là để nhận diện. Dùng cái bất thường - dị biệt để
hiểu cái bình thường. Dùng cái lệch chuẩn để hiểu cái chuẩn mực. Nhà xã hội
học phải đối xử với chúng ngang nhau vì đó đều là sự kiện xã hội.
- Quy tắc phân tích tương quan: Theo ông các hiện tượng, sự kiện xã hội
luôn tồn tại trong mối quan hệ, tác động qua lại với các sự kiện, hiện tượng xã
hội khác. Do đó khi nghiên cứu một hiện tượng sự kiện xã hội cụ thể nào đó nhà
xã hội học phải thiết lập được mối quan hệ nhân quả giữa sự kiện xã hội đó với
sự kiện xã hội khác .
Quan niệm về khái niệm về đoàn kết xã hội
Đoàn kết xã hội là sự gắn bó, liên kết giữa các cá nhân các nhóm, các
cộng đồng xh với nhau. Ơng cho rằng nếu thiếu đồn kết xã hội thì xã hội sẽ ko
tồn tại với tư cách là một chỉnh thể.
Ông nghiên cứu nhiều về mối quan hệ giữa con người và xã hội. Mối
quan hệ ấy được thể hiện qua các kiểu đồn kết xã hội. Theo ơng có 2 loại đoàn
kết xã hội:
- Đoàn kết cơ giới: Xuất hiện trong xã hội kém phát triển, ở đó sự phân

cơng lao động chưa cao, quan hệ cá nhân còn rời rạc, sự khác nhau giữa các cá
nhân chưa mấy rõ ràng.
- Đoàn kết hữu cơ: Xuất hiện trong xã hội phát triển, có sự phân cơng
lao động cao, con người như một mắt xích liên kết chặt chẽ với nhau.
Tóm lại, Durkheim có cơng lao to lớn cho xã hội học ở chỗ ông đã xác
định đối tượng nghiên cứu của xã hội học là các sự kiện xã hội và phát triển một
hệ thống các khái niệm và lý thuyết. Bên cạnh đó, ơng cịn phát triển được
phương pháp luận chức năng làm nền tảng cho trường phái chức năng - cấu trúc
luận trong xã hội học hiện đại. Nhờ những đóng góp của ơng mà xã hội học trở
thành một khoa học độc lập.

6


Vào những năm cuối đời Durkheim đang ngày càng quan tâm đến các
vấn đề tôn giáo. Mối quan tâm của Durkheim về tơn giáo nằm ở chỗ nó là một
trong những cơ quan đồn kết và đạo đức chính trong xã hội và do đó là một
phần của vấn đề trung tâm của sự đồn kết xã hội mà ơng muốn khám phá.
Cuối cùng, nhiều năm quan tâm của ông về chủ đề này được phản ánh
trong một tác phẩm lớn cuối cùng của Durkheim “Những hình thức sơ đẳng của
đời sống Tôn giáo” (1912) đã được coi là một trong những tác phẩm sâu sắc
nhất và nguyên bản nhất về Tôn giáo.
Định nghĩa riêng của Durkheim về tôn giáo:
“Một tơn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và
những thực hành liên quan đến những điều linh thiêng, nghĩa là được tách biệt,
cấm đốn: Những niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào
một cộng đồng tinh thần, được gọi là giáo hội” ( Nguyễn Quý Thanh (cb), một
số quan điểm của E. Durkheim, 2011 : 166)
Trong định nghĩa này, E. Durkheim đã chỉ ra thành tố cơ bản cấu thành
nên tơn giáo đó chính là niềm tin và lễ nghi gắn liền với cái thiêng và phàm tục

đồng thời chức năng của tơn giáo là góp phần tạo nên sự cố kết xã hội.
Tóm lại, theo Durkheim, tơn giáo có nguồn gốc từ xã hội, nơi mà nghi lễ
sẽ mang đến những thực hành tôn giáo và niềm tin về một sức mạnh bên ngoài
của con người. Ông đã dựa vào những nền văn hóa nguyên thủy và lập luận
rằng vật tổ của xã hội phản ánh xã hội như một tổng thể, nó trở nên lớn hơn so
với một người hay một xã hội riêng của mình. Sức mạnh thiêng liêng của vật tổ
xuất phát từ xã hội.
2. Quan niệm của Durkheim về tôn giáo
2.1. Các yếu tố cấu thành tơn giáo
Tơn giáo phải có đủ 4 yếu tố cấu thành, đó là: Giáo chủ, giáo lý, giáo luật
và tín đồ.
7


- Giáo chủ: là người sáng lập ra tôn giáo ấy. (Thích ca Mâu ni sáng lập
ra đạo Phật, Đức chúa Giê-su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét
sáng lập ra đạo Hồi,…)
- Giáo lý: là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ.
- Giáo luật: là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy
trì nếp sống đạo trong tơn giáo đó.
- Tín đồ: là những người tự nguyện theo tơn giáo đó.
Ngồi ra theo E.Durkheim thành tố cơ bản cấu thành nên tơn giáo đó
chính là niềm tin và nghi lễ gắn liền với cái thiêng, đồng thời tơn giáo có chức
năng tạo nên sự cố kết xã hội.
2.2. Phạm trù cái thiêng và phàm tục
Ý tưởng về sự thiêng liêng đã xuất hiện khá sớm trong bước chuyển từ
con người động vật thành con người xã hội. Ý tưởng ấy là sản phẩm của đời
sống xã hội, khi nhu cầu gắn kết các thành viên của cộng đồng đòi hỏi một đức
tin về nguồn gốc thánh thần và ý nghĩa cao quý của cuộc sống con người.
Trước hết, quan niệm về sự thiêng liêng liên quan tới những hiện tượng

cơ bản của giới tự nhiên, cấu trúc cơ bản của sự vật, không gian và thời gian.
Mặt khác là lịng tơn kính lẫn lộn với cảm giác sợ hãi, trạng thái tình cảm mà
con người chìm đắm ngay từ khi bắt đầu giao cảm với thế giới tự nhiên, với tư
cách là một chủ thể tâm lý hữu thức, từ sự thiêng liêng của vạn vật hữu linh đến
sự thiêng liêng như một bản thể siêu nhiên tồn năng và vĩnh hằng. Trong tiếng
Hittite, ngơn ngữ cổ thời Đế chế, tương ứng với khái niệm “Chúa” là khái niệm
về sự khơn ngoan, về trí thơng minh, sự toàn thiện tri thức và tâm hồn liên quan
đến khái niệm ánh sáng. Cụm “Saklai” là một thể từ vừa có một nghĩa thơng tục
là “thói quen” vừa có một nghĩa thiêng liêng là “nghi lễ”, sự dâng hiến của con
người dành cho đấng tối thượng, sự trong sạch tuyệt đối, sức mạnh tràn trề, đầy

8


ắp quyền lực và hiệu quả. Từ đây dẫn đến hai thái độ sóng đơi của con người
đối với cái thiêng:
Thứ nhất, là sự tơn kính và biết ơn. Với đối tượng được tơn kính và biết
ơn là cụ thể thì hành vi đền ơn đáp nghĩa cũng cụ thể và thiết thực. Đây là
chuyện của đời thường. Chúng ta xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng tuổi
già, tặng quà cho những người mẹ anh hùng, những người có cơng với cách
mạng. Chúng ta lại có những hành vi ứng xử cụ thể, thích hợp để bày tỏ lịng
tơn kính và biết ơn đối với các nhà giáo, các thầy thuốc “lương y như từ mẫu”.
Nhưng đối với những gì trở nên xa cách, trừu tượng hư ảo, người ta cần đến
những nghi lễ có tính chất tượng trưng, “lễ bạc lịng thành”. Chẳng hạn, đó là
thờ cúng tổ tiên, các vị gia thần, rồi đến các vị cao hơn xa hơn… Đối tượng
được tôn thờ, chịu ơn càng cụ thể, gần gũi thì tình cảm càng sâu sắc, hành vi
ứng xử càng thiết thực. Về phương diện này con người có xu hướng hiện thực
hóa cái thiêng. Phân tích xu hướng nhân thần hóa, lịch sử hóa các vị thần tự
nhiên trong tín ngưỡng của người Việt sẽ làm sáng tỏ nhận xét này. Từ đó dẫn
đến một hệ quả quan trọng là khi đối với cái thiêng, thái độ tơn trọng, biết ơn

chiếm ưu thế thì hành vi ứng xử mang đậm chất nhân văn, hình thành những
phong tục giàu sắc thái văn hóa tộc người. Kho tàng folklore của nhân loại là cứ
liệu đầy sức thuyết phục.
Thứ hai, thái độ sợ hãi trước những sức mạnh đầy bí ẩn. Sự sợ hãi nào
cũng địi hỏi con người phải tìm giải pháp chế ngự, triệt tiêu hay né tránh, nghĩa
là một thái độ chủ động chống trả trực tiếp. Nhưng sợ rắn độc, sợ chó dại khác
hẳn với sợ ma quỷ. Trái với lịng tơn kính và sự biết ơn, sợ hãi càng gia tăng khi
đối tượng càng mù mờ bí ẩn. Cái thiêng càng trừu tượng siêu hình bao nhiêu,
quyền năng chế ngự con người của nó càng lớn bấy nhiêu. Hệ quả tất yếu của
giải pháp chế ngự là hành vi phù phép, dẫn đến những hủ tục mê tín dị đoan.
E.Durkheim chỉ ra đặc trưng thực sự của khái niệm cái thiêng. Bất cứ
người theo tôn giáo nào cũng chia những sự vật trong thế giới của họ thành hai

9


lĩnh vực riêng biệt nhưng không phải là tự nhiên và siêu nhiên, mà là cái thiêng
và cái trần tục. “Các sự vật thiêng liêng là các thứ mà những điều cấm đoán này
áp dụng vào và chúng cần phải ở cách xa với những cái thứ nhất”. Như vậy, cái
gì được đặt riêng ra về mặt xã hội, cái gì khơng thể và khơng nên động chạm
vào là cái thiêng, cịn cái gì có thể đến được về mặt xã hội là cái trần tục.
Những cái thiêng liêng thường xuyên bao hàm những mối quan tâm rộng
lớn: những lợi ích và phúc lợi của tồn bộ một nhóm người.
Cái trần tục, mặt khác, có ít vấn đề, chúng phản ánh những công việc
hàng ngày của mỗi cá nhân – những hoạt động cá nhân, nhỏ hơn và những nỗ
lực của gia đình này vào đời sống cá nhân ngay lập tức.
E.Durkheim phản đối sự phân chia giữa cái thiêng liên và cái trần tục là
sự phân biệt về đạo đức – cái thiêng liêng là tốt và cái trần tục là tội lỗi. Cái
thiêng liêng vừa có thể vừa là tốt vừa là xấu, nhưng nó khơng bao giờ là cái trần
tục; cái trần tục cũng có thể vừa tốt vừa xấu nhưng không bao giờ là cái thiêng

liêng.
VD: Một cái bàn sẽ là vật trần tục nếu được để trong phịng ăn, phịng
kho nhưng nó lại là vật thiêng liêng nếu ở trong bối cảnh của lễ thánh (đối với
các tín đồ Thiên chúa giáo).
2.3. Chức năng của tôn giáo
Durkheim cho rằng khoa học không thể làm cho tôn giáo biến mất. Khoa
học thu hẹp các chức năng nhận thức của tôn giáo và thảo luận về xu hướng
kiểm sốt các hoạt động nhận thức của nó. Con người vẫn luôn hành động theo
sự thúc đẩy của các niềm tin tơn giáo. Khoa học có thể thu hẹp các chức năng
nhận thức của tôn giáo và phản bác cái xu hướng muốn thâu tóm việc truyền bá
tri thức của nó. Nhưng khơng thể từ chối một thực tế và ngăn cản việc con
người vẫn tiếp tục hành động với sự thúc đẩy của những đức tin tôn giáo. Theo
Durkheim, tơn giáo có một số chức năng cơ bản sau:

10


Thứ nhất, chức năng tăng cường sự liên kết trong xã hội:
Tơn giáo có vai trị rất quan trọng trong việc tăng cường sự liên kết trong
xã hội. Thật vậy, nhờ có các giá trị và tiêu chuẩn chung mà tơn giáo thúc đẩy
mạnh tinh thần đồn kết các thành viên trong xã hội. Đúng hơn, sự đồn kết mà
tơn giáo tạo ra là sự đoàn kết dựa trên niềm tin. Trong các xã hội thô sơ, vật tổ
là biểu tượng hữu hình của sự đồn kết này. Durkheim cho rằng các ràng buộc
tôn giáo thường tốt hơn so với các thế lực khác ở tính liên kết các cá nhân trong
xã hội, mặc dầu các loại hình ngồi xã hội khác cũng có phần đóng góp đáng
kể, đặc biệt là tinh thần dân tộc.
Một mối quan tâm khác trong cách tiếp cận của Durkheim là sự nhấn
mạnh của ông vào khía cạnh động lực của tình cảm tơn giáo.Với ông ,tôn giáo
là một sức mạnh,một sức mạnh cho phép hành động. Trước hết ,tơn giáo có vai
trị rất quan trọng trong việc tăng cường sự liên kết trong xã hội. Nhờ có các giá

trị và tiêu chuẩn chung mà tơn giáo thúc đẩy rất mạnh tinh thần đồn kết dựa
trên niềm tin.
Tôn giáo không chỉ thuần túy là tập hợp của một số bộ phận quần chúng
có tín ngưỡng tâm linh,có niềm tin vào đấng siêu nhiên mà mỗi tơn giáo cịn là
một lực lượng quần chúng có đức tin và sự cố kết chặt chẽ vì niềm tin và tổ
chức tơn giáo riêng của họ.
Ví dụ : Ngày Giỗ tổ Hùng Vương của Việt Nam
Thứ hai, chức năng kiểm sốt xã hội :
Tơn giáo khơng chỉ đóng vai trị đồn kết mà cịn mang tính kiểm sốt xã
hội. Mỗi xã hội đều có những phương cách khác nhau thúc đẩy tính tn thủ
trong xã hội.Thực tế, có rất nhiều tiêu chuẩn văn hóa quan trọng đã được niềm
tin tơn giáo ban cho tính hợp pháp thiêng liêng. Tơn giáo mang tính kiểm sốt
trong những trường hợp khi mà những người cầm quyền tự mình hay được thừa
nhận quyền hành cai trị như quyền của thần thánh.

11


Durkheim cho rằng xã hội phải được phân biệt bởi đặc tính của đồn kết
xã hội. Đồn kết cơ học rất thịnh hành trong xã hội truyền thống, khi phong tục
tập quán ,niềm tin dựa vào gia đình vẫn là điều chi phối mạnh nhất đến các quan
hệ xã hội. Xã hội hiện đại thì khác,đó là quan hệ theo chức năng ở đó có phân
cơng lao động trở nân quan trọng ,cái điều mà xã hội truyền thống không rõ
nét.Như vậy,đồn kết xã hội là q trình liên kết,tương tác giữa cá nhân với
nhau và nhóm trong xã hội. Bất kỳ tôn giáo nào hay trong mọi xã hội thì nó
cũng góp phần tạo dựng và duy trì một ý thức tập thể.Nó có vai trị như một sự
đồn kết ,gắn bó cá nhân với nhau hơn. Khi các tín đồ thực hành nghi lễ,chính
là lúc mọi người đều hướng đến cái thiêng,cũng là lúc các cá nhân và các nhóm
gắn kết với nhau.
Ví dụ: Người Hồi giáo có kinh Koran và thánh địa Jerusalem. Người theo

đạo Thiên Chúa có kinh Cựu ước,Tân ước và vùng đất thánh Vatican,Tương tự
đạo Phật cũng có sách riêng của tơn giáo mình,v..v
Tuy nhiên tơn giáo hay cái thiêng có thể rối loạn chức năng bằng cách
gây sự chia rẽ trong xã hội hoặc tạo ra mâu thuẫn giữa các xã hội.
Ví dụ: Đầu thời kỳ Trung cổ,niềm tin tôn giáo đã thúc đẩy tín đồ Cơ Đốc
Châu Âu tổ chức thành những đạo quân Thập tự chinh chống lại tín đồ Hồi giáo
ở phương Đơng. Về phần tín đồ Hồi giáo tìm cách bảo vệ đức tin của mình
chống lại tín đồ Cơ Đốc xâm lăng.Mâu thuẫn giữa tín đồ Hồi giáo,Do Thái giáo
và Cơ Đốc vẫn là nguồn bất ổn chính trị ở Trung Đông ngày nay.
Thứ ba, chức năng Tạo ra ý nghĩa và mục đích cho đời sống con người
Ngồi ra, tơn giáo cịn có vai trị rất lớn trong việc tạo ra ý nghĩa và mục
đích cho đời sống con người. Cuộc sống đầy rẫy những đau khổ có thể khiến
cho con người đánh mất sự kiên nhẫn và đi đến tuyệt vọng. Vai trị của tơn giáo
với niềm tin vào một thế giới thần thiêng có tác dụng tạo ra cảm giác an ủi và
giải thoát con người. Với sự trợ lực của niềm tin tôn giáo, con người được nâng

12


đỡ để có thể tiếp tục hy vọng hơn vào cuộc sống cũng như được tiếp thêm sức
mạnh để vượt qua những đau khổ trong cuộc đời.
Tôn giáo là sản phẩm của xã hội bởi vì nó tồn tại như một nguồn cung
cấp sự đoàn kết và dấu hiệu xác nhận các thành viên trong một xã hội. Cụ thể
hơn, Tôn giáo cung cấp cơ hội để :
- Thể hiện chủ quyền
- Nhấn mạnh yếu tố đạo đức và chuẩn mực xã hội
- Điều khiển ,duy trì sự tồn tại của xã hội như một phần không thể thiếu
của hệ thống các thành phần cấu thành xã hội
- Liên kết,trao đổi thơng tin,thúc đẩy những tương tác xã hội
Nói các khác, tôn giáo ra đời nhằm phục vụ chức năng đảm bảo các nhu

cầu trên mà các thành phần khác của hệ thống xã hội không thể đáp ứng.
Định nghĩa về bản thế (nhấn mạnh cái linh thiêng) và cũng là định nghĩa
chức năng (chức năng liên kết của tôn giáo). Định nghĩa này cho thấy tôn giáo
là hệ thống thống nhất gồm các niềm tin và hành động nghi lễ với những thứ
kiêng, thờ thần thánh hóa tạo thành cộng đồng đạo đức theo tơn giáo đó cảm
thấy có sức mạnh hơn để chịu đựng và vượt qua khó khăn trong cuộc sống dù
đó chỉ giới hạn trong phạm vi tinh thần ý thức.
Durkheim phân tích về chức năng tôn giáo không ngụ ý một niềm tin tôn
giáo bất kì là có giá trị hay vơ giá trị. Chắc chắn thế giới có nhiều niềm tin tơn
giáo, phần lớn niềm tin này mâu thuẫn với nhau. Những gì một người cho là vấn
đề đức tin,thì người khác lại cho rằng phi lý. Nhưng khi đối mặt với cái chết,
bệnh tật, thiên tai và những thất bại của con người,... Lúc này dù là niềm tin tôn
giáo nào cũng đều tạo cảm giác an ủi cho con người. Việc củng cố niềm tin như
thế,con người ít bị tuyệt vọng quật ngã hơn khi đối mặt với những tai họa trong
đời sống.

13


Ví dụ: con người có câu “Bệnh tật thì vái tứ phương”, tương tự vậy khi
thực tế không thể giải quyết được vấn đề họ sẽ tìm đến thứ gọi là “thần linh,
phép màu,..v.” những thứ đó chúng ta khơng thể chứng minh rằng nó có hiệu
quả hay khơng nhưng nó chắc chắn là “liều thuốc an thần” tư tưởng cho chúng
ta.
3. Ưu điểm và hạn chế
3.1. Về ưu điểm:
- Điểm đáng lưu ý trong nghiên cứu của Emile Durkheim chính là ở việc
ơng đã thấy được bản chất của quan niệm tơn giáo từ hình thức căn bản, sơ khai
nhất đã có sự phân chia, phân định hai thực trạng cơ bản của một thế giới có tơn
giáo, đó chính là yếu tố cái thiêng (cái thần thánh) được phân biệt với cái thế tục

(cái phàm trần).
- Durkheim tuy quan niệm thần linh nơi các tơn giáo có nguồn gốc từ xã
hội và do con người gán cho các sự vật, nhưng ít ra ơng cũng có cái nhìn tích
cực về tơn giáo.
- Durkheim có một nhận định khá gần với tơn giáo khi đưa ra ba đặc tính
căn bản của một tôn giáo dựa trên niềm tin, nghi thức và cộng đồng.
- Durkheim nhấn mạnh tôn giáo ở khía cạnh ‘hoạt động’ cộng đồng qua
những nghi thức cũng giúp phản tỉnh cho thái độ sống đạo mang tính ‘hình
thức’ nhưng thiếu chiều sâu.
- Tính liên kết trong niềm tin là một ưu điểm không chỉ trong các tôn giáo
mà còn trong các tổ chức xã hội, khi các thành viên cùng chung chia một niềm
tin nào đó.
- Durkheim phần nào đã đúng khi cho thấy có một mối liên hệ rất gần
giữa tơn giáo và văn hóa. Phải nói rằng có một mối liên hệ chặt chẽ giữa tơn
giáo và văn hóa.

14


- Cái khác biệt mà Emile Durkheim chỉ ra từ phép so sánh ma thuật với
tôn giáo đã phần nào lý giải nguồn gốc xã hội mà tôn giáo phát sinh. Ma thuật
cũng gồm có niềm tin và nghi thức giống như tơn giáo. Nó có những nghi lễ
riêng, những lễ hiến sinh, lễ rửa tội, cầu nguyện, ca khúc và nhảy múa. Những
vật thể mà người pháp sư viện dẫn và những vật thể được nói đến trong tơn giáo
thường là cùng một vật thể.
Ví dụ: Linh hồn người chết. Linh hồn người chết là vật thể vô cùng
thiêng liêng và chúng là đối tượng của nghi thức tôn giáo. Đồng thời chúng
cũng giữ một vai trò đáng kể trong ma thuật. Linh hồn người chết, tóc của họ,
xương của họ được coi là những vật trung gian mà người pháp sư thường sử
dụng. Tuy nhiên, những niềm tin và nghi thức của ma thuật thô sơ hơn là trong

tơn giáo. Nó khơng mất thời gian vào việc biện minh bởi lẽ nó nhằm vào những
mục đích kỹ thuật và thực dụng.
3.2. Về nhược điểm:
- Nghịch lý trong cách tiếp cận của Durkheim về tôn giáo là ở chỗ, một
mặt nó quy giản tơn giáo vào tính xã hội, mặt khác nó lại quy tính xã hội về tính
tơn giáo… khi cho rằng một xã hội chỉ có thể tồn tại bằng sự linh thiêng hóa cái
tình cảm tập thể.
- Do đồng nhất tơn giáo với tính xã hội ông không coi các tín ngưỡng tự
nhiên là tôn giáo. Tôn giáo không phải là vật linh giáo cũng không phải là tự
nhiên giáo.
- Khi đặt nền tảng xã hội học để đánh giá về tôn giáo, Emile Durkheim đã
giới hạn tơn giáo ở tính ‘hiệu quả’ đối với xã hội thay vì nhìn sâu vào bản chất
của tơn giáo.
- Trong quan điểm của mình, Durkheim đặt ưu thế quyền lực xã hội lên
hàng đầu, lên trên cả tôn giáo và cá nhân, thậm chí hy sinh cá thể cho tập thể.

15


- Việc Durkheim đồng hóa lý tưởng xã hội với lý tưởng tôn giáo là một
điều không ổn, mặc dù cả hai cùng có lý tưởng nhưng thực ra chúng hồn tồn
biệt lập.
- Durkheim thậm chí nâng văn hóa thành tơn giáo, nhưng tơn giáo hồn
tồn có thể được diễn tả qua văn hóa.
- Mẫu nghiên cứu về tơn giáo của Durkheim q bó hẹp trong các tơn
giáo thơ sơ nên không thể lột tả hết được các đặc điểm đa dạng được diễn tả
trong các tôn giáo khác.
- Tôn giáo là tình cảm tập thể, nhận định này là sai lầm khi coi nó như
một hiện thực tự nó.
- Xã hội gợi ra ở các cá nhân của nó cái tình cảm phụ thuộc và tơn trọng.

Cách tiếp cận của ơng khơng tính đến cái chiều cạnh ngược lại, tức tôn giáo như
là nhân tố giải thể xã hội, như vật truyền dẫn sự phản kháng. Những đức tin tôn
giáo cũng là những vật nâng đỡ sự phản kháng của thế giới trần tục, sự phản
kháng có thể mang hình thức ở bên trong hay bên ngồi thế giới xã hội, được
thể hiện bằng cuộc đấu tranh chống lại hiện trạng của các sự vật hay bằng
những thái độ tập thể (hiện thực hóa các lựa chọn xã hội) hay cá nhân (mang
tính huyền bí) bằng sự từ bỏ thế giới.
4. Tiểu kết chương 2
Emile Durkheim đã xây dựng được một lí thuyết về tơn giáo gần như
hồn thiện. Những luận điểm mà ơng đưa ra cũng chính là điểm then chốt của
tôn giáo không những là niềm tin của nó mà cịn là những nghi lễ xã hội mà các
tín đồ thực hiện. Tơn giáo là chìa khóa của sự đồn kết xã hội,các niềm tin tơn
giáo đóng vai trị quan trọng nhưng khơng phải ở chính bản thân chúng ta mà ở
chỗ chúng ta là biểu trưng của các nhóm xã hội.
Những nghiên cứu của ơng đã mang lại cho chúng ta cái nhìn khác biệt về
tơn giáo thời bấy giờ. Nó khơng những chỉ ra được yếu tố xã hội trong nguồn

16


gốc của tôn giáo, tách biệt khái niệm tôn giáo ra khỏi những yếu tố thần linh và
siêu nhiên, mà còn chỉ ra được những đặc điểm chung nhất của các loại hình tơn
giáo khác nhau ở những điểm cấu thành căn bản. Song song với hai việc làm
sáng tỏ hai mục đích chính của nghiên cứu tơn giáo, Emile Durkheim cịn đặt
tơn giáo trong mối quan hệ với đồn kết xã hội, mối quan tâm lớn của sự nghiệp
nghiên cứu của ơng. Từ đó, chỉ ra được rằng đồn kết xã hội như nền tảng của
tôn giáo, cũng như tôn giáo là nguồn “cung cấp năng lượng” cho sự tồn tại của
đoàn kết xã hội

17



Chương 3: GỢI Ý VẬN DỤNG TRONG CÁC
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ
Với những đóng góp to lớn của ơng cho nghiên cứu khoa học, tầm ảnh
hưởng của Emile Durkheim là không thể phủ nhận, đặc biệt là đối với khoa học
xã hội học nói chung và khoa học xã hội học tơn giáo nói riêng. Những quan
điểm về Tơn giáo, về sự đồn kết xã hội; những phân tích về phạm trù “cái
thiêng” và cái phàm tục hay chức năng tôn giáo, yếu tố cấu thành tôn giáo, cho
đến nay vẫn mang tính ứng dụng cao, cụ thể:
Một là, cung cấp hệ thống các khái niệm liên quan đến nhiều lĩnh vực
nghiên cứu trong đó có khoa học xã hội học và tôn giáo học.
Hai là, sử dụng làm tư liệu tham khảo cho các nghiên cứu khoa học, đặc
biệt là các nghiên cứu chuyên sâu về xã hội học nói chung, hay các nghiên cứu
về xã hội học Tôn giáo với tiếp cận cổ điển
Trong nghiên cứu khoa học bước này được gọi là tổng quan tài liệu. Tổng
quan tài liệu là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết đối với bất kỳ một
cơng trình nghiên cứu nào. Nghiên cứu tổng quan tài liệu giai đoạn đầu có thể
giúp nhà nghiên cứu dựa vào đó để lựa chọn chủ đề, kiểm tra các nguồn lực sẵn
có, xác định mục tiêu nghiên cứu và xây dựng những giả thuyết cho đề tài
nghiên cứu của mình.
Ba là, hình thành nên giả thuyết đồng thời luận và kiến giải các vấn đề
nghiên cứu.
Dựa trên những quan điểm và phân tích của Durkheim về Tơn giáo, các
nhà nghiên cứu có thể đưa ra những ý tưởng cho nghiên cứu của mình. Trong
q trình đó hình thành nên giả thuyết nghiên - là những dự đốn có căn cứ
khoa học; là sự cụ thể hoá của mục tiêu nghiên cứu trên thực tế xã hội trong
phạm vi nghiên cứu của đề tài. Khơng phụ thuộc vào việc giả thuyết có được
khẳng định qua nghiên cứu khơng, nó vẫn có vai trị lớn cho sự hoàn thành chư-


18


ơng trình nghiên cứu. Đây chính là mắt xích giữa quan điểm lý luận và cơ sở
thực nghiệm của nghiên cứu, giúp nhà nghiên cứu khoanh lại phạm vi các yếu
tố cần thiết cho việc giải quyết các vấn đề đặt ra. Bên cạnh đó, đồng thời vận
dụng các quan điểm của Durkheim về Tôn giáo để luận giải vấn đề nghiên cứu.
Cụ thể chúng tôi xin đưa ra một số ví dụ minh hoạ sau:
“Olivier Bobineau Sébastien Tank - Storper dưới sự chỉ đạo của
Francois de Singly”, bản dịch: “Xã hội học tơn giáo”, người dịch Hồng
Thạch, NXB Thế giới, 2012.
Tác giả cho rằng Durkheim là một trong hai tác giả kinh điển nổi bật nhất
với những tác phẩm “thấm đẫm các cơng trình sản phẩm thời sự nhất”. Rằng
Durkheim đã cố gắng tạo lập một lý thuyết xã hội học về tính tơn giáo, có ý
nghĩa là một lý thuyết nhằm nắm bắt tính tơn giáo khơng phải như một thực tại
siêu kinh nghiệm, cũng không phải như “ảo ảnh”, mà như một sự kiện xã hội
được lý giải bằng tính xã hội.
Những quan điểm về tơn giáo của Durkheim như: các phạm trù về tôn
giáo; đặc điểm của tơn giáo xuất phát từ “tính thiêng”; sự phân chia thành thế
giới thiêng liêng và thế giới phàm tục; định nghĩa về tôn giáo;... được tác giả đi
sâu vào bình luận, phân tích trong chương 1: “Emile Durkheim và Tơn giáo như
là tín ngưỡng thờ cúng của xã hội”. Qua đó, tác giả đưa ra tính ứng dụng lý
thuyết tính thiêng của Durkheim và khai mở ra 3 vấn đề mà chính ơng cho rằng
mở ra nhiều hướng suy tư. Đó là:
- Tính thiêng khơng phải đối với tồn thể mọi người.
- Ở Durkheim, tính thiêng hoạt động như một “hệ tư tưởng”.
- Liệu chúng ta có định nghĩa được tơn giáo, sự kiện tơn giáo? [1]
“Tơn giáo nhìn từ viễn cảnh xã hội học”, Tiến sĩ Dương Ngọc
Dũng, NXB Hồng Đức, 2016.


19



×