Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.68 KB, 15 trang )

TRUNG QUỐC
mục lục
Câu 1: Tinh thần AQ?..................................................................1
Câu 2: Xã hội trung quốc qua AQ chính truyện?.........................4
Câu 3: Thuốc- Lỗ Tấn?................................................................8

Câu 1: Tinh thần AQ?
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, sinh ra trong
một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết Giang. Lỗ Tấn càng ngày
càng khơn lớn, thì triều đình Mãn Thanh càng ngày càng suy yếu
và hủ bại, Trung Quốc dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa.
Từ nhỏ Lỗ Tấn đã say mê nghệ thuật dân gian qua những câu
chuyện kể của mẹ. Bút danh của ông – Lỗ Tấn – được ghép lại từ
họ Lỗ của mẹ (bà tên là Lỗ Thụy), và Tấn trong nghĩa nhanh nhẹn
khẩn trương, vì thuở nhỏ thường hay đi học muộn, ông đã tự tay
cầm dao thích chữ Tấn trên mặt bàn học để đốc thúc bản thân.
Trưởng thành, ông lựa chọn con đường văn chương để cống
hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của lực lượng tiến bộ.
Một cách nhất quán, Lỗ Tấn hồn tồn khơng nhận mình là
nhà tiểu thuyết. Với ông, tiểu thuyết chỉ là một vũ khí sắc bén có
thể lợi dụng để thực hiện mục đích cải tạo xã hội mà thôi. Trong
“Tân dân chủ chủ nghĩa luận”, vị lãnh tụ vĩ đại của Trung Quốc –
Mao Trạch Đông viết rằng:
“Lỗ Tấn là chủ tướng của cuộc cách mạng văn hóa Trung
Quốc. Ơng khơng chỉ là một nhà văn, mà còn là một nhà tư tưởng
vĩ đại, nhà cách mạng vĩ đại… Phương hướng của Lỗ Tấn là
phương hướng của nền văn hóa mới của dân tộc Trung Hoa.”
1


Không chỉ là đại văn hào của Trung Quốc, Lỗ Tấn kết đọng


tinh hoa văn hóa nhân loại của thế kỉ XX.
Truyện là cuộc phiêu lưu đắc thắng của AQ, một gã đàn ông
thuộc tầng lớp bần nông, thất học.
Sơ yếu lý lịch của AQ có thể tóm gọn bằng một con số khơng
trịn trĩnh: khơng họ, khơng tên (AQ là tên ước định mà tác giả
gán cho), không ngày tháng năm sinh, không quê quán, không học
vấn, không nghề nghiệp.
Lỗ Tấn từng viết: “Theo ý tôi, AQ trạc 30 tuổi, hình dáng
bình thường, có cái chất phác đần độn kiểu nơng dân, nhưng cũng
có tiêm nhiễm ít nhiều cái xỏ lá của bọn du thủ, du thực ở Thượng
Hải, có thể tìm thấy bóng dáng y ở những người kéo xe tay, xe
xích lơ, tuy thế AQ khơng có bộ dạng lưu manh, cũng không
giống như bọn du lãng lang thang ngoài hè phố.”
Với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” – thảo vài nét sơ lược giàu
tính biểu trưng, khi miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ viết về
chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo.
AQ nổi tiếng vì phương pháp thắng lợi tinh thần. Nếu gã bị
đánh, gã lại nghĩ “Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó!” rồi
lại hớn hở đắc thắng. AQ hay bắt nạt kẻ kém may mắn hơn mình
và sợ hãi trước kẻ hơn mình về địa vị, quyền lực, sức mạnh. Gã tự
thuyết phục bản thân rằng mình sức nhịn nhục bậc nhất, trạng
nguyên cũng chỉ người bậc nhất mà thơi, rồi lấy đó làm lẽ để đắc
ý.
Cách mạng đến mà kẻ sợ, người hoang mang, duy chỉ có AQ
là phấn khởi. AQ cho rằng cách mạng là cướp của nhà giàu làm lợi
cho mình, là “làm giặc”. Chính vì hiểu sai hai từ “cách mạng” mà
gã đã nhận một kết cục bi thảm.

2



“AQ chính truyện” phê phán thứ cách mạng khơng đúng chất
cách mạng. Đây là bóng dáng của cách mạng Tân Hợi 1911 – cuộc
cách mạng không triệt để.
Lỗ Tấn đả kích cách mạng nửa vời và những tư tưởng bảo
thủ của người dân Trung Quốc, ông mang một tư tưởng cách mạng
dân chủ mới và muốn thức tỉnh người nông dân về tư tưởng cách
mạng thật sự.
Tinh thần AQ bất diệt!
Tinh thần AQ bất diệt! – là câu nói cửa miệng của thế hệ ông
cha ta khi dạy dỗ con cháu trong nhà, rằng: “Phải luôn luôn cố
gắng, chứ không được AQ!”. Hay là trong lá thư điện tử mà
blogger Song Hà gửi Đoàn Văn Hậu sau khi U22 Việt Nam đoạt
chức vô địch SEA Games 30, khi nhắc về lứa cầu thủ cha chú, anh
có câu nhắn nhủ chàng cầu thủ trẻ: “Chúng ta nên sòng phẳng và
biết cách chấp nhận thất bại hơn là loay hoay tìm kiếm mỹ từ để
xoa dịu nó với một tinh thần AQ bất diệt.”
Bấy nhiêu thôi cũng đủ để thấy độ phổ biến rộng rãi của “AQ
chính truyện”, nhân vật AQ đã đi vào đời sống như một biểu
tượng của kẻ luôn tự huyễn hoặc mình và sống trong ảo tưởng
bằng phép thắng lợi tinh thần.
Phương pháp thắng lợi tinh thần là một sự tự an ủi, tự thuyết
phục, tự thôi miên để giúp bản thân dễ dàng chấp nhận, bỏ qua cái
thất bại để có thể mỉm cười sống tiếp.
Trên con người AQ tập trung cao độ tinh thần tự huyễn hoặc
đó nên rất nhiều người đã dùng những cụm từ tinh thần AQ, chủ
nghĩa AQ… để gọi tên thay cho phép thắng lợi tinh thần. Từ đời
sống AQ bước vào văn chương, rồi từ văn chương AQ đã bước ra
đời sống như vậy.
Trong tác phẩm, Lỗ Tấn đã phóng đại cái sự tự an ủi bản thân

đó lên mức mù quáng. Phương pháp của AQ là một dạng lạc quan
3


đến cực đoan. Lạc quan là tốt, nhưng cực đoan thì chẳng tốt chút
nào. Bởi sau cái mỉm cười sống tiếp đó của AQ, gã ta khơng cố
gắng, khơng tự thay đổi bản thân. Nói cách khác, đó là trạng thái
tâm lý của kẻ thất bại song không chịu thừa nhận thất bại, hơn thế
cịn tìm cách trốn tránh vào ảo giác thắng lợi.
“AQ chính truyện” được viết cách đây gần một thế kỷ, nhưng
những giá trị cốt lõi của nó vẫn cịn, và bài học vẫn nóng hơi hổi
đối với giới trẻ hiện nay: Hãy tỉnh táo mà sống! Thất bại là mẹ
thành công, nhưng sau thất bại mà khơng cố gắng, khơng tìm đúng
trong sai, khơng rút ra bài học, khơng tự thay đổi mình… thì con
của thất bại cũng chỉ là thất bại mà thôi!
Câu 2: Xã hội trung quốc qua AQ chính truyện?
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, sinh ra trong
một gia đình quan lại sa sút ở tỉnh Chiết Giang. Lỗ Tấn càng ngày
càng khơn lớn, thì triều đình Mãn Thanh càng ngày càng suy yếu
và hủ bại, Trung Quốc dần dần trở thành một nước nửa thuộc địa.
Từ nhỏ Lỗ Tấn đã say mê nghệ thuật dân gian qua những câu
chuyện kể của mẹ. Bút danh của ông – Lỗ Tấn – được ghép lại từ
họ Lỗ của mẹ (bà tên là Lỗ Thụy), và Tấn trong nghĩa nhanh nhẹn
khẩn trương, vì thuở nhỏ thường hay đi học muộn, ông đã tự tay
cầm dao thích chữ Tấn trên mặt bàn học để đốc thúc bản thân.
Trưởng thành, ông lựa chọn con đường văn chương để cống
hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng của lực lượng tiến bộ.
Một cách nhất qn, Lỗ Tấn hồn tồn khơng nhận mình là
nhà tiểu thuyết. Với ông, tiểu thuyết chỉ là một vũ khí sắc bén có
thể lợi dụng để thực hiện mục đích cải tạo xã hội mà thơi. Trong

“Tân dân chủ chủ nghĩa luận”, vị lãnh tụ vĩ đại của Trung Quốc –
Mao Trạch Đông viết rằng:
“Lỗ Tấn là chủ tướng của cuộc cách mạng văn hóa Trung
Quốc. Ơng khơng chỉ là một nhà văn, mà còn là một nhà tư tưởng
4


vĩ đại, nhà cách mạng vĩ đại… Phương hướng của Lỗ Tấn là
phương hướng của nền văn hóa mới của dân tộc Trung Hoa.”
Không chỉ là đại văn hào của Trung Quốc, Lỗ Tấn kết đọng
tinh hoa văn hóa nhân loại của thế kỉ XX.
Truyện là cuộc phiêu lưu đắc thắng của AQ, một gã đàn ông
thuộc tầng lớp bần nơng, thất học.
Sơ yếu lý lịch của AQ có thể tóm gọn bằng một con số khơng
trịn trĩnh: khơng họ, không tên (AQ là tên ước định mà tác giả
gán cho), không ngày tháng năm sinh, không quê quán, không học
vấn, không nghề nghiệp.
Lỗ Tấn từng viết: “Theo ý tôi, AQ trạc 30 tuổi, hình dáng
bình thường, có cái chất phác đần độn kiểu nơng dân, nhưng cũng
có tiêm nhiễm ít nhiều cái xỏ lá của bọn du thủ, du thực ở Thượng
Hải, có thể tìm thấy bóng dáng y ở những người kéo xe tay, xe
xích lơ, tuy thế AQ khơng có bộ dạng lưu manh, cũng khơng
giống như bọn du lãng lang thang ngoài hè phố.”
Với bút pháp “vẽ rồng điểm mắt” – thảo vài nét sơ lược giàu
tính biểu trưng, khi miêu tả ngoại hình AQ, Lỗ Tấn chỉ viết về
chiếc đuôi sam và đặc biệt là cái sẹo.
AQ nổi tiếng vì phương pháp thắng lợi tinh thần. Nếu gã bị
đánh, gã lại nghĩ “Nó đánh mình thì khác gì nó đánh bố nó!” rồi
lại hớn hở đắc thắng. AQ hay bắt nạt kẻ kém may mắn hơn mình
và sợ hãi trước kẻ hơn mình về địa vị, quyền lực, sức mạnh. Gã tự

thuyết phục bản thân rằng mình sức nhịn nhục bậc nhất, trạng
nguyên cũng chỉ người bậc nhất mà thơi, rồi lấy đó làm lẽ để đắc
ý.
Cách mạng đến mà kẻ sợ, người hoang mang, duy chỉ có AQ
là phấn khởi. AQ cho rằng cách mạng là cướp của nhà giàu làm lợi
cho mình, là “làm giặc”. Chính vì hiểu sai hai từ “cách mạng” mà
gã đã nhận một kết cục bi thảm.
5


“AQ chính truyện” phê phán thứ cách mạng khơng đúng chất
cách mạng. Đây là bóng dáng của cách mạng Tân Hợi 1911 – cuộc
cách mạng không triệt để.
Lỗ Tấn đả kích cách mạng nửa vời và những tư tưởng bảo
thủ của người dân Trung Quốc, ông mang một tư tưởng cách mạng
dân chủ mới và muốn thức tỉnh người nông dân về tư tưởng cách
mạng thật sự.
Bản chất tư tưởng của con người và xã hội Trung Quốc trong
“AQ chính truyện”.
“AQ chính truyện” thuộc dạng truyện vừa, dung lượng của
nó không quá dài so với những danh tác trên thế giới, nhưng
những gì nó mang là cả một nền văn hóa Trung Hoa đang bị mắc
kẹt trong xã hội phong kiến nửa thuộc địa: chính quyền mị dân,
hiếp yếu sợ mạnh, thủ dâm tinh thần, hủ lậu và khinh thị cái mới.
Nhưng những căn bệnh thời đại ấy, đâu đó vẫn còn tồn tại trong xã
hội Trung Quốc ngày nay.
Thứ nhất, chính quyền mị dân.
Ở nơng thơn Trung Quốc, bọn địa chủ như Cố Triệu, Cố Tiền,
cụ Cử trở thành một thế lực có sức mạnh đáng sợ.
AQ ăn một cái tát từ Cố Triệu vì dám nhận họ hàng với nhà

lão. Thế là dân làng nể AQ, không quan trọng là có họ hàng hay bị
đánh, chỉ cần dính dáng đến nhân vật “xù” như Cố Triệu đã là
đáng nể. Rồi AQ bị nhà Cố Triệu cấm cửa, khắp làng liền tẩy chay
gã.
Sự áp bức và sức ảnh hưởng bao trùm của bọn địa chủ lớn tới
độ người dân làng Mùi chỉ biết mê muội phụ họa cho giai cấp
thống trị này.
6


Lỗ Tấn muốn đả kích căn bệnh bạc nhược cố hữu – “ngủ say
trong một chiếc hộp sắt” của người nông dân Trung Quốc. Căn
bệnh u mê này, cho đến nay vẫn còn bám rễ trong mỗi người dân
Trung Quốc, họ bị chính quyền mị dân một cách trắng trợn. Theo
những thông tin thu thập trong cộng đồng mạng bên Trung, thì họ
được dạy và tin chắc rằng tồn bộ biển Đơng bao gồm cả Hồng
Sa và Trường Sa là của người Trung Quốc, và người Việt Nam
đang lấn chiếm của họ!?
Thứ hai, hiếp yếu sợ mạnh.
AQ thích bắt nạt kẻ yếu và luôn run sợ trước kẻ mạnh, kẻ
giàu. AQ thích gây sự với mọi người nhưng bao giờ cũng là kẻ
thua trước, vì vốn dĩ gã là kẻ yếu.
Đây cũng là căn bệnh tư tưởng mà Lỗ Tấn muốn đả kích.
Đặt góc nhìn quay về hiện tại, Trung Quốc cũng na ná một
AQ đang lên, ra sức bắt nạt các nước yếu và e sợ với các cường
quốc. Cụ thể, trong một báo cáo dài 71 trang vào tháng 9/2018,
Bắc Kinh nhấn mạnh nền kinh tế của quốc gia này “rất kiên
cường” và không sợ một cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ, thế
nhưng theo CNBC, quyết định của Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc (PBOC) về việc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc là dấu hiệu

cho thấy các nhà chức trách của nền kinh tế thứ hai thế giới đang
lo lắng về cuộc chiến thương mại kéo dài với Mỹ.
Thứ ba, thủ dâm tinh thần.
Phép thắng lợi tinh thần của AQ là một tên gọi chanh sả cho
căn bệnh thủ dâm tinh thần.
Người dân Trung Hoa lúc nào cũng tự hào về văn hiến, văn
hóa của dân tộc, và khơng ít người cho rằng đất nước họ là cái rốn
của vũ trụ, các dân tộc khác chỉ là man di mọi rợ. Với bề dày văn
hiến lâu đời, họ có quyền tự hào, nhưng song song với lòng tự hào
7


khơng có nghĩa là họ có quyền đạp dân tộc khác xuống để nâng
dân tộc mình lên, để đạt được khối cảm trong q trình đó.
Tư tưởng đó ngày nay vẫn còn trong đa số người Hoa, ngay
cả trong giới trẻ. Có một bài viết trên mạng xã hội vào tháng
3/2019, Hua Qianfang, một blogger người Trung Quốc cho rằng:
“Những người ủng hộ việc học tiếng Anh chỉ là những người
trong ngành và những kẻ mang tư tưởng nô lệ nhược tiểu.” (theo
Lost Bird)
Thứ tư, hủ lậu và khinh thị cái mới.
AQ thường chê bai người khác vì khơng hợp với những
chuẩn mực cố hữu của gã. Ở làng Mùi gọi cái ghế dài ba thước
rộng ba tấc là cái ghế dài, còn ở huyện họ gọi là tràng kỷ, AQ
phản đối: “Gọi thế là sai! Là đáng cười!”. Hay chuyện rán cá, y
cũng đem cái chuẩn rán cá ở làng Mùi ra để chê bai cách rán cá
của người trên huyện: “Thế là sai! Là đáng cười!”.
AQ hội tụ rất nhiều những căn bệnh tư tưởng của chế độ
phong kiến Trung Quốc: mạnh mồm, khinh thị cái mới, cổ hủ, lạc
hậu, coi thường phụ nữ.

U mê trong phong tục tập qn của mình, lấy văn hóa, truyền
thống cố hủ của mình ra để chê bai, khinh thị dân tộc khác là một
đặc trưng rất Trung Quốc.
Câu 3: Thuốc- Lỗ Tấn?
Vào những năm đầu của thế kỷ XX, Trung Quốc dưới ách
thống trị ngột ngạt, tù túng của triều đại Mãn Thanh, cùng với sự
can thiệp thô bạo, sự giằng xé gay gắt của các nước đế quốc, đất
nước và người dân Trung Hoa rơi vào cảnh khủng hoảng, suy
thoái hết sức trầm trọng. Bầu trời chính trị tối tăm, u ám, rối ren
đã gieo rắc những nỗi bất an, lo sợ vào tâm trí của mỗi người dân
khi ấy, khiến họ chìm sâu vào u mê, ngu muội, lạc hậu, họ “ngủ
quên trong một cái nhà hộp bằng sắt khơng có cửa sổ”. Trong tình
8


cảnh đó, nhà văn Lỗ Tấn – một nhà văn lỗi lạc của văn học Trung
Hoa đã viết lên tác phẩm “Thuốc”, truyện ngắn là một bức tranh
hiện thực đầy chân thực về số phận của những người cách mạng
và vạch trần “căn bệnh tinh thần” của quần chúng, nhân dân.
Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc được sinh ra ở tỉnh Chiết
Giang, Trung Quốc. Thuở nhỏ, ông đã chứng kiến cảnh người cha
lâm bệnh, vì khơng có thuốc mà chết, vì vậy lớn lên ơng ơm ước
mơ trở thành thầy thuốc. Khi trưởng thành ông bắt đầu theo con
đường lương y, nhưng trong một lần xem một bộ phim về người
Nhật đang đưa một người Trung Quốc ra xử trảm trước sự chứng
kiến của những con người Trung Quốc khỏe mạnh, ông đã đột
ngột rẽ hướng chuyển sang làm một nhà văn bởi ông cho rằng
“chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần”.
Trong các sáng tác của mình ơng khơng ngại phanh phui thẳng
thắn những thói hư, tật xấu, những ngu dốt mê muội của quần

chúng, để tìm ra “phương thuốc chạy chữa” căn bệnh đó, để tự
mình vươn lên, để làm nên một dân tộc tự do, tự lực, tự cường.
Trong toàn bộ những sáng tác của mình, ngịi bút của Lỗ Tấn
thường tập trung khai phá những căn bệnh tinh thần khiến cho
quần chúng nhân dân mê muội, tự thỏa mãn và dần tha hóa biến
chất, ngịi bút sắc sảo cùng với thái độ tự phê phán nghiêm khắc
của mình nhà văn đã tạo lên những tác phẩm có ý nghĩa lớn lao
với những giá trị nhân văn sâu sắc. Truyện ngắn “Thuốc” được
viết vào năm 1919 đúng vào thời điểm phong trào chống đế quốc
phong kiến, đòi tự do dân chủ của học sinh, sinh viên Bắc Kinh
diễn ra bùng nổ. Truyện nói về căn bệnh “đớn hèn” của quần
chúng và lối đi sai lầm của những người cách mạng. Tác phẩm
như hồi chuông cảnh tỉnh rằng: “Người Trung Quốc cần suy nghĩ
nghiêm túc về một phương thuốc để cứu lấy dân tộc”.
Chưa cần đọc tác phẩm, Lỗ Tấn đã làm cho người đọc phải
ấn tượng với tên của nhan đề: “Thuốc” – một cái tên hết sức ngắn
9


gọn và súc tích. Nhan đề “Thuốc” của tác phẩm khơng chỉ dừng
lại ở nghĩa tường minh đó mà nó còn mang nghĩa biểu tượng, ẩn
chứa những ý nghĩa sâu sắc mà tác giả khéo léo gửi gắm vào đó.
“Thuốc” còn là phương thuốc dùng để chữa căn bệnh tinh thần:
Căn bệnh gia trưởng, căn bệnh mê tín, lạc hậu, ngu dốt về mặt
khoa học của người dân Trung Quốc. Vợ chồng lão Hoa vì thiếu
hiểu biết và gia trưởng nên đã tự mình áp đặt cho đứa con trai của
mình một phương thuốc thật kinh dị, quái gở là “chiếc bánh bao
tẩm máu người”. Khi cái chết đang trực chờ, họ lại đặt cược mạng
sống của con mình vào một chiếc bánh bao nhuốm máu, vơ tình
đẩy con mình vào ngõ cụt. Có lẽ thằng Thuyên – con trai của họ

đã sống sót nếu như được chữa trị đúng cách bởi vì lao là một căn
bệnh khơng q nguy hiểm và hồn tồn có thể chữa khỏi. Điều
đáng buồn là không chỉ vợ chồng lão Hoa mà tất cả mọi người
trong quán trà đều tin tưởng vào điều vô cùng phi lý ấy. Bánh bao
tẩm máu người kia không những không phải thần dược như những
kẻ ngu muội kia đang đặt hy vọng, mà nó cịn thứ thuốc “độc” giết
chết đi một mạng người, giết chết đi tư tưởng của cả một xã hội.
Đất nước Trung Hoa đang rơi vào cảnh nguy khó hơn bao giờ
hết, điều đó bắt nguồn ngay từ trong chính quần chúng nhân dân,
họ đang mắc phải một căn bệnh tưởng chừng như vô phương cứu
chữa, đó là căn bệnh “u mê, lạc hậu về chính trị”. Người dân nơ
nức dẫn nhau đi xem một chiến sĩ cách mạng bị xử tử hình, họ cịn
cho rằng đó là giặc, là kẻ điên và sẵn sàng mua máu của anh về
làm thuốc. Người anh hùng dám xả thân vào sự nghiệp bảo vệ đất
nước, anh sẵn sàng hy sinh chẳng tiếc đời mình để cho người dân
được hưởng tự do, độc lập. Ấy vậy mà khi anh nằm xuống, những
con người ngu muội kia chẳng những khơng xót thương, đau lịng
mà họ cịn miệt thị, khinh bỉ, coi cái chết của anh là đáng đời.
Lỗ Tấn đã chỉ ra căn bệnh của quần chúng nhân dân và đi sai
lầm của người làm cách mạng, họ đã xa rời nhân dân, không lấy
10


nhân dân làm gốc, cũng chính bởi lẽ đó đã làm cho đất nước ngày
càng lún sâu vào bế tắc, người dân thì ngày càng u mê trong lối
suy nghĩ tầm thường, lạc hậu. Có thể nói chỉ với nhan đề của tác
phẩm mà tác giả đã gói trọn hết hiện thực xã hội Trung Hoa lúc
bấy giờ, đó cũng là chủ đề tư tưởng bao trùm cả tác phẩm, nói lên
nỗi trăn trở, xót xa của tác giả trước tình cảnh đất nước đang lâm
nguy: Nhân dân khơng gắn bó với cách mạng, cịn những người

cách mạng thì “bơn ba trong chốn quạnh hiu”.
Mở đầu tác phẩm, Lỗ Tấn đã dẫn dắt người đọc đến với câu
chuyện vào “một đêm mùa thu” khi trời mới nhá nhem sáng,
ngoài đường tối om, khung cảnh lúc này thật vắng lặng, ảm đạm
khơng có lấy một bóng người “ngồi những giống đi ăn đêm, cịn
thì ngủ cả”. Lão Hoa đã dậy từ rất sớm, rời khỏi nhà từ lúc mặt
trời còn chưa mọc để đến pháp trường với hy vọng tìm được thứ
thuốc “thần” để cứu đứa con lão từ cõi chết trở về. Lão bước đi
đều đều trên con đường lạnh lẽo tối om, lịng sảng khối lạ lùng,
lão cảm thấy mình như trẻ lại. Chẳng phải tự nhiên mà lão Hoa lại
vui mừng, phấn khởi đến thế, bởi lão nghĩ tới thằng Thuyên – con
trai lão ở nhà sắp được cứu sống, đó là đứa con trai duy nhất
“mười đời độc đinh” đang mắc phải căn bệnh ho lao. Tới pháp
trường, khi được tận mắt trông thấy thứ thuốc mà ông cho là “thần
dược” ấy lão lại thấy sợ hãi khơng dám đưa tay ra cầm lấy, thần
dược kia chính là “chiếc bánh bao nhuốm máu đỏ tươi” của người
vừa bị xử tử.
Thật đáng sợ biết bao, một chiếc bánh nhuốm máu của người
chết chém làm sao lại có thể trở thành thuốc chữa bệnh? Một
người chiến sĩ cách mạng bị xử tử, chẳng một ai xót thương, họ
cịn nhẫn tâm dùng máu của anh để bán chác, họ coi anh như kẻ
tội đồ nên mới dửng dưng trước cái chết đầy oan ức của người làm
cách mạng – Hạ Du. Lão Hoa cầm và nâng niu gói bánh như “đứa
con của gia đình”, để cả tinh thần mình vào đó, lúc này tai lão
11


chẳng nghe được gì nữa, chỉ nghe thấy duy nhất tiếng đứa con trai
đang chờ lão quay về. Cái bánh bao loang lổ máu đỏ được bà Hoa
gói vào trong một lá sen và đem đi nướng trong bếp lửa thành một

thứ “tròn tròn, đen đen”, họ vẫn một mực tin tưởng vào sự thần kỳ
của vị thuốc thần quái dị kia mà nói “Ăn đi con! Sẽ khỏi ngay”.
Họ tin tưởng khơng một chút hồi nghi, chỉ cần ngủ một giấc dậy
đứa con họ sẽ lại khoẻ mạnh như xưa. Tình yêu sâu sắc đối với
đứa con duy nhất này đã làm cho đôi vợ chồng già trở nên mù
quáng, mê muội, họ vừa đáng thương cũng vừa đáng trách. Mà
cũng chẳng riêng gì vợ chồng lão Hoa, tất cả mọi người đều tin
vào vị thuốc phản khoa học ấy, bác Cả Khang còn khẳng định
chắc nịch “cam đoan thế nào cũng khỏi”, những vị khách trong
quán trà cũng phụ hoạ theo “thứ thuốc này đặc biệt lắm”, “nhất
định sẽ khỏi thơi mà”,… Những lời nói đó của mọi người lại càng
gieo thêm sự tin tưởng cho gia đình người chủ qn, khơng ai bàn
tán gì thêm về vấn đề này bởi họ nghĩ thằng Thuyên chắc chắn sẽ
khỏi bệnh không thể nào khác đi được. Dù đã ăn chiếc bánh bao
kia, nhưng cuối cùng Thuyên cũng chết, cái chết đầy xót xa, đáng
thương bởi nó đã giao hết sự sống của mình cho cha mẹ định đoạt,
nó chẳng hay hề biết được rằng chính “chiếc bánh bao tẩm máu
người” kia đã gián tiếp cướp đi mạng sống của nó. Nhà văn Lỗ
Tấn đã vạch trần hiện thực trần trụi của đất nước Trung Quốc dưới
sự thống trị nhà Thanh đã đẩy người dân vào cuộc sống bế tắc,
cùng cực, chìm sâu vào những u mê, lạc hậu, ngu muội. Bệnh tật
phải được chữa bằng một phương thuốc đặc hiệu, đúng đắn chứ
không thể chữa được bằng phương pháp mê tín, dị đoan.
Khơng cần dùng q nhiều câu văn để miêu tả, Lỗ Tấn đã
khéo léo lồng ghép, đan xen vào cuộc nói chuyện của những vị
khách trong quán trà, người tử tù cũng chính là một người chiến sĩ
cách mạng anh dũng tên Hạ Du. Anh là một trong số những người
dân sớm giác ngộ tư tưởng cách mạng, anh chọn cho mình lối đi
hướng tới cách mạng, dám xả thân, hy sinh thân mình cho đất
12



nước, cho dân tộc. Thế nhưng trong mắt quần chúng nhân dân anh
lại chỉ là: “nhãi con”, “thằng quỷ sứ”, “khốn nạn”, “điên”… Ngay
cả người chú ruột cũng không nghĩ tới tình thân mà đứng ra tố cáo
cháu mình để đổi lấy hai mươi lạng bạc, bọn họ còn tiếc cái áo
hơn cả mạng sống con người, thậm chí lúc anh nằm xuống nơi
pháp trường thì máu của anh cũng dùng để làm thứ trao đổi mua
bán. Tình cảnh bi hài, trớ trêu làm sao, khi người chiến sĩ cách
mạng bị gọi là giặc trong chính đất nước mà anh ra sức bảo vệ.
Tình cảnh xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ như một kẻ bệnh tật
đang đứng bên bờ cõi của cái chết, cần một liều thuốc đặc trị mới
có thể thốt khỏi nạn vong quốc. Hình tượng người tử tù, chiến sĩ
Hạ Du đã lên án, tố cáo gay gắt tình trạng suy thối của đất nước
trước sự u mê, ngu muội của quần chúng về chính trị và sự xa lánh
thoát ly ra khỏi quần chúng nhân dân của người làm cách mạng.
Không gian truyện được bao trùm bởi sự bế tắc, ảm đạm,
lạnh lẽo nhưng thời gian của truyện được Lỗ Tấn miêu tả có sự
chuyển biến tích cực từ mùa thu “trảm quyết”, “chết chóc” đến
mùa xuân “Tiết thanh minh” năm ấy. Điểm nhìn của tác giả xuôi
theo mạch cảm xúc, suy tư lạc quan, niềm hy vọng về tương lai
tươi đẹp của đất nước. Con đường mòn nhỏ hẹp, quanh co mà
người đi mãi cũng thành đường, từ lâu đã trở thành cái “ranh giới
tự nhiên” giữa mộ của những người chết chém, chết tù với mộ của
những người nghèo. Cái ranh giới từ lâu đã hằn sâu trong tư tưởng
của nhân dân, là sự phân biệt giữa những cuộc đời có sự khác
nhau trong lối suy nghĩ. Ngay cả mẹ Hạ Du cũng chẳng hiểu được
con mình, khi có người bắt gặp bà ở nghĩa trang, bà chững lại
không dám bước tới mộ con, sắc mặt bà “đỏ lên vì xấu hổ”.
Nhưng con đường mòn kia dường như chẳng còn tồn tại khi bà

Hoa chủ động đi tới bên kia phía trái con đường để an ủi, động
viên và chia sẻ với nỗi đau mất con của mẹ Hạ Du. Một vòng hoa
nhỏ xuất hiện trên mộ Hạ Du, đây có thể là do một người dân để
lại để tưởng nhớ đến công lao, biết ơn, thấu hiểu sự hy sinh của
13


người chiến sĩ, đồng thời cũng là tấm lòng thương xót, biết ơn, sự
trân trọng của nhà văn dành tặng với một niềm hy vọng vào tương
lai tốt đẹp. Hình ảnh vịng hoa cũng nhen nhóm một tia hy vọng
nhỏ nhoi khi có người đã hiểu được ý nghĩa của sự hy sinh cao cả
của người anh hùng cách mạng Hạ Du. Có lẽ khơng cịn lâu nữa,
đất nước Trung Quốc sẽ tươi đẹp hơn.
Nghệ thuật:
Với ngịi bút cơ đọng, súc tích, cùng lối viết giàu hình ảnh
sinh động và chân thực Lỗ Tấn đã gợi lên trong lòng mỗi người
đọc những suy nghĩ băn khoăn, những thắc mắc về tình cảnh đất
nước Trung Hoa thuở bấy giờ. Lỗ Tấn – một nhà văn lỗi lạc, là
“linh hồn của dân tộc”, ơng đã khóc trước “nỗi đau của cả dân
tộc” trong từng tác phẩm của mình, với Thuốc mang hình thức là
một truyện ngắn nhưng lại có kích thước của một truyện dài, để lại
giá trị lịch sử ý nghĩa vô cùng to lớn cho đất nước.
Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là truyện ngắn đặc
biệt và ln giữ một vị trí quan trọng, độc đáo trong cách thức kết
cấu, tổ chức khơng gian, bố trí nhân vật và tái hiện nhân vật.
Với kết cấu bốn phần, mạch lạc tạo ra cảm giác kết cấu khai thừa - luận - kết hay khai - thừa - chuyển - hợp tương tự như kết
cấu của một bài thơ cổ điển, được đánh số thứ tự từ I đến IV, câu
chuyện mang tiêu đề vừa thực vừa biểu trưng - Thuốc - được chia
thành hai không gian rất đặc trưng gắn với nhan đề tác phẩm:
không gian quán trà nhà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa

địa với phần cịn lại mà độ dài khơng kém ba phần kia là bao.
Câu chuyện nhẹ nhàng, khơng có xung đột gay cấn, song với
cách thức tổ chức theo hệ thống khai - thừa - luận - kết, khai - thừa
- chuyển - hợp, đã tạo thành một cốt truyện hoàn chỉnh, chặt chẽ,
mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa đẹp về mặt kết cấu, tổ chức nghệ
thuật, vừa chuyển tải được một nội dung mang tính cách mạng
14


cao. Câu chuyện được tái hiện trong hai không gian khác nhau,
mỗi khơng gian đều có những nét riêng, độc đáo, đều nhằm nhấn
mạnh một khía cạnh riêng của chủ đề. Câu chuyện diễn ra trong
hai khơng gian đều có khung thời gian được kể là một buổi sáng,
tạo ra một kiểu trùng lặp nhằm nhấn mạnh sự thay đổi về nhận
thức của con người. Điều khác biệt là buổi sáng của không gian
thứ nhất thuộc về mùa thu, mùa của sự tàn tạ, héo hon, của sự
buồn bã chia li, cịn buổi sáng của khơng gian thứ hai gắn với mùa
xuân, mùa của sự sống trỗi dậy, mùa của sự sinh sôi nảy nở, cho
dù trong không gian thứ hai có hình ảnh cành cây khơ trụi lá,
nhưng "những cây dương liễu" đã "đâm ra được những mầm non
bằng nửa hạt gạo". Sự chuyển đổi các không gian theo mùa, do đó,
cũng tạo ra ý tưởng về sự phát triển đi lên, tạo ra niềm tin và khơi
dậy niềm lạc quan tin tưởng, tạo ra ấn tượng về sự thay đổi cuộc
đời mang tính chất chu kì "bĩ cực thái lai" của truyền thống tâm
thức Trung Hoa. Vì thế Thuốc vẫn luôn là một trong những sáng
tạo nghệ thuật tài ba của nhà văn Lỗ Tấn. Thứ thuốc mà quần
chúng nghèo khổ Trung Hoa cần có đã được chỉ ra. Đấy cũng là
thứ thuốc mà độc giả thu nhận được qua thông điệp nghệ thuật của
nhà văn.


15



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×