Tải bản đầy đủ (.docx) (113 trang)

Biện pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT quảng khê, huyện ba bể, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.49 KB, 113 trang )

1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BCH Ban chấp hành
BGH Ban giám hiệu
CBQL Cán bộ quản lý
CSVC Cơ sở vật chất
GV Giáo viên
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
HS Học sinh
KHTN Khoa học tự nhiên
KHXH Khoa học xã hội
NNHT Nề nếp học tập
PPDH Phương pháp dạy học
QLGD Quản lý giáo dục
SL Số lượng
TB Trung bình
THCS Trung học cơ sở
THPT Trung học phổ thông
XHCN Xã hội chủ nghĩa
1
1
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
2
2
3
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
3
3
4
MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay đất nước ta đang trong thời kỳ hội nhập để phát triển kinh tế xã
hội. Trong đó quan trọng hàng đầu là sự phát triển nguồn lực con người. Đảng
ta đã khẳng định: Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển. Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhấn mạnh: “Cùng
với khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”[20; tr6].
Quan điểm phát triển giáo dục của Đảng rất phù hợp với xu thế thế giới.
Chúng ta gọi quan điểm này là quan điểm coi giáo dục là cơ sở hạ tầng của xã
hội. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đặc biệt coi trọng con người, giáo dục
và đào tạo nguồn lực người. Ngay ở bậc phổ thông đã phải quán triệt quan
điểm phát triển người thành nguồn lực người, vốn người - điều kiện cơ bản để
phát triển kinh tế xã hội. Giáo dục phổ thông có nhiệm vụ quan trọng là giúp
học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc bước vào
cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tương lai của đất
nước phụ thuộc rất nhiều vào giáo dục phổ thông. Trong những năm qua, sự
nghiệp giáo dục phổ thông đã có bước phát triển đáng tự hào. Chất lượng giáo
dục phổ thông từng bước được cải thiện, góp phần quan trọng vào việc nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Để nâng cao chất lượng giáo
dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước tất nhiên phải tăng cường
xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, phát triển năng lực sư
phạm cho đội ngũ giáo viên, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, quản
4
4
5
lý giáo dục, cơ sở vật chất trường học. Ngoài vai trò quyết định của giáo viên
đối với phát triển giáo dục và thực hiện chất lượng giáo dục, một trong khâu

đột phá nâng cao chất lượng dạy và học trong trường phổ thụng phải bắt đầu
từ việc xây dựng nề nếp học tập của học sinh. Phải làm cho học sinh thực sự
là chủ thể của hoạt động học tập, học sinh cùng giáo viên là chủ thể của hoạt
động dạy và học. Việc giáo dục nề nếp, kỷ cương, kỷ luật học tập cho học
sinh phổ thông phải là một trong những nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu, là nhân
tố ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả học tập, đến chất lượng dạy-học ở trường
phổ thông.
Hiện nay, việc xây dựng nề nếp học tập của học sinh đó được các trường
phổ thông quan tâm và có những chuyển biến tích cực. Công tác tổ chức quản
lý nề nếp học tập của học sinh thu được một số kết quả đỏng khích lệ (kỷ luật
học tập được đảm bảo, học sinh có ý thức chấp hành tốt nội quy học tập, đi
học đúng giờ, tích cực tham gia xây dựng bài, có thói quen tự giác học tập,
làm bài tập về nhà, học kỹ lý thuyết trước khi làm bài,… ngăn chặn được tình
trạng vỡ lớp, trò bỏ học). Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, trong
thực tế việc quản lý nề nếp học tập của học sinh phổ thông nhất là trường phổ
thông vẫn cũn nhiều khó khăn, bất cập, chưa thật sự có hiệu quả (việc chấp
hành nội quy học tập còn mang tính hình thức, đi học không đúng giờ, chưa
chăm chú nghe giảng, lười học, trốn học đi chơi điện tử, không làm bài tập về
nhà, ý thức tự giác học tập chưa cao ). Nguyên nhân chủ yếu là do đa số học
sinh là dân tộc thiểu số, nhận thức cũn chậm, nhiều gia đình chưa thật sự quan
tâm đến việc học của con em mình, phần đông học sinh chưa có kỹ năng và
phương pháp học tập khoa học, hợp lý. Một số giáo viên tuổi đời và tuổi nghề
còn trẻ, năng lực chuyên môn còn nhiều hạn chế, thiếu kinh nghiệm quản lý
học sinh. Do đời sống giáo viên còn nhiều khó khăn, cho nên một số giáo viên
chỉ quan tâm đến dạy học, chưa thực sự quan tâm đến việc hình thành nề nếp
5
5
6
học tập. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách thấu đáo và có hệ thống công tác
quản lý nề nếp học tập của học sinh trường phổ thông nói chung, trường

THPT Quảng Khê nói riêng có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn trong việc
khẳng định vai trò của rèn luyện nề nếp học tập trong việc nâng cao kết quả
học tập. Hơn nữa việc tìm ra các biện pháp quản lý để nâng cao nề nếp học
tập của học sinh trường THPT Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn có
đóng góp quan trọng trong việc nâng cao hơn về chất lượng dạy và học của
nhà trường .
Xuất phát từ những nhận thức trên tác giả chọn đề tài: “Biện pháp
quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT Quảng Khê, huyện Ba
Bể, tỉnh Bắc Kạn" làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ
quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý nề nếp học tập cho học sinh THPT nhằm
góp phần nâng cao hiệu quả học tập của học sinh trường THPT Quảng Khê,
huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động dạy học ở trường THPT Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Các biện pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT Quảng
khê, tỉnh Bắc Kạn.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng dạy học của trường THPT Quảng Khê còn thấp và phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như nề nếp học tập của học sinh, tổ chức quản lý nề nếp học
tập của học sinh. Nếu đề xuất được hệ thống các biện pháp quản lý nề nếp học
tập của học sinh phù hợp với điều kiện của nhà trường và gia đình thì sẽ góp
6
6
7
phần nâng cao nề nếp học tập của học sinh nói riêng, chất lượng và hiệu quả
quá trình dạy học nói chung.

5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về nề nếp học tập và quản lý nề nếp học tập
của học sinh THPT
5.2. Khảo sát thực trạng nề nếp học tập, các biện pháp quản lý nề nếp học
tập của học sinh trường THPT Quảng Khê
5.3. Đề xuất biện pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT
Quảng Khê
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
6.1. Nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các biện pháp quản lý nề nếp
học tập của học sinh.
6.2. Khách thể: Đề tài nghiên cứu học sinh trường THPT Quảng Khê, huyện
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Thời gian: Năm 2009 - 2011.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hoá, hệ thống hoá các tài
liệu lý luận về nề nếp học tập.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử vấn đề, phát hiện và khai thác những khía
cạnh mà các công trình nghiên cứu trước đây đã đề cập đến vấn đề về nề nề nếp
học tập và tổ chức nề nếp học tập, làm cơ sở cho việc nghiên cứu tiếp theo.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát nề nếp học tập của học sinh trường THPT Quảng
Khê trong mối quan hệ với hoạt động dạy học.
- Phương pháp điều tra bằng ankét về thực trạng nề nếp học tập và quá
trình quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT Quảng Khê.
7
7
8
- Phương pháp xin ý kiến chuyên gia góp ý về cách xử lý kết quả điều
tra, các biện pháp quản lý.

- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm trong quản lý nề nếp học tập.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lý kết quả điều tra.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, kết quả nghiên cứu, phần nội
dung được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nề nếp học tập của học sinh ở trường
trung học phổ thông.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý nề nếp học tập của học sinh
trường THPT Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Chương 3: Các biện pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường
THPT Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
8
8
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NỀ NẾP HỌC TẬP
CỦA HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Thời kỳ trước, trong và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, công tác
hoạt động giáo dục chưa được xây dựng trên cơ sở khoa học như ngày nay,
nhưng công tác giáo dục nề nếp cho học sinh đã được chú ý.
Việc giáo dục nề nếp về hành vi đạo đức hàng ngày được các ông đồ nho
giải quyết bằng những bài học trong sách “Minh tâm bảo giám”, “Minh đạo
gia huấn” nhằm giúp các em tạo thói quen, hình thành những nề nếp ứng xử
đẹp trong gia đình và ở cộng đồng.
Hiện nay công tác xây dựng nề nếp cho học sinh nhất là học sinh tiểu
học là vấn đề được rất nhiều nhà giáo dục và các bậc phụ huynh quan tâm, bởi
công tác giáo dục cho trẻ là rất quan trọng và cần thiết, giáo dục nề nếp có có
tác dụng to lớn, tác động đến việc giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật, giáo dục

thẩm mỹ, rèn luyện nghị lực và ý chí, nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng
ngày một tốt hơn yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc đổi mới nền
kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới.
Bên cạnh đó, chất lượng đào tạo phổ thông hiện còn bộc lộ nhiều hạn
chế cần phải khắc phục. Một trong các nguyên nhân của hạn chế đó là công
tác quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, trong đó có công tác quản lý nề
nếp học tập của học sinh.
Một trong những giải pháp có tính chất quyết định để nâng cao chất
lượng giáo dục phổ thông là phải cải tiến công tác quản lý nề nếp học tập của
học sinh trung học. Ở các trường THPT, nề nếp học tập của học sinh có vai
trò vô cùng quan trọng và có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng và quản
lý mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học. Chất lượng giáo dục phụ thuộc
rất nhiều vào nề nếp học tập của học sinh trên lớp cũng như tự học ở nhà.
9
9
10
Đến năm 1986, Việt Nam triển khai cải cách giáo dục theo đường lối đổi
mới của Đảng đã được khởi xướng ở Đại hội VI thì vấn đề ổn định giáo dục
phổ thông, thực hiện nề nếp, kỷ luật, kỷ cương trong các trường phổ thông bắt
đầu được chú trọng. Từ năm 1986 đến nay, công tác quản lý nề nếp học tập
của học sinh phổ thông được nhiều nhà giáo dục, nhiều nhà sư phạm quan
tâm, nhiều sáng kiến giảng dạy ở các cấp độ khác nhau được thực hiện .
Điển hình là sáng kiến của Đinh Thị Thanh Loan trường Tiểu học Lý
Thường Kiệt, Quận Đống Đa - Hà Nội về “Những định hướng để hình thành
nề nếp học tập cho học lớp 1” đã chỉ ra một số biện pháp giúp học sinh rèn nề
nếp học tập trên lớp, rèn nề nếp học tập ở nhà, kết hợp với giáo viên bộ môn
và phụ huynh học sinh cùng có biện pháp rèn nề nếp cho học sinh, đồng thời
áp dụng biện pháp nêu gương, khen thưởng đối với những học sinh có nề nếp
học tập tốt, nhờ đó các em đã có ý thức học tập tốt hơn và có hứng thú say mê
trong học tập.

Ngoài ra còn có một số bài viết về nề nếp học tập, sinh hoạt cho con của
Phạm Thị Thu Hà, nghiên cứu này đề cập biện pháp hướng dẫn học sinh tự
học ở nhà, giáo viên cần cải thiến nội dung và các hình thức tổ chức dạy học
thu hút hứng thú học tập của trẻ 7 tuổi. Ngoài ra còn có một số sáng kiến kinh
nghiệm khác nghiên cứu về nề nếp nhưng cũng chỉ nghiên cứu về xây dựng
nề nếp chủ nhiệm đối với học sinh tiểu học.
Hạn chế của một số sáng kiến và nghiên cứu trên là chưa chú ý tập trung
các biện pháp có tính toàn diện mà nhà quản lý và giáo viên, phụ huynh phải
vận dụng để nâng cao chất lượng giáo dục.
Nhìn chung, những năm gần đây các sáng kiến và công trình nghiên cứu về công tác
quản lý nề nếp của học sinh THPT hầu như chưa được đề cập đến, đặc biệt là các biện
pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT các tỉnh miền núi phía Bắc. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu các biện pháp quản lý nề nếp học tập của học sinh trường THPT
10
10
11
Quảng Khê cần được triển khai đánh giá một cách thấu đáo, nghiêm túc và có tính hệ
thống.
1.2. Những vấn đề lý luận về nề nếp học tập
1.2.1. Khái niệm nề nếp
Có nhiều khái niệm kỹ năng về nề nếp.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, nề nếp là toàn bộ
những quy định và thói quen để duy trì sự ổn định, trật tự, có tổ chức trong
sinh hoạt cũng như công việc [28, tr1179].
Nề nếp là những lề lối, nội quy, quy chế, thói quen làm việc được duy trì
theo một trật tự nhất định, có sự sắp xếp khoa học, quy củ làm nền tảng để
thực hiện một công việc có hiệu quả.
Vậy, nề nếp có thể được hiểu là những nội quy, quy chế, chuẩn mực xã
hội bắt buộc cá nhân phải thực hiện tốt, không thể làm trái hoặc làm ngoài
những quy định nhà quản lý đã đưa ra nhằm duy trì hiệu quả hoạt động.

Theo từ điển Tâm lý học, nề nếp lớp học là những chuẩn mực của giáo
viên yêu cầu học sinh thực hiện [27].
Trên cơ sở thừa kế các khái niệm về nề nếp, đề tài đưa ra quan niệm về nề
nếp học tập như sau: Nề nếp học tập là toàn bộ những nội quy, quy chế, quy
định, kỷ luật, lề lối, thói quen học tập được nhà quản lý, giáo viên và học sinh
giữ g ì n , duy trì hoạt động dạy và học một cách hợp lý, có tổ chức và hiệu quả.
11
11
12
Nếu xem xét nề nếp học tập (NNHT) trong mối quan hệ với hoạt động
dạy học hay nói cách khác diễn ra trong quan hệ với giáo viên, thì NNHT diễn
ra dưới các hình thức khác nhau:
- Nề nếp học tập diễn ra dưới sự điều khiển trực tiếp của giáo viên và
những phương tiện kỹ thuật trên lớp, học sinh phát huy hết những năng lực,
phẩm chất như nghe giảng, ghi chép bài phân tích, khái quát hoá, để tiếp thu
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà giáo viên định hướng cho. Từ đó thông
qua việc thiết kế bài giảng, giáo viên tạo điều kiện để học sinh phát huy được
tính tích cực, chủ động sáng tạo, đồng thời sẽ dần hình thành được cho học
sinh một NNHT tốt ở trên lớp.
- Nề nếp học tập diễn ra dưới sự điều khiển gián tiếp của giáo viên, thì
lúc này học sinh phải biết tự sắp xếp thời gian, điều kiện cơ sở vật chất để tự
học, tự củng cố, tự đào sâu những tri thức hoặc tự hình thành những kỹ năng,
kỹ xảo theo yêu cầu đã được hướng dẫn, và có sự quản lý của chính gia đình học
sinh. Từ đó cũng sẽ dần hình thành được cho học sinh có được một NNHT tốt tại
gia đình.
Việc hình thành NNHT cho học sinh dù có mặt của giáo viên hay không
có mặt của giáo viên đều giúp học sinh phát huy được tính tự giác, tích cực
cao thể hiện ở việc học sinh có một thói quen tốt trong việc tự nguyện, tìm tòi
phương pháp, phương tiện và điều kiện để thực hiện nhiệm vụ học tập.
1.2.2. Quan hệ giữa việc hình thành nề nếp học tập cho học sinh và dạy học

Hoạt động dạy học là một hoạt động kép gồm hoạt động dạy do thầy
đảm nhận và hoạt động học do học sinh đảm nhận. Hoạt động dạy của thầy
giữ vai trò chủ đạo, còn hoạt động học giữ vị trí chủ động.
Vai trò chủ đạo của thầy thể hiện ở các bình diện như:
- Định hướng, kích thích hình thành động cơ học tập ở HS bằng cách làm
cho học sinh hiểu rõ ý nghĩa của việc học, của môn học đối với bản thân, với
12
12
13
cuộc sống, với nghề nghiệp tương lai. Từ đó học sinh tự giác, tích cực học tập
bởi việc học được xuất phát từ động cơ đúng đắn, từ động lực bên trong - học
vì sự phát triển của bản thân, học vì chất lượng cuộc sống, học vì lập nghiệp
cho tương lai.
- Tổ chức hoạt động học tập cho học sinh một cách sinh động, tích cực
và hiệu quả. Thầy xây dựng các tình huống học tập vừa sức với học sinh, đặt
học sinh vào các tình huống học tập, gợi ý các phương hướng, các điều kiện
giải quyết tình huống, tạo điều kiện để học sinh tích cực giải quyết tình
huống, qua đó lĩnh hội được kiến thức và phương pháp tìm ra kiến thức.
- Giúp đỡ, hỗ trợ học sinh trong quá trình tự lực giải quyết tình huống
học tập. Trong quá trình học sinh tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập bằng
phương pháp tự học của mình, các em luôn gặp nhiều khó khăn từ bên trong
như động cơ học chưa đủ mạnh, kiến thức, kỹ năng nền bị hổng,… và bên
ngoài như thời gian tự học, tài liệu tham khảo thiếu… điều này khiến HS chán
nản và từ bỏ việc tự học và việc thực hiện NNHT của các em sẽ không được
duy trì tốt. Vì thế giáo viên luôn phải phát hiện kịp thời những khó khăn mà
học sinh đang phải đối mặt và có những giúp đỡ kịp thời, hợp lý.
- Kiểm tra, điều chỉnh và xác nhận kết quả học tập của học sinh. Giáo
viên dùng câu hỏi, bài tập, tình huống để kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh. Qua kết quả trả lời, giải bài tập, giải quyết tình
huống mà GV xác nhận kết quả học tập của HS hay điều chỉnh việc dạy của

mình và học sinh điều chỉnh việc học của mình.
Phân tích vai trò chủ đạo của GV, chúng ta thấy GV không phải là người
mang tri thức đến cho HS mà là người tổ chức cho HS tự mình tìm ra tri thức.
GV là người tạo ra môi trường học tập để học sinh hoạt động và qua đó lĩnh
hội được tri thức, kĩ năng và nhiều giá trị khác.
13
13
14
Theo Nguyễn Kỳ: “Dạy học là hướng dẫn, hỗ trợ, khuyến khích người
học xử lý, biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong con người.
Dạy học là khuyến khích học. Dạy học là tri thức hoá con người” [16; tr16].
Quản lý hoạt động dạy học phát huy NNHT của học sinh không phải chỉ
quản lý mục tiêu, nội dung chương trình mà chủ yếu quản lý hoạt động lên
lớp của giáo viên, đặc biệt quản lý phương pháp giảng dạy của giáo viên ở
trên lớp để kích thích và hình thành NNHT cho học sinh.
1.2.3. Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh dân tộc miền núi
* Đặc điểm tâm lý trong học tập
- Đặc điểm về nhận thức
Trong quá trình học tập, sự biến đổi nhận thức của người học chịu sự tác
động của các lực lượng giáo dục, của nội dung, phương pháp và các hình thức
dạy học, trong điều kiện dạy và học cụ thể, dưới ảnh hưởng của điều kiện
kinh tế - xã hội, phong tục tập quán, lối sống đã được hình thành ở học sinh.
Như vậy, đặc điểm quá trình nhận thức của học sinh dân tộc bao gồm những
yếu tố đã ổn định và những yếu tố mới hình thành và phát triển trong quá
trình dạy học và giáo dục.
Nhìn chung, các nét tâm lý như ý chí rèn luyện, óc quan sát, trí nhớ, tính
kiên trì, tính kỷ luật của học sinh dân tộc chưa được chuẩn bị chu đáo. Việc
học chưa được coi trọng vì thiếu động cơ thúc đẩy, hay nói cách khác, quá
trình chuyển hoá nhiệm vụ, yêu cầu học tập, cũng như cơ chế hình thành ở
bản thân học sinh diễn ra chậm. Tuy nhiên, do sống từ nhỏ trong không gian

rộng, tiếp xúc nhiều với thiên nhiên, nên nhận thúc cảm tính của học sinh phát
triển khá tốt. Cảm giác, tri giác của các em có những nét độc đáo, tuy nhiên
còn thiếu toàn diện, cảm tính, mơ hồ, không thấy được bản chất của sự vật
hiện tượng. Quá trình tri giác thường gắn với hành động trực tiếp, đối tượng
tri giác của học sinh chủ yếu là sự vật gần gũi, cây con, thiên nhiên. Nhờ vào
14
14
15
việc tổ chức các hình thức học tập đa dạng như: tham quan, ngoại khoá,
nghiên cứu tài liệu, tăng cường cách dạy học trực quan sẽ làm tăng hiểu biết
cho học sinh, uốn nắn lệch lạc, tạo ra phương pháp nhận thức cảm tính tích
cực làm tiền đề cho nhận thức ở mức độ chính xác hơn, cao hơn.
Khả năng tư duy kinh nghiệm của học sinh đạt mức cao so với trình độ
chung của lứa tuổi, song khả năng tư duy lý luận còn thấp so với yêu cầu;
trình độ các thao tác tư duy, khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát nhiều khi
thiếu toàn diện, hệ thống. Tri thức thói quen được hình thành bằng con đường
kinh nghiệm ảnh hưởng đến quá trình tiến hành các thao tác trí tuệ cho các
em. Tuy nhiên, trong thao tác tư duy thì khả năng phân tích, tổng hợp và khái
quát ở các em còn phát triển chậm, khả năng tư duy nói chung và khả năng
tiến hành các thao tác trí óc nói riêng hình thành khó khăn.
Quá trình tư duy đối với các khái niệm khoa học và khái niệm thông
thường thì sự hiểu biết thuộc tính bản chất khái niệm và sự vận dụng các khái
niệm đó vào thực tế chỉ đạt mức gần trung bình. Các em hay lầm lẫn giữa
thuộc tính bản chất với thuộc tính không bản chất của khái niệm.
Những đặc điểm quá trình nhận thức của học sinh chi phối mạnh mẽ các
thuộc tính tâm lý khác như: khả năng ghi nhớ có chủ định chậm được hình
thành, khả năng tự điều chỉnh ghi nhớ có ý thức của học sinh còn yếu. Đặc
biệt về mặt ngôn ngữ các em còn gặp khó khăn vì trước khi đi học các em
thường dùng tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức ở
trường lại diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Như vậy, ở góc độ nhất định, sự

giao thoa ngôn ngữ gây khó khăn trong hoạt động nhận thức khi mà công cụ tư
duy bị hạn chế. Trong học tập các em không biết lật đi lật lại vấn đề, phát hiện
thắc mắc, suy nghĩ sâu sắc về vấn đề học tập. Đa số học sinh chỉ cố gắng ghi
nhớ toàn bộ lời giảng của giáo viên rồi lặp lại y nguyên, ngại đào sâu suy nghĩ,
tìm dấu hiệu bản chất của nội dung vấn đề. Trong lối sống, các em không thích
15
15
16
gò bó, thường có những thói quen chưa tốt như tác phong lề mề, chậm chạp,
thiếu ngăn nắp… ảnh hưởng tới công tác giáo dục, dạy học khi các em học ở
trường phổ thông, cũng như khi học ở các trường chuyên nghiệp.
- Đặc điểm nhu cầu
Hoạt động học tập của học sinh, nguồn gốc cơ bản là xuất phát từ một
nhu cầu - nhu cầu hiểu biết và tự hoàn thiện mình. Đối với học sinh dân tộc
nói riêng, đến trường đi học là sự thay đổi căn bản của hoạt động chủ đạo.
Lúc này, nhận thức của các em có sự chuyển biến tích cực, ý thức về mình là
học sinh, là những cán bộ tương lai của địa phương, đất nước. Vì vậy nhà
trường cần phải duy trì được nhu cầu thích học, khẳng định vị trí mới cho
người học là một trong những yêu cầu sư phạm cần thiết để giáo dục học sinh.
ý thức tập thể, kỷ luật học tập phải trở thành nếp sống mới, thói quen mới và
dần được khắc sâu trong học sinh.
Vấn đề là ở nhà trường phổ thông việc tổ chức học tập cho học sinh làm
sao cho hiệu quả, phù hợp với đặc điểm nhận thức, hứng thú của học sinh.
Tuy nhiên việc hình thành và phát triển nhu cầu cho học sinh cần gắn liền với
cải tiến nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức học tập thích hợp, để nâng
cao kết quả học tập.
- Đặc điểm giao tiếp
Trước khi đến trường, học sinh dân tộc thiểu số chịu ảnh hưởng mạnh
của giao tiếp cộng đồng. Thông qua con đường giao tiếp tự nhiên, học sinh
dân tộc trao đổi thông tin, trao đổi tình cảm trong cuộc sống bằng phương tiện

chủ yếu là tiếng mẹ đẻ. Các phương tiện giao tiếp khác hầu như hạn chế. Do
đó, lối nói, cách nghĩ, hành vi của học sinh dân tộc có những nét riêng. Trong
giao tiếp, các em thiếu mềm mỏng, bộc lộ cảm xúc rõ rệt song thiếu kỹ năng
định vị. Khi giao tiếp với người thân, với bạn là thẳng thắn, bình đẳng, lời nói
ít quan tâm đến chủ ngữ, hay nói trống không, với giáo viên ít thưa gửi. Gặp
16
16
17
người lạ các em khó tiếp xúc, ngại trao đổi, chủ yếu là tò mò quan sát. Kỹ
năng định hướng trong giao tiếp chưa được hình thành chắc chắn. Mặc dù cư
trú xen kẽ với nhiều dân tộc khác, tiếp xúc với nhiều nguồn ảnh hưởng, song
không làm biến đổi lớn về phong cách giao tiếp của học sinh dân tộc.
Trong quá trình học tập ở trường phổ thông là môi trường giao tiếp sư
phạm mới đa dạng, phong phú về các hình thức tổ chức học tập: học trên lớp,
ngoài lớp, hoạt động xã hội, trong và ngoài nhà trường, môi trường giao lưu
ngày càng mở rộng. Tuy nhiên tính tích cực giao tiếp của học sinh chưa cao,
khả năng giao tiếp và nhận thức, nhu cầu còn có mâu thuẫn.
Từ những đặc điểm này, đòi hỏi cách thức tổ chức học tập cho học sinh ở
trường phổ thông cũng như quản lý NNHT của học sinh phải đổi mới cho phù
hợp với nhu cầu đúng đắn của học sinh. Do vậy, xây dựng, tổ chức thực hiện
các biện pháp học tập đa dạng phong phú nhằm phát triển các đặc điểm tâm lý
tích cực của học sinh và khắc phục, hạn chế những tiêu cực là nhiệm vụ cần
thiết, quan trọng của giáo dục nhà trường.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến nề nếp học tập của học sinh
NNHT của học sinh cũng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như nội dung,
người học, người dạy, môi trường. Trong đó hai yếu tố ảnh hưởng chính đến
NNHT của học sinh là hai yếu tố người học và người dạy.
* Yếu tố người học: Bao gồm trong nó rất nhiều yếu tố bộ phận như
động cơ, mục đích, hứng thú học, tri thức, kỹ năng vốn sống,…
Động cơ là cái thôi thúc con người hoạt động, nó không phải là cái trừu

tượng mà được cụ thể hoá trong mục đích của hoạt động. Có rất nhiều động
cơ học như học để đạt điểm cao, học để có học bổng, học vì để báo đáp công
ơn cha mẹ, học để mở rộng kiến thức, học để lập nghiệp… Tuỳ vào động cơ
học mà học sinh sẽ chọn phương pháp, phương tiện và các điều kiện học
tương ứng. Ví dụ, nếu động cơ học để mở rộng hiểu biết, phát triển chính
mình thì việc học sẽ được thực hiện với sự tự giác, tích cực độc lập cao, học ở
17
17
18
mọi lúc, mọi nơi với mọi đối tượng, kiến thức tiếp thu được đào sâu, được
phát triển và ứng dụng phong phú.
Khi học sinh có động cơ học tập đúng đắn, các em sẽ chủ động tích cực
trong học tập, nỗ lực ý chí vượt qua khó khăn để theo đuổi việc học, từ đó
NNHT thường xuyên được duy trì thực hiện tốt.
Động cơ, mục đích học của học sinh liên quan đến việc nhận thức ý
nghĩa của việc học, môn học, bài học, liên quan đến phạm vi kiến thức và
phương pháp lĩnh hội kiến thức. Do đó hình thành động cơ học cho học sinh,
giáo viên bằng phương pháp sư phạm của mình làm cho học sinh nhận thức
được ý nghĩa của việc học, môn học, bài học đối với cuộc sống, các nhân và
nghề nghiệp tương lai của học sinh.
* Nội dung môn học
Chương trình môn học đã được lựa chọn từ khoa học tương ứng và được
sắp xếp theo logic sư phạm của từng cấp học, bậc học. Và những kiến thức đó
là đối tượng lĩnh hội của học sinh trong quá trình học tập. Nội dung môn học
chủ yếu được thể hiện trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, trong các
nguồn thông tin khác. Nội dung môn học được mở đầu ở giáo viên và kết thúc
ở học sinh.
Nội dung môn học không chỉ là hệ thống tri thức mà ẩn chứa trong nó là
cách thức hành động, cách thức tiếp cận. Nội dung môn học hàm chứa tính
mới mẻ, tính tiện ích nên bao giờ nó cũng hấp dẫn, lôi cuốn người học. Tuy

nhiên tính mới mẻ, tính tiện ích ẩn chứa bên trong người học khó mà phát hiện
ra và nhận thức được, thường phải nhờ đến khả năng, phương pháp sư phạm
của giáo viên thì mới giúp học sinh nhận thức được tính mới mẻ, tính giá trị
của tri thức, kĩ năng trong môn học. Nếu nội dung môn học gắn với thực tiễn
cuộc sống, với vốn sống của học sinh và đặc biệt được thiết kế dưới dạng tình
18
18
19
huống có vấn đề nó sẽ tác động rất lớn đến hứng thú học tập, lòng say mê tìm
tòi khám phá từ đó kích thích khả năng tự học và NNHT ở học sinh.
* Giáo viên
Giáo viên là chủ thể của hoạt động dạy, giáo viên can thiệp đến tất cả các
yếu tố khác của hoạt động dạy học, cụ thể:
- Đối với nội dung, GV lựa chọn và thiết kế nội dung trở nên hấp dẫn và
có ý nghĩa đối với học sinh, nhờ vậy mà HS hứng thú và tích cực nghiên cứu
nội dung môn học.
- Đối với học sinh, GV kích thích hứng thú, hình thành động cơ học tập
đúng đắn, tổ chức môi trường học tập tích cực, giúp đỡ và hợp tác với HS
trong quá trình tự học nhằm nâng cao NNHT cho học sinh.
- Đối với môi trường, giáo viên gợi ý, tạo điều kiện cho học sinh huy
động, khai thác và sử dụng có hiệu quả các yếu tố của môi trường.
Để thực hiện được các chức năng trên, giáo viên phải là một người có
phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề, say mê với môn dạy, có kiến thức chuyên
môn vững vàng, sử dụng hiệu quả các phương pháp dạy học trong các tình
huống dạy học ở trên lớp.
Trong các yếu tố của hoạt động dạy, phương pháp dạy học của giáo viên
có ảnh hưởng lớn đến NNHT của học sinh. Tuy nhiên muốn thực hiện đổi mới
phương pháp dạy học có hiệu quả, nhà quản lý còn phải chú trọng đến các vấn
đề khác như phương tiện kỹ thuật, cơ sở vật chất, môi trường dạy học, chương
trình đào tạo… trong đó, việc kiểm tra đánh giá của GV đối với học sinh cũng

là một yêu tố tác động rất quan trọng đến NNHT của học sinh.
* Môi trường và điều kiện học tập
Con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Tính cách con người
nói chung và người học sinh nói riêng không chỉ do ảnh hưởng của giáo dục ở
19
19
20
nhà trường phổ thông mà còn do ảnh hưởng của môi trường xã hội. Giáo dục
gia đình là hạt nhân cơ bản hình thành tính cách người học ngay từ thuở ấu
thơ. Sự giáo dục trong gia đình, tấm gương học tập của bố mẹ, anh chị, phong
trào học tập trong trường, lớp là nhân tố cơ bản định hướng cho sự phấn đấu
đi lên trong học tập, giúp các em hình thành NNHT.
Bên cạnh đó thì điều kiện cơ sở vật chất như phòng học, thư viện,
phương tiện thiết bị, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, hệ thống mạng
Internet, phục vụ cho dạy học cũng ảnh hưởng đến NNHT của học sinh.
1.2.5. Vai trò của việc thực hiện nề nếp học tập ở trường phổ thông đối với
sự phát triển nhân cách của học sinh
Như chúng ta đã biết việc giáo dục nhân cách cho học sinh là một nhu
cầu cần thiết bởi bản chất của quá trình giáo dục là tổ chức toàn bộ cuộc sống,
học tập, hoạt động của học sinh, tạo điều kiện thuận lợi tối ưu để tiềm năng
của học sinh được phát triển dưới sự giáo dục của nhà trường.
Trong thời đại mở cửa nền kinh tế hiện nay có ảnh hưởng không ít đến
việc học tập và rèn luyện nhân cách của học sinh. Ở độ tuổi này các em rất dễ
bị lôi kéo, rất dễ thể hiện cái tôi, trong khi ngoài xã hội có nhiều cám dỗ vì
vậy quan tâm đến ý thức chuyên cần của học sinh, đến việc rèn cho các em có
một nề nếp học tập tốt là một việc làm rất cần thiết nhằm giúp các em đạt kết
quả tốt trong học tập đồng thời vừa giúp các em xây dựng được nề nếp hành
vi đạo đức, rèn luyện nhân cách, hình thành nền nếp làm việc khoa học, rèn
luyện ý chí phấn đấu, đức kiên trì, óc phê phán và hứng thú học tập.
Như trên đã nói nề nếp lớp học là những chuẩn mực để học sinh phải

thực hiện tốt. Thực tế trong quá trình giảng dạy cho thấy vai trò của nề nếp
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy và giáo dục cho học sinh, trong
một tiết học
cho dù giáo viên có nắm vững kiến thức, phương pháp truyền thụ
20
20
21
tinh giảm khoa học, hấp dẫn đến chừng nào mà lớp học không có nề nếp thì
tất yếu sự lĩnh hội kiến thức sẽ thấp và chắc chắn là không có chất lượng cao,
trong một trường học cũng vậy nếu học sinh không có nề nếp học tập tốt thì
chất lượng dạy và học của nhà trường sẽ khó nâng cao được .
1.3. Những vấn đề lý luận về quản lý nề nếp học tập của học sinh
1.3.1. Một số khái niệm cơ bản về quản lý và bản chất quản lý
1.3.1.1. Khái niệm quản lý
Ngay từ buổi bình minh của lịch sử nhân loại, con người đã sớm biết quy
tụ nhau thành bầy, nhóm để tồn tại và phát triển. Sự cộng đồng sinh tồn này
dẫn đến sự hình thành các tổ chức với nội dung liên kết con người cùng hoạt
động theo một định hướng với những mục tiêu xác định. Quá trình tạo ra của cải
vật chất, tinh thần cũng như đảm bảo cuộc sống an toàn cho cộng đồng xã hội
ngày càng được thực hiện trên quy mô lớn hơn, với tính phức tạp ngày càng cao
hơn, đòi hỏi phải có sự phân công và hợp tác để liên kết những con người trong
tổ chức.
Chính sự phân công chuyên môn hoá và hợp tác lao động đã làm xuất hiện
một dạng lao động đặc biệt - lao động quản lý. C.Mác đã chỉ rõ: “Bất cứ một lao
động xã hội nào mà tiến hành trên quy mô khá lớn đều yêu cầu phải có một sự
chỉ đạo để điều hoà các hoạt động cá nhân… Một nghệ sĩ độc tấu tự điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” [3; tr 28 - 30].
Như vậy, quản lý là một tất yếu khách quan của mọi quá trình lao động
xã hội, bất kể hình thái kinh tế - xã hội nào nếu không thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ quản lý, không thể thực hiện được các quá trình hợp tác lao

động, sản xuất, không thể khai thác, sử dụng có hiệu quả các yếu tố lao động
sản xuất.
Khái niệm quản lý được nhiều tác giả đưa ra theo nhiều cách tiếp cận
khác nhau, chẳng hạn:
21
21
22
- Theo “Từ điển tiếng việt”: “Quản lý là tổ chức và điều hành các hoạt
động theo những yêu cầu nhất định” [28; tr 789].
- Theo Aunpu F.F: “Quản lý là một khoa học và là một nghệ thuật tác
động vào một hệ thống xã hội, chủ yếu là quản lý con người nhằm đạt được
mục tiêu xác định. Hệ thống đó vừa động, vừa ổn định bao gồm nhiều thành
phần có tác động qua lại lẫn nhau” [1; tr75].
- Thomas, J. Robbins - Wayned Morison cho rằng: “Quản lý là một nghề
nhưng cũng là một nghệ thuật, một khoa học” [23; tr19].
Ở nước ta, có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý:
- Theo tác giả Nguyễn Văn bình thì: “Quản lý là một nghệ thuật đạt
được mục tiêu đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ
huy hoạt động của những người khác” [5; tr 176].
- Theo tác giả Đỗ Hoàng Toàn: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có
định hướng của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống để đạt được mục tiêu đặt ra trong
điều kiện biến chuyển của môi trường” [24; tr 43].
- GS Mai Hữu Khuê quan niệm: “Quản lý là sự tác động có mục đích tới
tập thể những người lao động nhằm đạt được những kết quả nhất định và
mục đích đã định trước” [15; tr 19,20].
- GS Đặng Vũ Hoạt và GS Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là một quá
trình có định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống là quá
trình tác động đến hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những
mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý

mong muốn” [13; tr17]
- Theo GS Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có
kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động (khách thể
quản lý) nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến” [21; tr 24].
22
22
23
Các định nghĩa trên tuy nhấn mạnh một số khía cạnh của quản lý. Tuy
nhiên điểm chung thống nhất đều coi quản lý là hoạt động có tổ chức, có mục
đích nhằm đạt tới mục tiêu xác định. Trong quản lý bao giờ cũng có chủ thể
quản lý, khách thể quản lý quan hệ với nhau bằng những tác động quản lý.
Nói một cách tổng quát nhất, có thể xem quản lý là: Một qua trình tác
động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt
được mục tiêu chung.
1.3.1.2. Bản chất của quản lý
- Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý nhằm thực hiện mục tiêu quản
lý. Trong giáo dục đó là tác động của nhà quản lý giáo dục đến tập thể giáo
viên, học sinh và các lực lượng khác trong xã hội nhằm thực hiện các hệ
thống các mục tiêu giáo dục. vậy bản chất của quản lý là sự phối hợp các nỗ
lực của con người thông qua thông qua các chức năng quản lý đó là: Lập kế
hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Các chức năng cơ bản của quá trình quản lý có quan hệ mật thiết với
nhau và diễn ra có tính chu kỳ trong khoảng thời gian nhất định, không gian
xác định. Thời gian để thực hiện trọn vẹn một lần chức năng trên, đưa hệ
thống vận hành đến mục tiêu gọi là chu trình quản lý.
Hệ thống thông tin có vai trò đặc biệt quan trọng, là sức mạnh của công
tác quản lý. Thông tin là mạch máu lưu thông tin tức giữa các bộ phận đảm
bảo cho toàn bộ hệ thống hoạt động, đảm bảo sự thống nhất trong quản lý.
Quá trình quản lý phụ thuộc chặt chẽ vào các thông tin. Vai trò của thông tin

trong quản lý rất quan trọng: Là cơ sở, chất liệu hình thành các quyết định
quản lý. Chất lượng hiệu quả của quyết định quản lý phụ thuộc vào tính đầy
đủ, chính xác, kịp thời của thông tin.
23
23
24
Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý và hệ thống thông tin được biểu
diễn thành sơ đồ sau:

Sơ đồ 1: Các chức năng quản lý và thông tin trong quản lý
Như vậy, đối với mỗi hệ thống hoạt động quản lý có thể phân chia
thành 4 nội dung lớn: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch,
kiểm tra đánh giá các hoạt động và thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Trong
những điều kiện cần thiết có thể điều chỉnh lại kế hoạch, điều chỉnh lại mục
tiêu, điều chỉnh lại các hoạt động cụ thể hoặc có thể điều chỉnh động thời hai
hoặc ba nhân tố cho phù hợp.
1.3.2. Quản lý giáo dục
1.3.2.1. Khái niệm về quản lý giáo dục
Ở nước ta các nhà nghiên cứu lý luận cho rằng: Quản lý giáo dục (QLGD)
là sự tác động có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý nhằm đưa hoạt động
sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn một cách có hiệu
quả nhất. Quản lý giáo dục còn được hiểu là một chuỗi tác động hợp lý, có
mục đích, có hệ thống, có kế hoạch, mang tính sư phạm của chủ thể quản lý
đến tập thể giáo viên và học sinh, đến những lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào
24
Lập kế hoạch
Thông tin Tổ chức Kiểm tra
Chỉ đạo
24

25
mọi hoạt động của nhà trường, làm cho quá trình này vận hành một cách tối
ưu tới việc hoàn thành các mục tiêu dự kiến” [tr 11].
- Theo Đặng Quốc Bảo: QLGD hiểu theo nghĩa tổng quát là: “Hoạt động
điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế
hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội” [2; tr 1].
- Theo Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường, QLGD nói chung là thực hiện
đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà
trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu
đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh”. [12, tr 34].
- Theo Nguyễn Ngọc Quang: “QLGD thực chất là tác động một cách
khoa học đến nhà trường, nhằm tổ chức tối ưu các quá trình dạy học, giáo dục
thể chất, theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, tiến tới mục tiêu dự
kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới” [21; tr 93].
Khái niệm “quản lý giáo dục” được hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau nhưng
có hai cấp độ chủ yếu trong quản lý giáo dục thường thấy là : cấp vĩ mô và cấp
vi mô.
Đối với cấp vĩ mô:
- Quản lý giáo dục là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt
xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục là nhà trường)
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào
tạo thế trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục.
- Quản lý giáo dục là sự tác động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý, lên hệ thống giáo dục nhằm tạo ra tính trồi của hệ thống; sử
dụng một cách tối ưu các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống nhằm đưa hệ
thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong điều kiện đảm bảo sự cân bằng
với môi trường bên ngoài luôn biến động.
25
25

×