MỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU
Yêu nước là một tình cảm, một trạng thái tâm lý tự nhiên của con người
như tình yêu quê hương, xứ sở, sự gắn bó với ngôn ngữ và niềm tự hào về
truyền thống Yêu nước là một tình cảm xã hội, mà nội dung là tình yêu và
lòng trung thành đối với Tổ quốc, lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ
quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc. Yêu nước cũng có quá trình
phát triển cùng với lịch sử phát triển của quốc gia dân tộc, theo quá trình đó
thì tình cảm yêu nước có tính chất cảm tính ấy dần dần trở thành lý tính có
nội dung tư tưởng, lý luận.
Trong xã hội có giai cấp, chủ nghĩa yêu nước cũng có tính giai cấp, bởi vì
mỗi giai cấp biểu hiện thái độ của mình đối với Tổ quốc thông qua những
lợi ích riêng vốn có của nó. Gắn liền với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị,
"chủ nghĩa yêu nước trở thành một bộ phận không thể tách rời của ý thức xã
hội" . Nó là một hình thái ý thức xã hội - hình thái ý thức yêu nước.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đã được toàn thể dân tộc ta trong thời hiện đại
làm giầu thêm bằng vô vàn những gian khổ, hy sinh suốt hơn 30 năm đấu
tranh chống xâm lược và xây dựng đất nước trong điều kiện chiến tranh.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ấy, Đảng ta, do Hồ Chí Minh
sáng lập và lãnh đạo, đã từng bước tổng kết và khái quát hoạt động thực tiễn
của cả dân tộc thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại.
‘
NỘI DUNG
1.Tổng quan về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống
Nhận định về chủ nghĩa yêu nước truyền thống trong lịch sử dân tộc, Hồ
Chí Minh đã viết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ
cướp nước. Lịch sử ta có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần
yêu nước của dân ta".
a. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống - cơ sở hình thành và
quá trình phát triển.
Việt Nam có vị trí địa lý và đặc điểm về địa hình, tài nguyên, sinh thái
thuận lợi, khí hậu nhiệt đới gió mùa phong phú, đa dạng. Với vị trí và đặc
điểm ấy, Việt Nam đã chứa đựng nhiều tiềm năng to lớn nhưng cũng đặt ra
không ít thử thách đối với con người.
Ở Việt Nam có sự xuất hiện sớm của quốc gia dân tộc trên cơ sở phân hoá
xã hội và phân hoá giai cấp, do yêu cầu xây dựng, quản lý các công trình đê
điều, thuỷ lợi và yêu cầu chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Quá trình
hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với quá trình thống
nhất quốc gia. Điều đó đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của ý thức dân
tộc, tạo nên sự cố kết cộng đồng. Tinh thần yêu n¬ước đ¬ược thể hiện qua ý
thức cộng đồng và phát triển trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nư¬ớc.
Nó là sản phẩm riêng của dân tộc Việt Nam.
Hiếm có dân tộc nào trên thế giới trải qua chiến tranh nhiều như dân tộc
ta. Kể từ kháng chiến chống Tần thế kỷ thứ III trước công nguyên đến kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ vừa kết thúc, trong hơn 22 thế kỷ, tính ra thời
gian kháng chiến giữ nước và đấu tranh chống đô hộ ngoại bang đã lên đến
trên 12 thế kỷ. Độ dài thời gian, tần xuất các cuộc kháng chiến quá lớn so
với nhiều nước trên thế giới, hơn nữa lại luôn ở thế nhỏ yếu chống chọi với
kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp bội. Điều đó đã tác động sâu sắc đến sự phát
triển của tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí quật
cường bất khuất và niềm tự tôn dân tộc.
Thời kỳ Bắc thuộc hơn nghìn năm với tất cả âm mưu đồng hoá của ngoại
bang là một thử thách hết sức ác liệt đối với sự tồn vong của đất nước, dân
tộc. Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo đã giành lại chủ quyền
đất nước, giữ được vốn văn hoá và bản sắc dân tộc, không bị đồng hoá.
Trong cuộc đấu tranh ấy, sự cố kết cộng đồng dân tộc và tinh thần yêu nước
càng được tôi luyện và nâng cao.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV là thời kỳ tồn tại nền độc lập lâu dài của đất
nước. Nội dung bài thơ “ Nam quốc sơn hà” đã chứng tỏ một bước phát triển
cao của tinh thần yêu nước và ý thức độc lập tự chủ. Trải qua ba lần kháng
chiến chống Nguyên Mông thắng lợi cùng với những bộ Binh thư, Hịch
tướng sĩ, Di chúc của Trần Quốc Tuấn đã phản ánh sự trưởng thành của tinh
thần yêu nước với nhận thức gắn nước với dân và sức mạnh “vua tôi đồng
lòng, anh em hoà thuận, nước nhà chung sức”, “khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ bền gốc giữ nước”. Khởi nghĩa Lam Sơn đã phát huy cao độ sức
mạnh “nêu hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ”, phát triển
thành một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng.
Những tổng kết trong “Bình Ngô đại cáo” cho thấy tinh thần yêu nước, ý
thức dân tộc đã phát triển lên trình độ của chủ nghĩa yêu nước với một nhận
thức mang tính hệ thống, khái quát tương đối toàn diện về sự tồn tại của đất
nước và dân tộc.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam chuyển
sang mô hình chế độ phong kiến trung ương tập quyền lấy Nho giáo làm
nòng cốt. Từ đó, Nho giáo đã có ảnh hưởng và chi phối ngày càng sâu sắc
trong triều đình và xã hội Việt Nam. Phong trào Tây Sơn (1771) nổi lên ở
Đàng Trong rồi tiến ra Bắc. Phong trào đó từ một cuộc khởi nghĩa nông dân
phát triển thành một phong trào dân tộc, đánh đổ các chính quyền phong
kiến, đánh bại quân xâm lược Xiêm, Thanh và xoá bỏ tình trạng chia cắt
Đàng Trong- Đàng Ngoài.
Có thể nhận định rằng: theo suốt lịch sử, tổ tiên chúng ta đã biết phát huy
cao độ sức mạnh nội sinh, tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc, phù hợp
với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước và con người Việt Nam. Nhờ đó
mới có thể giữ vững nền độc lập, chủ quyền và xây dựng đất nước.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống có một số giá trị và nội dung
cơ bản là:
Thứ nhất, có tình yêu quê hương, xứ sở và sự gắn bó, cố kết cộng đồng.
Trong truyền thống dân tộc với nền văn minh trồng lúa nước đã lấy nhà ( gia
đình) làm đơn vị kinh tế và làng làm cộng đồng cơ sở. Việc nhà, việc làng,
việc nước là công việc chung của mọi người. Do vậy, con người Việt Nam
từ cổ xưa đã sẵn có truyền thống yêu nước gắn liền với yêu nhà và yêu làng.
Thứ hai, có sự khẳng định lịch sử riêng và bản sắc văn hoá riêng của dân
tộc, khẳng định về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, và sự bình đẳng của
nước ta, vua ta đối với phương Bắc và các vua phương Bắc.
Thứ ba, khẳng định tính chính nghĩa của những cuộc chiến tranh vệ quốc
và quyết tâm đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ. Tính
chất chính nghĩa của những cuộc chiến tranh vệ quốc đã nâng tinh thần yêu
nước, yêu quê hương xứ sở lên thành ý thức bảo vệ Tổ quốc và sự toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia với một quyết tâm cao độ của cả dân tộc.
Thứ tư, có tư tưởng coi trọng vai trò của nhân dân và thân dân trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó là sản phẩm của tư tưởng Việt Nam, là quan
điểm tiến bộ của hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam đại diện cho quyền lợi
dân tộc. Tuy nhiên, hoàn cảnh lịch sử đã đẩy lên đỉnh cao nghệ thuật đoàn
kết nội bộ, cố kết cộng đồng dân tộc để chống lại kẻ thù bên ngoài, nó cũng
đã đẩy lên tầm cao ý thức dân tộc về vai trò và lực lượng to lớn của nhân
dân trong sự kết hợp lòng yêu nước với tình đoàn kết để bảo vệ nền độc lập,
xây dựng đất nước.
b. Hạn chế của những hệ tư tưởng cũ ảnh hưởng đến Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam trong thời đại đế quốc chủ nghĩa
Lịch sử dân tộc đã chứng minh một cách hùng hồn rằng chủ nghĩa yêu
nước truyền thống từ thế kỷ XVIII trở về trước đã hoàn thành xuất sắc sứ
mệnh của mình trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất
nước. Vấn đề đặt ra là tại sao với một truyền thống tư tưởng lâu đời và xuất
sắc như trên lại không giải đáp được các vấn đề mà cuộc đấu tranh cứu nước
đặt ra cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX? Câu trả lời ở đây là: khi quyền lợi
dân tộc tạm thời không bị đe doạ từ bên ngoài nữa, thì hệ tư tưởng phong
kiến lại vì quyền lơị giai cấp mà trở nên bảo thủ, xem nhẹ tinh thần dân tộc.
Bước sang thế kỷ XIX, tình hình đất nước đã thay đổi. Nguyễn Ánh, với
sự giúp đỡ của Pháp đã đánh bại triều Tây Sơn, dựng lên triều Nguyễn năm
1802. Các vua triều Nguyễn từ Gia Long, Minh Mệnh đến Tự Đức đã rất
bảo thủ, không chú ý đến phát triển kinh tế, công thương nghiệp và củng cố
quốc phòng để chuẩn bị cho dân tộc đối phó với những nguy cơ đe doạ bị
xâm lược từ bên ngoài. Theo họ, Nho giáo là chân lý duy nhất và xã hội
phong kiến là vĩnh viễn không thay đổi, các học thuyết khác, không phải là
Nho giáo, đều là tà thuyết.
Các nước Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Miến Điện , Ấn
Độ lần lượt bị tư bản phương Tây xâm lược và bị thống trị bằng bộ máy cai
trị của chúng.
Nhân dân các nước đó đã đấu tranh rất anh dũng và đạt đến đỉnh cao của
cao trào đấu tranh chống xâm lược phương Tây ở khu vực này thế kỷ XIX.
Ở nước ta, triều Nguyễn đã nhận thấy những diễn biến như vậy ở những
nước trong khu vực mà vẫn cửa đóng then cài và thực hiện chính sách bế
quan toả cảng.
Nguy cơ bị xâm lược đã lộ rõ, thế mà từ những người đứng đầu đến các
nhà Nho và quan lại ở cấp thấp không nhận thức được. Ở đây các tư tưởng
bảo thủ, lạc hậu của Nho giáo đã thấm sâu vào hệ tư tưởng phong kiến triều
Nguyễn và trở thành vật cản trở sự vươn lên của nhận thức, của tư duy cả
triều đại đó. Hạn chế của hệ tư tưởng phong kiến triều Nguyễn lấy Nho giáo
làm nòng cốt đã ảnh hưởng đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, làm cho nó
không đủ sức soi sáng cho vấn đề cơ bản liên quan đến sự nghiệp cứu nước
của dân tộc ta hồi nửa cuối thế kỷ XIX.
Trên thực tế, đã xuất hiện tư tưởng canh tân. Các nhà canh tân như Phạm
Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch , đã phê
phán bác bỏ nhiều tư tưởng bảo thủ, lạc hậu của Nho giáo như "Xưa hơn
nay", "Bế quan toả cảng", “Trọng nông ức thương". Dẫu vậy, tư tưởng canh
tân vẫn không giải quyết được vấn đề cơ bản của thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Thất bại của cả đường lối Phan Châu Trinh lẫn đường lối Phan Bội Châu
đã chứng tỏ rằng các nhận thức mà hai Cụ rút ra từ tân thư, tuy có đánh dấu
một bước tiến về chất so với hệ tư tưởng phong kiến và Nho giáo, nhưng đã
không đủ sức soi sáng cho yêu cầu của thực tiễn cứu nước.
Trước khi gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, dân tộc ta chưa nhận thức được bản
chất của thời đại, của chủ nghĩa thực dân đế quốc, không nhận thức được vai
trò lịch sử của giai cấp công nhân, không có kiến thức về Đảng tiên phong,
cũng không có nhận thức về mối liên hệ giữa phong trào thuộc địa với cách
mạng vô sản thế giới.
2. Về con đường đưa Hồ Chí Minh đến chủ nghĩa Mác - Lênin.
a. Về sự thống nhất mục đích và phương pháp ra đi tìm đường cứu
nước trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất khẳng định rằng việc xác định mục
đích và lựa chọn hướng đi là điểm mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành và
phát triển nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh. Song, cùng với việc xác định
mục đích và lựa chọn hướng đi, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh thêm vai trò
của phương thức sống và hoạt động của Hồ Chí Minh. Chính phương thức
sống và hoạt động ấy là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc Người tìm
gặp và tiếp thu chủ nghĩa Mác- Lênin.
Việc Hồ Chí Minh xác định mục đích và lựa chọn hướng đi sang phương
Tây để tìm đường cứu nước là bước phát triển nhận thức quan trọng đầu tiên
trong tư tưởng Hồ Chí Minh. “Anh quyết định không đi theo con đường của
các bậc tiền bối, mà lại tìm cách sang Pháp, sang phương Tây, đi đến tận
hang ổ của kẻ xâm lược để "xem nước Pháp và các nước khác làm ăn như
thế nào rồi trở về giúp đồng bào". Đây là điểm mới rất quan trọng thể hiện
bản lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Tất Thành”.
Sang Pháp và phương Tây sẽ có những điều kiện thuận lợi cho Người
hiểu sâu chủ nghĩa thực dân và tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng, đó
không phải là điều quan trọng nhất. Bởi vì, vào thời điểm vài chục năm đầu
thế kỷ XX, dù đi về phương Đông hay phương Tây, dù sống ở Nhật hay ở
Pháp, cũng đều có thể gặp chủ nghĩa Mác-Lênin. Tuy nhiên, “cần phải chú ý
rằng từ trước năm 1911 đến năm 1920 ở Pháp, cũng như ở Châu Âu, chủ
nghĩa cơ hội, mà một trong những đặc trưng chính là chủ nghĩa dân tộc tư
sản và tiểu tư sản, đang hoành hành và chủ nghĩa Mác-Lênin đã phải đấu
tranh quyết liệt với nó. Trong điều kiện như vậy, việc đi sang phương Tây
để tìm đường cứu nước có hai, chớ không phải chỉ có một khả năng duy
nhất: có khả năng tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, và cũng có nguy cơ sa vào
cạm bẫy của chủ nghĩa cơ hội”.
Cùng thời với Hồ Chí Minh, đã có nhiều nhà yêu nước khác ở phương
Tây, nhưng vẫn không hiểu rõ chủ nghĩa thực dân và vẫn "lạc lối trời Âu".
Hay có những người đi về phương Đông, cũng đã ở Nhật nhiều năm, nhưng
có phát hiện được bản chất chủ nghĩa đế quốc đâu? Vậy thì phải có yếu tố gì
khác khiến cho Hồ Chí Minh hiểu sâu chủ nghĩa thực dân và tiếp thu được
chủ nghĩa Mác-Lênin mà những người Việt Nam yêu nước khác không đạt
được? Yếu tố khác và quan trọng đó là mục đích đi – “đi là để tìm đường
cứu nước, mà không phải là đi cầu viện. Với mục đích ấy, Hồ Chí Minh đã
đặt nhiệm vụ là phải dầy công khảo sát văn hoá, chính trị, tổ chức tựu
trung lại là phải dầy công khảo sát lý luận, để xem "những nước ấy tổ chức
và cai trị như thế nào" .
Việc xác định rõ mục đích ra đi tuy là rất quan trọng, song chưa phải là
yếu tố tạo ra sự khác biệt căn bản giữa Hồ Chí Minh với những người yêu
nước cùng thời. Theo chúng tôi, yếu tố ấy là phương thức, phương pháp ra
đi. Chính vì không tìm được phương pháp hoạt động thích hợp mà hai Cụ
Phan và những người Việt Nam yêu nước khác đã không hiểu rõ, hiểu sâu
bản chất chủ nghĩa thực dân đế quốc và không tiếp thu được chủ nghĩa Mác-
Lênin, nói chính xác hơn là chậm tiếp thu được chủ nghĩa Mác-Lênin, vì vào
giai đoạn cuối đời hai Cụ đều đặt niềm tin của mình vào con đường mà
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn.
Sẽ là không đầy đủ nếu không kể đến việc Hồ Chí Minh đã từng sống ở
những thủ đô lớn của các nước phương Tây như Pari, Luân đôn, Béclin và
đã từng ở những trung tâm của cách mạng vô sản như Mát-xcơ-va, Diên
An Người còn đặt chân đến nhiều nơi của thế giới thuộc địa.
Như vậy, Hồ Chí Minh thâu thái được tinh hoa văn hoá phương Đông và
phương Tây, thấu hiểu chủ nghĩa tư bản, thấu hiểu thế giới thuộc địa, được
đào tạo trực tiếp ở Trung tâm của cách mạng vô sản thế giới là Mát-xcơ-va.
Chính những điều ấy đã chuẩn bị cho Nguyễn Ái Quốc tiếp thu bản chất
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, gắn bó với phong trào vô
sản, phong trào giải phóng thuộc địa trên thế giới và vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin một cách sáng tạo, đồng thời cũng rất sáng tạo trong việc kế thừa
chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc. Như lịch sử đã ghi nhận, lần
đầu tiên có ý nghĩa quyết định mà ánh sáng ấy đến với Hồ Chí Minh là sau
khi Người được tiếp xúc với “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”.
b. Vị trí, vai trò của "Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn
đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" trong tiến trình tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trải qua quá trình khảo sát, tìm tòi, hoạt động thực tiễn trong phong trào
công nhân và phong trào dân tộc giải phóng, Nguyễn ái Quốc đã rút ra mấy
kết luận quan trọng chuẩn bị cho việc tiếp thu "Sơ thảo luận cương" của
Lênin. Từ Việt Nam đến các nước thuộc địa khắp thế giới và ở chính những
nước tư bản đế quốc tự xưng là văn minh, tự do, bình đẳng, đâu đâu Hồ Chí
Minh cũng nhận thấy quần chúng lao động bị áp bức, bóc lột. Ở đâu Hồ Chí
Minh cũng thấy sự tàn bạo và những tội ác dã man của chủ nghĩa tư bản đế
quốc. Ở đâu Người cũng thấy khát vọng đấu tranh giải phóng, đòi quyền
làm người của những người lao động. Muốn đánh đổ chủ nghĩa tư bản đế
quốc và được giải phóng, các dân tộc phải trông cậy vào mình, vào lực
lượng của bản thân mình. Đoàn kết làm nên sức mạnh.
Những kết luận quan trọng kể trên dù là sâu sắc, nhưng còn phải đợi đến
khi tiếp thu những tư tưởng cơ bản của Lênin trong "Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa", Hồ Chí Minh mới
nhận ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam:
Thứ nhất: Trong suốt cả quá trình bôn ba khảo sát khắp thế giới, Hồ Chí
Minh vẫn luôn tìm hiểu về thực chất của những khẩu hiệu: Tự do, Bình
đẳng, Bác ái, Hoà bình mà giai cấp tư sản đang hết lời để ca tụng, đặc biệt
trong thời gian chiến tranh đế quốc (1914-1918). Sau chiến tranh, nhất là từ
khi diễn ra hội nghị Véc-Xây, thì những lời lẽ văn hoa đó của giai cấp tư sản
không còn che đậy được những hành vi bạo lực, ăn cướp của chủ nghĩa tư
bản đế quốc nữa. Sự kiện "Bản yêu sách của nhân dân An Nam" bị chìm
nghỉm trong"Hội nghị Hoà bình", sự kiện đoàn Đại biểu Trung Quốc tự ý bỏ
Hội nghị Hoà bình ra về và một số đoàn của người Triều Tiên, Ấn Độ, Ả
Rập, v.v., đến Hội nghị Hoà bình để yêu cầu độc lập, tự do cũng bị thất vọng
đã cho thấy rõ bản chất của "Nhân đạo" và "Hoà bình" đế quốc. Hiệp ước
Véc-Xây còn được gọi là Hiệp ước ăn cướp. Do vậy, hy vọng các dân tộc
chung sống hoà bình và bình đẳng dưới chủ nghĩa tư bản đế quốc chỉ là ảo
tưởng.
Thứ hai: Vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam sẽ phải đi theo con
đường cách mạng nào? Làm thế nào để giành lại độc lập, bình đẳng cho dân
tộc Việt Nam? Khi nghiên cứu luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm
thấy câu trả lời cho những câu hỏi trên. Người đã vui mừng đến phát khóc.
Cảm động, phấn khởi, mà sáng tỏ, tin tưởng biết bao, Người đã nói to lên
rằng "Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta!"(6) . Từ đấy, Hồ Chí Minh xác định
cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản.
Thứ ba: Cuộc tranh luận trong Đảng xã hội Pháp về vấn đề ở lại Quốc tế
II hay gia nhập Quốc tế III gây nên ở Hồ Chí Minh một vấn đề khó hiểu là
"cái Quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa". Có một số đồng
chí nói là Quốc tế III, không phải Quốc tế II và "Điều đó có liên quan đến
tiền đồ của giai cấp công nhân". Hồ Chí Minh tuy chưa hiểu nhiều về ý
nghĩa của vấn đề, nhưng điều mà Người muốn biết, về thực chất, học thuyết
nào quan tâm đến vấn đề giải phóng dân tộc thuộc địa? Chính “Sơ thảo luận
cương” đã tháo gỡ điều khó hiểu đó trong nhận thức của Người.
Như vậy, hoàn toàn có cơ sở khẳng định chính “Sơ thảo luận cương” đã
tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng
của Hồ Chí Minh. Qua "sơ thảo luận cương", Hồ Chí Minh đã tìm thấy con
đường cứu nước, giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Từ đó, chủ nghĩa yêu nước
truyền thống của dân tộc có bước nhảy vọt về chất dưới ánh sáng của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Có nghĩa là từ đó chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh hay
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại được hình thành.
3. Sự hình thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cứu nước của Hồ Chí Minh
Trong sự hỗn độn và rối tung của những mâu thuẫn như cái vẻ bề ngoài
của lịch sử xã hội loài người, "Chủ nghĩa Mác đã cho ta cái kim chỉ nam để
tìm ra những qui luật trong tình trạng rối tung và hỗn độn bề ngoài ấy, đó
chính là: lý luận về đấu tranh giai cấp" .
Lý luận về đấu tranh giai cấp đã được C. Mác trình bày một cách cô
đọng, súc tích trong Tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng Sản”. Từ sự
phân tích sâu sắc, tỉ mỉ địa vị của từng giai cấp trong xã hội tư sản hiện tại,
C. Mác đã vạch ra hết sức rõ vì sao và như thế nào "Bất cứ cuộc đấu tranh
giai cấp nào cũng là cuộc đấu tranh chính trị", và trong điều kiện chưa có
chính quyền thì "Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải
thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã ”."Giai cấp tư sản đã tạo ra
những người đào huyệt chôn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau" .
Lênin đã phát triển lý luận về đấu tranh giai cấp của C. Mác trong thời
đại chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa; đã phân tích
sâu sắc tình hình của từng giai cấp, tầng lớp xã hội ở Nga; cùng với Đảng
Bôn-sê-vích, đã lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga đập tan
ách áp bức của giai cấp tư sản Nga, đưa đến thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười và thiết lập Nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới. Điều
đó đã chứng minh quan điểm của Lênin về cách mạng vô sản có thể nổ ra và
thành công trong một số nước, thậm chí trong một nước là hoàn toàn đúng
đắn.
Nhưng đối với các nước thuộc địa, đặc biệt là Việt Nam, khi mà giai cấp
tư sản Việt Nam ra đời muộn hơn giai cấp vô sản Việt Nam, và giai cấp vô
sản ở các nước thuộc địa liệu có thanh toán được giai cấp tư sản nước mình
nếu chưa tống cổ được bọn thực dân đế quốc đi ? Giải quyết sáng tạo những
vấn đề trên là công lao vĩ đại của Hồ Chí Minh.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin, Hồ Chí Minh đã phân tích xã
hội Việt Nam và chỉ ra mâu thuẫn giữa dân tộc với thực dân đế quốc, giữa
công - nông với tư sản - địa chủ, đồng thời đã nhận thấy rằng giai cấp công
nhân Việt Nam tuy nhỏ bé nhưng có sứ mệnh và tiền đồ thật to lớn là giai
cấp lãnh đạo cách mạng. Giai cấp công nhân cần phải liên minh với giai cấp
nông dân và sự liên minh ấy trở thành lực lượng nòng cốt của khối đại đoàn
kết dân tộc.
Như vậy, chủ nghĩa Mác-Lênin đã có vai trò to lớn trong đường lối cứu
nước của Hồ Chí Minh và tạo ra bước ngoặt quan trọng trong đường lối cứu
nước của lịch sử dân tộc. Qua trí tuệ sáng tạo của Người, chủ nghĩa yêu
nước truyền thống được soi sáng bằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã vươn lên
ngang tâm thời đại. Và trên thực tế, nó đã đáp ứng được yêu cầu của của
cách mạng nước ta.
c. Về sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam truyền thống trong tư duy Hồ Chí Minh.
Trong thời gian sống ở Liên Xô, Hồ Chí Minh đã phát triển những tư
tưởng cơ bản về kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, chủ nghĩa yêu
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng và độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội nhằm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người.
Thời kỳ này đã giúp Hồ Chí Minh hiểu sâu sắc thêm về sứ mệnh lịch sử và
tiền đồ của giai cấp công nhân, về sự liên minh công - nông, về tình đoàn
kết quốc tế vô sản.
Đặc biệt, việc được chứng kiến chế độ dân chủ vô sản hay chế độ xã hội
chủ nghĩa ở Nga đã củng cố vững chắc niềm tin của Người vào chân lý đã
tìm thấy.
Ý thức yêu nước, tinh thần dân tộc ở Hồ Chí Minh dựa vững chắc trên lập
trường giai cấp công nhân và thống nhất với chủ nghĩa Quốc tế vô sản.
Người xác định:
Việc đấu tranh triệt để từ bỏ những tập tục của chế độ gia trưởng (chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi) và việc gắn cách mạng vô sản với phong trào dân tộc
giải phóng là đều tất yếu như nhau. Về điểm này, C. Mác chưa coi đấu tranh
dân tộc là nội dung của cách mạng vô sản, nhưng C. Mác cũng đã chỉ rõ giai
cấp vô sản mỗi nước phải tự xây dựng thành giai cấp dân tộc, phải tự mình
trở thành dân tộc. Lênin cũng đã chỉ ra sự cần thiết phải liên minh chiến đấu
giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản phương Tây với các nước thuộc
địa, các nước phương Đông. Hồ Chí Minh còn đề xuất một tư tưởng hết sức
sáng tạo rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động và có khả
năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở "chính quốc".
Hồ Chí Minh đã có sự tổng kết tình hình chính trị, kinh tế, xã hội ở Việt
Nam, có sự phân tích sâu sắc từng giai cấp, tầng lớp xã hội cả trong quá
khứ, hiện tại và chỉ rõ "Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra không giống như ở
phương Tây", "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước"(9) và
"Chiến tranh đã làm thay đổi chủ nghĩa dân tộc" thành “chủ nghĩa dân tộc
bản xứ”. Từ đó, Người đã phát hiện ra rằng giai cấp công nhân Việt Nam
đang cần có một chính đảng chắc chắn để tổ chức và huấn luyện; chính đảng
ấy nhất thiết đại diện cho lợi ích của cả dân tộc và giai cấp; lực lượng nòng
cốt của cách mạng là liên minh công nông, dù rằng họ còn nhiều hạn chế,
nhưng họ là những người cùng khổ nhất và rất yêu nước. Trên cơ sở đó,
Người đề nghị "phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng
sản Một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời"(10) . Theo Người, chỉ
có kết hợp phong trào giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thành nguồn
động lực chung thì cách mạng mới có sức mạnh và giải quyết được vấn đề
hiện tại của đất nước.
Thế giới quan Hồ Chí Minh là thuộc về thế giới quan Mác-Lênin. Cơ sở của
thế giới quan ấy là triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Điều làm
cho Hồ Chí Minh trở nên vĩ đại chính là "Người đã dựa vào triết học duy vật
biện chứng, thứ triết học không chỉ phản ánh sự đúc kết quan trọng nhất
trong lịch sử tư duy của loài người mà còn là sự khám phá có ý nghĩa nhất
trong lịch sử tri thức và văn hóa; phát hiện ra những quy luật vận hành của
mọi tồn tại vật chất, những quy luật chi phối của cả thế giới cũng như thiên
nhiên, con người và cuộc sống. Nếu không thực hiện những biện pháp cần
thiết, không phân tích đúng đắn thực tế ở mỗi nước, sẽ có nguy cơ chệch
hướng và mắc phải những sai lầm mà sau đó có thể trở thành những hậu quả
nghiêm trọng đối với sự phát triển cách mạng" .
Chính triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã cung cấp cho Hồ
Chí Minh cơ sở khoa học trong việc lý giải về mặt lý luận con đường cứu
nước, góp phần vào việc lý giải về mặt lý luận con đường giải phóng các
dân tộc thuộc địa. Triết học ấy đã soi sáng cho ý chí và quyết tâm cứu nước,
đánh đuổi thực dân, giải phóng đồng bào của Người. Dựa vào triết học ấy,
Hồ Chí Minh đã sáng tạo một phương pháp cách mạng để giác ngộ, tập hợp,
tổ chức và động viên sức mạnh của cả dân tộc, góp phần động viên sức
mạnh của nhân dân các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên thế giới. Người đã
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam và thực hiện giáo dục chủ
nghĩa cộng sản suốt cả quá trình cách mạng trong nhân dân có ý nghĩa quyết
định mọi thắng lợi của cách mạng.
Như vậy, dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa yêu nước truyền
thống đã có bước nhảy vọt về chất, trở thành chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí
Minh (= chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở thời đại Hồ Chí Minh). Chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam, dựa vững chắc trên lập trường giai cấp vô sản, đã bổ
sung thêm "cơ sở lịch sử" cho chủ nghĩa Mác-Lênin và "củng cố nó bằng
dân tộc học phương Đông"(12) , nhưng chỉ có Hồ Chí Minh mới thực hiện
được điều đó, mới tiếp thu được và tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác-
Lênin.
Tóm lại, sự thống nhất mục đích và phương pháp ra đi tìm đường cứu
nước trong con người và tư tưởng Hồ Chí Minh là nguồn lực để ngay từ đầu
và suốt cả quá trình khảo sát thực tiễn, tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trở
thành người Việt Nam cộng Sản đầu tiên. Mỗi bước tiến trên con đường
phát triển nhận thức, tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chứng tỏ một trí tuệ độc
lập, sáng tạo, đủ khả năng thâu thái văn hóa Đông-Tây, thấu hiểu chủ nghĩa
tư bản và thế giới thuộc địa. Người còn được đào tạo ở trung tâm của cách
mạng vô sản thế giới là Mat-xcơ-va. Chính những điều kiện ấy đã chuẩn bị
cho Hồ Chí Minh tiếp thu cái bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa ấy.
"Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa" đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong sự phát triển nhận thức, tư
tưởng của Hồ Chí Minh. Dưới ánh sáng của “Sơ thảo luận cương”, Người đã
tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam và đề xuất một
luận điểm hết sức quan trọng cho cách mạng thuộc địa và Việt Nam: Cách
mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động và có thể giành thắnglợi trước
cách mạng vô sản ở chính quốc.
Việt Nam có một di sản quí là chủ nghĩa yêu nước truyền thống. Dưới ánh
sáng chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa yêu nước truyền thống vươn lên
ngang tầm thời đại trở thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh hay chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại, và chỉ có Hồ Chí Minh mới thực hiện
được sự kết hợp chặt chẽ hai thành phần cơ bản nói trên trong cách mạng
Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX. Không được chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng thì
chủ nghĩa yêu nước truyền thống không thể tránh khỏi tình trạng bất cập
trước thời đại đế quốc chủ nghĩa. Ngược lại, không được chủ nghĩa yêu
nước truyền thống Việt Nam bổ sung thêm thì chủ nghĩa Mác-Lênin thiếu
mất mảng nhận thức những vấn đề phương Đông. Ở Việt Nam, chủ nghĩa
Mác - Lênin đã gặp được sức mạnh vật chất của mình không chỉ ở giai cấp
công nhân, mà còn ở toàn thể dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam tiếp nhận được ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, trên cơ sở đó,
tiếp tục phát triển và hiện diện rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ và
xây dựng đất nước ở thời đại ngày nay.