ĐỀ TÀI: Phân tích cặp phạm trù khả năng và hiện thực. Vận dụng
vào vấn đề khởi nghiệp của sinh viên hiện nay.
A. MỞ ĐẦU
Triết học MácLê-nin ra đời từ những năm 40 của thế kỉ XIX, từ tiền đề
kinh tế chính trị xã hội, khoa học tự nhiên và lý luận. Cần khẳng định
rằng, cũng như mọi triết học, triết học MácLê-nin khơng thể tự phát sinh.
Để nó xuất hiện được cần một khối lượng khổng lồ công việc khoa học,
sự hoạt động thường xuyên, có trách nhiệm, tư duy nghiên cứu cao, nắm
vững lý thuyết, kết quả có ý nghĩa thời đại của khoa học và kinh nghiệm
đấu tranh của giai cấp. Những bước ngoặt cách mạng trong triết học gắn
liền một cách biện chứng với việc khai thác lý luận về văn hóa của quá
khứ và những truyền thống tốt đẹp nhất. Những thành tựu tư tưởng trong
quá khứ, trong đó có triết học hàm chứa nhiều vấn đề cần được giải đáp
theo tinh thần đó, cũng khai phá ra cốt lõi lý trí mà tiền nhân để lại cho
hậu thế, biến những cốt lõi đó thành những nhân tố tích cực trong trang
sử mới. Như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết của
mình trên mảnh đất hiện thực, những đó khơng phải mảnh đất hồng tồn
tách biệt mà nó được vun xới, khai thác từ những thế hệ đã qua. Và chính
mảnh đất hiện thực đó được hình thành từ những tiền đề(các yếu tố khả
năng) có tính khoa học lịch sử nên nó mang tính khách quan.
Đất nước ta đang bước vào thời kì phát triển mới với nhiều thuận lợi
những cũng khơng ít khó khăn. Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
địi hỏi phải trau dồi nguồn nhân lực có trí tuệ cao, bản lĩnh chính trị
vững vàng, nhất là nguồn nhân lực trẻ. Ngày nay, nhiều bạn trẻ chọn con
đường khởi nghiệp thay vì tìm đến những tập đồn, cơng ty lớn để xin
việc. Nhiều bạn sinh viên đã nhen nhóm đam mê từ khi cịn ngồi trên ghế
nhà trường, tự xây dựng kế hoạch kinh doanh. Trong vài năm trở lại đây,
Chính phủ đã có khá nhiều chính sách khuyến khích hoạt động kinh
doanh, thúc đẩy khởi nghiệp và sáng tạo.Do(2021), Le cùng nhóm cộng
sự (2020) đã khẳng định khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ở Việt Nam đang
là chủ đề được cả nước chú ý và các chương trình, cuộc vận động lớn của
một số tổ chức đã được triển khai nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp
của học sinh, sinh viên để lập nghiệp. Xuất phát từ tiền đề lý luận và tiền
đề thực tiễn trên, em chọn đề tài: "Phân tích cặp phạm trù khả năng và
hiện thực. Vận dụng vào vấn đề khởi nghiệp của sinh viên hiện nay." làm
tiểu luận kết thúc môn học của mình
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Phân tích cặp phạm trù khả năng và hiện thực
Khi đã nhận thức được bản chất và các mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện
tượng, chủ thể nhận thức đã ,có thể phán đốn được sự vật, hiện tượng đó, do
sự phát triển của những mâu thuẫn bên trong nó quy định, sẽ biến đổi theo
hướng nào, nghĩa là đã có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả
năng biến đổi của sự vật, hiện tượng đó. Biện chứng của sự vật liên hệ lẫn nhau
giữa quá khứ, hiện tại và tương lai được phản ánh trong các phạm trù “hiện
thực” và “khả năng” .Phạm trù khả năng phản ánh thời kỳ hình thành đối tượng,
khi nó mới chỉ tồn tại dưới dạng tiền đề hay với tư cách là xu hướng. Vì thế khả
năng là phạm trù phản ánh tổng thể các tiền đề của sự biến đổi, sự hình thành
của hiện thực mới, là cái có thể có, nhưng ngay lúc này chưa có; hiện thực là
phạm trù phản ánh kết quả sinh thành, là sự thực hiện khả năng và là cơ sở để
hình thành những khả năng mới.
Một cách đơn giản hơn, khả năng là cái hiện thực chưa xảy ra, nhưng nhất định
sẽ xảy ra khi có điều kiện thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại gồm
tất cả các sự vật, hiện tượng vật chất đang tồn tại khách quan trong thực tế và
các hiện tượng chủ quan đang tồn tại trong ý thức, là sự thống nhất biện chứng
của bản chất và các hiện tượng thể hiện bản chất đó. Theo nghĩa này, hiện thực
khách quan và hiện thực chủ quan được dùng để phân biệt các hiện tượng vật
chất với các hiện tượng tinh thần. Về thực chất, hiện thực là sự thống nhất giữa
bản chất của đối tượng với vơ vàn các hiện tượng của nó, tạo nên tính xác định
động cho đối tượng trong một không gian, thời gian cụ thể.
Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực là những mặt đối lập khả năng và hiện
thực thống nhất biện chứng với nhau: chúng loại trừ nhau theo những dấu hiệu
căn bản nhất, nhưng khơng cơ lập hồn tồn với nhau. Sinh ra từ trong lòng hiện
thực và đại diện cho tương lai ở thời hiện tại, khả năng làm bộc lộ hết tính
tương đối của hiện thực. Thơng qua tính tương đối đó mà hiện thực hóa sự liên
tục của các q trình biến đổi. Mọi đối tượng đều bắt đầu phát triển từ sự chín
muồi các tiền đề sinh thành của nó. Hiện thực bao chứa trong mình số lớn các
khả năng, nhưng khơng phải tất cả đều được hiện thực hóa. Sự hiện thực hóa
từng khả năng địi hỏi các điều kiện tương ứng, nhưng rất có thể thiếu điều kiện
như thế. Trong xã hội, sự hiện thực hóa một khả năng nào đó khơng tách rời
hoạt động thực tiễn, mà hoạt động đó chỉ có thể thành cơng khi con người tính
đến các khả năng vốn có ở hiện thực, ở các xu hướng biến đổi khách quan của
nó. Mục đích, phương tiện và các phương thức của hoạt động đó xét đến cùng
cũng gắn với các hoàn cảnh khách quan tương ứng. Đồng thời chính hoạt động
thực tiễn như là q trình chuyển hóa mục đích (khả năng) thành sản phẩm của
hoạt động (hiện thực) là sự thống nhất khả năng và hiện thực. Dĩ nhiên mức độ
tự do và hiệu quả của hoạt động đó khơng phải vơ hạn, mà cũng bị các quy luật
khách quan quy định.
Các dạng khả năng. Hiện thực thường có nhiều mặt, nhiều xu hướng vận động,
nhiều khả năng biến đổi. Chúng giữ vai trị khơng ngang nhau trong sự vận
hành và phát triển hiện thực. Chẳng hạn, sự hiện thực hóa một số khả năng này
quy định sự chuyển hóa đối tượng từ trạng thái này sang trạng thái khác vẫn
trong khuôn khổ chính bản chất đó sự hiện thực hóa những khả năng khác lại
đòi hỏi sự biến đổi bản chất của đối tượng, biến nó thành đối tượng khác. Trong
q trình thực hiện một số khả năng đối tượng chuyển từ thấp lên cao, nhưng ở
những khả năng khác - thì lại hạ từ cao xuống thấp. Có khả năng liên quan đến
biến đổi về chất, số khác lại liên quan đến biến đổi về lượng của đối tượng. Một
số khả năng gắn với cái tất nhiên trong đối tượng, số khác - với cái ngẫu nhiên.
Có khả năng được hiện thực hóa trong các điều kiện được tạo lập bởi hiện tại,
nhưng một số khác lại chờ các điều kiện đó được tạo ra ở tương lai xa. Hoạt
động thực tiễn của con người làm thay đổi hiện thực khách quan chính là thực
hiện các khả năng nhất định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng.
Có nhiều cơ sở phân loại khả năng. Có thể chi các khả năng thành hai nhóm phụ
thuộc vào việc cái gì quy định chúng: các thuộc tính và mối liên hệ tất nhiên
hay ngẫu nhiên. Những khả năng bị quy định bởi những thuộc tính và mối liên
hệ tất nhiên của đối tượng được gọi là khả năng thực; còn những khả năng bị
quy định bởi các thuộc tính và mối liên hệ ngẫu nhiên - là khả năng hình thức.
Khả năng thực trong những điều kiện thích hợp tất yếu được thực hiện, cịn khả
năng hình thức - có thể được thực hiện cũng có thể khơng. Sự phân biệt khả
năng thực và khả năng hình thức có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động thực tiễn:
khi đặt ra mục đích, xây dựng chương trình, thực hiện hành vi, con người cần
phải xuất phát từ những khả năng thực. Những khả năng hình thức khơng thể
làm cơ sở cho hoạt động có kế hoạch.
Các khả năng chỉ được hiện thực hóa khi có các điều kiện thích hợp. Phụ thuộc
vào mối liên hệ với những điều kiện này như thế nào, khả năng được chia ra
thành khả năng cụ thể và khả năng trừu tượng. Loại thứ nhất là những khả năng
mà để thực hiện chúng hiện đã có đủ điều kiện, loại thứ hai là những khả năng
mà ở thời gian hiện tại cịn chưa có những điều kiệu thực hiện chúng, nhưng
điều kiện có thể xuất hiện khi đối tượng đạt tới một trình độ phát triển nhất
định. Để lập những kế hoạch trước mắt, xác định cách thức giải quyết các nhiệm
vụ thực tiễn đã chín muồi thì cần phải xuất phát từ khả năng cụ thể, chứ không
thể căn cứ vào các khả năng trừu tượng.
Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, khả năng và hiện thực tồn tại trong mối liên hệ khơng tách rời nhau
và ln chuyển hóa cho nhau; do hiện thực được chuẩn bị bằng khả năng cịn
khả năng hướng tời sự chuyển hóa thành hiện thực, nên trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực chứ không thể dựa vào khả
năng. Tuy nhiên, vì khả năng biểu hiện khuynh hướng phát triển của sự vật,
hiện tượng trong tương lai nên khi đề ra kế hoạch, phải tính đến mọi khả năng
để kế hoạch đó sát với thực tiễn. Nhiệm vụ của hoạt động nhận thức là phải xác
định được khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng và tìm ra khả năng ấy
trong chính bản thân nó, bởi khả năng nảy sinh vừa do sự tác động qua lại giữa
các mặt bên trong, vừa do sự tác động qua lại giữa sự vật, hiện tượng với hoàn
cảnh bên ngồi. Thứ hai, phát triển là q trình mà trong đó khả năng chuyển
hóa thành hiện thực, cịn hiện thực này trong quá trình phát triển của mình lại
sinh ra các khả năng mới, các khả năng mới ấy trong điều kiện thích hợp lại
chuyển hóa thành hiện thực, tạo thành q trình vơ tận; do vậy, sau khi đã xác
định được các khả năng phát triển của sự vật, hiện tượng thì mới nên tiến hành
lựa chọn và thực hiện khả năng. Thứ ba, trong quá trình thực hiện khả năng đã
lựa chọn, cần chú ý là trong một sự vật, hiện tượng có thể chứa nhiều khả năng
khác nhau, do vậy cần tính đến mọi khả năng để dự kiến các phương án thích
hợp cho từng trường hợp có thể xảy ra. Thứ tư, cùng trong những điều kiện nhất
định, ở cùng một sự vật, hiện tượng có thể tồn tại một số khả năng và ngoài một
số khả năng vốn có, thì khi có điều kiện mới bổ sung, ở sự vật, hiện tượng sẽ
xuất hiện thêm một số khả năng mới dẫn đến sự xuất hiện một sự vật, hiện
tượng mới, phức tạp hơn. Bởi vậy, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn phải lựa chọn khả năng trong số hiện có, trước hết là chú ý đến khả năng
gần, khả năng tất nhiên vì chúng dễ chuyển hóa thành hiện thực hơn. Thứ năm,
khả năng chỉ chuyển hóa thành hiện thực khi có đầy đủ các điều kiện cần thiết
nên cần tạo ra các điều kiện đó để nó chuyển hóa thành hiện thực. Cần tránh sai
lầm, hoặc tuyệt đối hóa vai trị của nhân tố chủ quan, hoặc xem thường vai trò
ấy trong quá trình biến đổi khả năng thành hiện thực.
II.
VẬN DỤNG
1. Thực trạng và ý nghĩa của việc khởi nghiệp đối với giới trẻ,
sinh viên hiện nay
Bình quân giai đoạn 2016-2019 hàng năm cả nước có 126.593 doanh nghiệp
thành lập mới, với số vốn đăng ký là 1,35 triệu tỷ đồng, tốc độ tăng số doanh
nghiệp thành lập mới là 49,3%, với số vốn đăng ký tăng 24,8%. Hơn thế, một
đều đặc biệt đó là trong những con số này có rất nhiều những dự án của người
trẻ đứng ra.
Để hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp, Đảng và Nhà nước đã ban hành quyết định số
1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ
trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025” với mục tiêu: Đến năm 2025,
tiếp tục đẩy mạnh công tác vận động, giáo dục nâng cao nhận thức, kiến thức
khởi nghiệp và kỹ năng cho sinh viên; củng cố các trung tâm hỗ trợ sinh viên
trong các trường đại học, cao đẳng và trung cấp; 100% các đại học, học viện,
70% các trường cao đẳng, trường trung cấp có ít nhất 5 ý tưởng, dự án khởi
nghiệp của sinh viên. Sinh viên được hỗ trợ đầu tư từ nguồn kinh phí phù hợp
hoặc kết nối với các doanh nghiệp, các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Nhờ chính sách của Chính phủ mà phong trào ủng hộ sinh viên khởi nghiệp
được triển khai rộng rãi trên phạm vi các trường đại học cả nước. Phong trào
này góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế nước ta trong thời đại
công nghiệp tiến bộ chuyển mình với tốc độ chóng mặt. Bối cảnh hiện tại
đang rộng mở khuyến khích những bạn trẻ nhất là sinh viên thử sức trong
lĩnh vực kinh doanh.
Từ năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức Ngày hội khởi nghiệp Quốc
gia của học sinh, sinh viên với trọng tâm là Cuộc thi Học sinh, sinh viên với ý
tưởng khởi nghiệp (SV- STARTUP) nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp cho
sinh viên; giúp các bạn thay đổi tư duy, nhận thức, dám nghĩ, dám làm và có
khát vọng lớn để biến ước mơ, ý tưởng khởi nghiệp thành hiện thực. Cuộc thi đã
thu hút ngày càng nhiều học sinh, sinh viên tham gia với các dự án chất lượng ở
đa dạng lĩnh vực, ngành nghề sau 3 năm triển khai. Năm 2018, có hơn 200 ý
tưởng,dự án tham dự; năm 2019 con số này tăng lên gần 400; và đến năm 2020,
đã có hơn 600 ý tưởng,dự án tham dự cuộc thi. Trong quá trình khởi nghiệp,
nhiều trường đại học, cao đẳng đã chủ động kết nối với các tổ chức hỗ trợ khởi
nghiệp để những ý tưởng, dự án của sinh viên có cơ hội triển khai; tạo môi
trường để tiếp xúc với doanh nghiệp trong quá trình thực tập thực tế. Chất lượng
của các ý tưởng, các dự án khởi nghiệp cũng ngày càng tốt hơn, được các doanh
nghiệp đánh giá cao hơn, kết nối tốt hơn và đóng góp nhiều hơn cho phong trào
khởi nghiệp quốc gia. Có thể kể tên một số phong trào khởi nghiệp sinh viên
tiêu biểu:
- Dự án khởi nghiệp thành lập ứng dụng WORKSVN - “Cổng thơng tin kết
nối Nhà trường và Doanh nghiệp” của nhóm sinh viên khoa Công nghệ
Thông tin, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội
- Cuộc thi Sáng tạo trẻ Bách Khoa do Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
tổ chức thường niên nhằm khuyến khích khả năng sáng tạo, rèn luyện kỹ
năng kết nối tư duy đa lĩnh vực, hướng tới việc tạo ra các ý tưởng và sản
phẩm thiết thực. Chủ đề của Cuộc thi “Smart up for life” năm 2020,
hướng tới những sản phẩm ứng dụng có khả năng khởi nghiệp phục vụ
các lĩnh vực của cuộc sống như: giao thông, giáo dục, môi trường, biển
đảo, công nghiệp, nông nghiệp, y tế,...
- Diễn đàn Khởi nghiệp Sáng tạo Hà Nội 2019 được diễn ra tại Trung tâm
Hội nghị Quốc gia là diễn đàn quy mô cấp quốc gia và quốc tế, lần đầu
tiên được tổ chức tại Hà Nội bởi Tổ chức đổi mới sáng tạo toàn cầu
Schoolab (Pháp), dưới sự bảo trợ của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tham dự diễn đàn có lãnh đạo Chính phủ, các
Bộ ngành, cơ quan Trung ương và thành phố Hà Nội; Đại sứ quán một số
nước tại Hà Nội; các diễn giả trong nước và quốc tế (chủ yếu là các
chuyên gia cao cấp thuộc các lĩnh vực: công nghệ thông tin, tài nguyên
môi trường, sáng tạo khởi nghiệp, tài chính,...); các nhà đầu tư, tập đồn
cơng nghệ, doanh nghiệp khởi nghiệp trong và ngoài nước; đại diện một
số học viện, trường đại học, viện nghiên cứu trên địa bàn Hà Nội.
Như vậy, trong thời gian qua, phong trào khởi nghiệp của sinh viên đã bước đầu
đạt được những kết quả nhất định: trang bị cho sinh viên kiến thức về khởi
nghiệp; rèn luyện tinh thần khởi nghiệp, giúp họ dần trưởng thành, trở thành
những người dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách.
Đồng thời, khởi nghiệp cũng góp phần đổi mới căn bản phương pháp dạy và
học trong các trường đại học và cao đẳng, đưa môi trường đào tạo trở thành nơi
sáng tạo tri thức mới. Cùng với đó, phong trào khởi nghiệp của sinh viên đã trở
thành một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước:
Thứ nhất, chương trình khởi nghiệp sinh viên đã tạo nên một lực lượng lao động
lớn mà phần đông là những bạn trẻ có tính tự chủ, sáng tạo, đặc biệt là sự nhạy
bén, nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ, và là động lực mạnh mẽ cho sự
tăng trưởng kinh tế thị trường. Qua nhiều hoạt động và chương trình khởi
nghiệp, sinh viên trở nên tự tin, sáng tạo, có ý thức hiện thực hóa các ý tưởng
khởi nghiệp của bản thân, từ đó nắm bắt những cơ hội cho tương lai vì sự phát
triển chung của xã hội.
Thứ hai, xuất phát từ các dự án khởi nghiệp sáng tạo thành công của sinh viên,
nhiều doanh nghiệp tư nhân đã ra đời và trở thành yếu tố đóng vai trị hết sức
quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển. Bản thân mỗi doanh
nghiệp lại có vai trò lớn trong việc kết nối với các trường đại học, cao đẳng để
tiếp tục hợp tác và mở rộng, tạo điều kiện cho sinh viên hình thành và phát triển
ý tưởng khởi nghiệp sáng tạo.
Thứ ba, sự phát triển ngày nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, cùng lực lượng
lao động trẻ, đơng đảo đã góp phần xây dựng nên một nền kinh tế năng động,
sáng tạo, chủ động đón đầu sự phát triển của khoa học hiện đại, giúp thu nhỏ
khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam với các nước phát triển
trên thế giới.
2. Những khó khăn khi khởi nghiệp của tuổi trẻ, sinh viên
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, phong trào khởi nghiệp của sinh viên vẫn
còn một số những khó khăn và hạn chế. Khó khăn đầu tiên là từ hoạt động tư
vấn việc làm, hướng nghiệp cho sinh viên tại các trường đại học còn chưa thực
sự hiệu quả, tỷ lệ trường đại học trên số doanh nghiệp tại Việt Nam là rất nhỏ so
với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Không chỉ vậy, hoạt động khởi
nghiệp và hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp tại các trường đại học, cao đẳng chưa
được triển khai rộng rãi. Hiện nay, một số trường đã có sinh viên tham gia
chương trình “Khởi nghiệp quốc gia” dưới sự chỉ đạo của Phịng Thương mại và
Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI), Trung ương Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, song mới chỉ dừng lại ở các hoạt động nhỏ lẻ, chưa thực sự tạo ra động
lực thúc đẩy sinh viên khởi nghiệp. Có 10/120 trường báo cáo đã bước đầu
hình thành các câu lạc bộ “Vườn ươm doanh nhân”. Song, việc sinh hoạt và tổ
chức hoạt động của các câu lạc bộ này chưa thực sự hiệu quả do thiếu đội ngũ
cố vấn hoặc do các thầy, cơ chưa có đủ thời gian để hỗ trợ sinh viên. Thông tin
khởi nghiệp chưa được phổ biến rộng rãi.
Theo Báo Diễn dàn doanh nghiệp ra ngày 10/4/2018, có đến 66,6% sinh viên
Việt Nam hiện nay chưa hề biết đến các hoạt động khởi nghiệp. Số lượng sinh
viên biết đến các chương trình khởi nghiệp chỉ đạt 33,4% và thực tế, số lượng
sinh viên hàng năm tham gia các chương trình khởi nghiệp do VCCI khởi
xướng chỉ đạt 0,016%; 62% sinh viên được hỏi cho rằng các hoạt động khởi
nghiệp hiện nay đang mang tính phong trào, chưa thực sự hiệu quả. Tuy nhiên,
khi hỏi về khả năng kinh doanh, có đến 89% sinh viên cho rằng bản thân có khả
năng kinh doanh và 80% sinh viên có ý định sẽ tham gia các hoạt động kinh
doanh sau khi tốt nghiệp. Cơ hội khởi nghiệp từ kinh doanh của sinh viên hiện
nay 61% đến từ phía gia đình, 21% từ bạn bè và 18% từ các nguồn lực khác
. Các cuộc thi về khởi nghiệp chưa thực sự tạo được động lực đối với sinh viên
các trường đại học, cao đẳng; chưa thực sự hỗ trợ toàn diện về kiến thức, kỹ
năng khởi nghiệp và lập nghiệp đối với sinh viên.
Hiện nay, Việt Nam chúng ta đang có khoảng hơn 1.500 startup hoạt động trong
các lĩnh vực khác nhau. Xét theo mật độ các cơng ty khởi nghiệp trên đầu người
thì tỷ lệ ở Việt Nam thậm chí cao hơn nhiều quốc gia khác như Trung Quốc Ấn
Độ, hay Indonesia. Theo thống kê của Tạp chí Tài chính thuộc Bộ Tài chính,
hiện nay có khoảng 2.100 cơng ty khởi nghiệp tại Indonesia, 2.300 công ty tại
Trung Quốc và 7.500 tại Ấn Độ.Tuy nhiên, các thống kê gần đây đều phản ánh
một bức tranh khá u buồn với tình hình phát triển của các startup Việt. Cụ thể,
trong số các startup mới ra đời, chỉ có 3% là thực sự thành cơng, thỏa mãn được
một trong các tiêu chí: Được định giá từ 10 triệu USD trở lên, doanh thu từ 2
triệu USD, có từ 100 nhân viên, đã gọi vốn vòng 2 hoặc đã bán được công ty
với giá tốt.
Một startup cần tuân thủ 6 bước nền tảng bao gồm: Xác định chiến lược -> Xác
định mơ hình kinh doanh -> Xác định mơ hình hoạt động phù hợp với định
hướng và mơ hình kinh doanh -> Xây dựng cơ cấu tổ chức -> Chuyển đổi văn
hóa ->Thực hiện. Nhiều startup Việt Nam vội vàng bắt đầu ngay khi nghĩ ra ý
tưởng nhưng chưa xác định rõ ràng mục tiêu kinh doanh. Nhiều trường hợp khi
startup gọi vốn, nhà đầu tư nhảy vào nhưng hai bên lại bất đồng về giá trị theo
đuổi, trong khi đó các startup này thường đứng trong thế “đi xin vốn” chứ
không phải “gọi vốn”, điều này buộc họ phải chiều lịng các nhà đầu tư.
Ơng Robert Trần - Tổng Giám đốc Tập đoàn Tư vấn chiến lược Robenny Khu
vực Mỹ, Canada và Châu Á Thái Bình Dương cho biết: “Trước hết, các doanh
nghiệp cần xác định lưu đồ nhằm xác định các bước để đưa sản phẩm đến tay
người tiêu dùng và xác định số nhân sự cần thiết để vận hành mỗi bộ phận. Từ
đó, doanh nghiệp mới vẽ ra cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh. Vì nhầm lẫn này, nhiều
doanh nghiệp trẻ Việt Nam gặp vấn đề về định biên nhân sự, tức là có khi nhân
sự của công ty dư thừa hoặc thiếu hụt ở các bộ phận”.
3.
Giải pháp
Trong thời gian qua, hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của sinh viên được
đề cập nhiều nhưng chủ yếu ở quyết tâm chính trị, chưa thực sự sơi động và có
chiều sâu. Mặt khác, tổng thể hệ thống chính sách về khuyến khích khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo hiện nay được đánh giá là khơng ổn định và ít có sự nhất qn
nên rất khó đối với việc triển khai. Bên cạnh đó, dường như cịn thiếu các chính
sách cụ thể hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp, dẫn đến hiệu quả chính sách chưa cao
hoặc chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế về đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp của
sinh viên. Các giải pháp sau đây sẽ giúp thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp và đổi
mới trong sinh viên đại học.
Một là, về phía thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng cần hưởng ứng và
thực hiện mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực cho hoạt động khởi nghiệp, phải luôn
nỗ lực hết mình, có niềm đam mê và chút “máu lửa” chủ động tiếp cận chương
trình, tích cực tham gia vào các hoạt động để trau dồi kiến thức, kinh nghiệm,
vận dụng những kiến thức được đào tạo tìm kiếm những ý tưởng kinh doanh để
lập nên các dự án khởi nghiệp có giá trị thực tiễn. Bất cứ người trưởng thành
nào cũng có thể khởi nghiệp nếu muốn, khơng phân biệt già hay trẻ, nam hay
nữ, không phân biệt trong hay ngồi nước, thành thị hay nơng thơn miễn sao
bạn có một ý tưởng kinh doanh hay có thể thực hiện được, có thể đem lại lợi ích
cho bản thân mình và tồn xã hội. Tuy nhiên, hiện nay những ý tưởng khởi
nghiệp được hình thành chủ yếu bởi các bạn trẻ đam mê làm giàu và sáng tạo,
đặc biệt là sinh viên đang đi học hoặc vừa ra trường. Những con người trẻ tuổi
này tràn đầy nhiệt huyết, họ cũng có đủ sự nhanh nhạy, khả năng nắm bắt kiến
thức và cơng nghệ mới, có lịng can đảm, khát khao khẳng định bản thân hơn
những người đi trước, mặc dù những người đi trước có nhiều lợi thế về kinh
nghiệm hơn.
Hai là, về phía nhà trường: Cần có giải pháp để truyền cảm hứng cho sinh viên
về vấn đề khởi nghiệp, đưa sáng kiến của sinh viên vào thực tiễn thành công. Để
làm được điều này, trước hết, cần "truyền lửa” cho sinh viên ngay từ khi còn
ngồi trên ghế giảng đường. Yếu tố quan trọng hàng đầu mà người bắt đầu khởi
nghiệp cần phải có là năng lực sáng tạo, kiến thức nền tảng và kiến thức chuyên
môn. Để trang bị các yếu tố cần thiết cho sinh viên có thể khởi nghiệp, các
trường đại học cần tăng cường các chương trình giáo dục về khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo để trang bị cho sinh viên các kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo; khơi dậy tinh thần khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của sinh viên.
Cần đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo, gắn giáo dục và đào tạo với hoạt
động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp, có định
hướng rõ ràng trong việc ưu tiên các chính sách và nguồn lực cho các ngành
STEM (thuật ngữ dùng để chỉ các ngành học về Science - Khoa học,
Technology - Công nghệ, Engineering - Kỹ thuật và Mathematics - Toán học).
Sinh viên cần được bồi dưỡng, rèn luyện tinh thần doanh nhân, tư duy đổi mới,
sáng tạo và kỹ năng lãnh đạo. Kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, cần tạo
dựng văn hóa sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ, nhất là đối với sinh
viên, để ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường sinh viên đã có ý chí tự thân
lập nghiệp, sẵn sàng cho tương lai, cống hiến năng lực của bản thân vào sự phát
triển kinh tế - xã hội. Sự gắn kết giữa trường đại học với doanh nghiệp trong
đào tạo, đây được coi là động lực cốt yếu của xã hội cho việc khởi nghiệp. Kết
quả của mối quan hệ gắn kết giữa trường đại học với doanh nghiệp sẽ tăng
cường khả năng trải nghiệm, thực hành để nâng cao chất lượng đào tạo và phát
triển cơ hội khởi nghiệp trong tương lai cho sinh viên.
Ba là, trách nhiệm của tổ chức Đoàn, Hội sinh viên: Thời gian qua tổ chức
Đoàn, Hội sinh viên tham gia vào chuỗi hoạt động khởi nghiệp với các nội
dung: tập huấn khởi sự doanh nghiệp, tọa đàm sinh viên tham gia phát triển
kinh tế, trao đổi kinh nghiệm khởi sự doanh nghiệp, tư vấn hỗ trợ thủ tục pháp
lý. Đoàn thanh niên đã phối hợp với các cấp, các ngành, doanh nghiệp tổ chức
truyền thông, tư vấn, thành lập vườn ươm ý tưởng khởi nghiệp, khuyến khích
tinh thần khởi nghiệp, vận động sinh viên chủ động tạo việc làm, giúp nhau lập
nghiệp, góp vốn và liên kết trong sản xuất, kinh doanh; tổ chức trong trường các
hoạt động như: Hội chợ việc làm, Ngày hội việc làm, Ngày hội hướng nghiệpdạy nghề. Đây là những hoạt động thiết thực, giúp sinh viên có khả năng được
tiếp cận những cơ hội việc làm và hiểu được nhu cầu nguồn nhân lực của xã hội.
Bốn là, vai trò của Đảng và Nhà nước: Đảng và Nhà nước có vai trị đặc biệt
trong việc tạo ra mơi trường khởi nghiệp chuyên nghiệp và lành mạnh. Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) đã nêu rõ, “kinh tế tư nhân được phát
triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Phát huy phong trào
khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn
nhân lực với hệ thống chính sách, giải pháp đồng bộ. Khuyến khích, động viên
và lan toả tinh thần, ý chí khởi nghiệp, kinh doanh và đổi mới sáng tạo trong
toàn xã hội, nhất là cộng đồng doanh nghiệp”. Vì vậy, Nhà nước cần hồn thiện
chính sách pháp luật và thực hiện có hiệu quả các biện pháp, quy định bảo đảm
quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu...; Có chính sách, tạo mơi trường kinh doanh
thơng thống, minh bạch, phát triển các chương trình khởi nghiệp, nhất là các
quỹ khởi nghiệp, văn phòng tư vấn và dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp...; Các hiệp
hội, địa phương và ngành cũng cần mở rộng giao lưu, đào tạo, thi khởi nghiệp
trên tồn quốc, tìm các nhà đầu tư tài trợ cho những dự án có tính khả thi. Nhà
nước cần có chính sách cho sinh viên tiếp cận nguồn vốn tín dụng, đất đai hỗ trợ
cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; các trường đại học cần có quỹ hỗ trợ để thúc
đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong sinh viên. Bên cạnh đó, cần xây dựng
điểm sáng tạo trong các cơ sở đào tạo về không gian làm việc chung; xây dựng
dữ liệu học liệu thông qua mạng để chia sẻ tri thức, đóng góp thiết thực cho
phong trào khởi nghiệp của sinh viên.
4. Liên hệ bản thân
Là một con người trẻ tuổi tràn đầy nhiệt huyết, muốn khởi nghiệp thành công,
em tự cảm thấy bản thân phải có đủ sự nhanh nhạy, khả năng nắm bắt kiến thức
và cơng nghệ mới, có lịng can đảm, khát khao khẳng định bản thân hơn những
người đi trước, mặc dù những người đi trước có nhiều lợi thế về kinh nghiệm
hơn. Như nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan từng chia sẻ trên “Diễn đàn cùng
thanh niên thủ đô khởi nghiệp” (Hà Nội, 10/4/2016), rằng “Để khởi nghiệp
thành công, nhất thiết thanh niên phải nhớ cho mình 8 chữ ‘T’ cần thiết: Tức
khí, Tị mị, Thử nghiệm, Tìm kiếm, Chữ Tín, Thất bại, Thử lại, Thành cơng”.
Đó là những nhân tố cơ bản cần thiết để cho em hay thế hệ thanh niên nói chung
trang bị những kiến thức, kỹ năng cơ bản trên con đường khởi nghiệp, xác định
năng lực bản thân, sự mạo hiểm, thách thức và dĩ nhiên là cả những thất bại.
III. Kết luận
Trong tiến trình hội nhập sâu rộng của đất nước, nếu mỗi sinh viên đều có tinh
thần khởi nghiệp sẽ là nền tảng quan trọng để Quốc gia khởi nghiệp. Chính vì
vậy, mỗi sinh viên cần năng động, sáng tạo, chủ động, nâng cao trình độ chun
mơn; các tổ chức, đồn thể trong trường cần tổ chức và có những hoạt động
thiết thực để gắn kết sinh viên với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hội
nhập; và hơn hết là chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước tạo hành lang
pháp lý cho giới trẻ, đặc biệt là sinh viên khởi nghiệp hiệu quả, phát triển bền
vững góp phần xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ số 46.2018
2. />3. />4. />5. Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam 2020