UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG
TRƯỜNG THCS LƯƠNG THẾ VINH
MÃ SKKN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc
- Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Lĩnh vực: Ngữ văn
Cấp học: Trung học cơ sở
Tên tác giả: Đặng Thị Vân
Đơn vị công tác: Trường THCS Lương Thế Vinh
Chức vụ: Giáo viên
\
NĂM HỌC: 2016-2017
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II. PHAM VI, THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
II. TÌNH TRẠNG THỰC TẾ KHI CHƯA THỰC HIỆN
1. Về phần học sinh.
2.Về phần giáo viên.
III. SỐ LIỆU ĐIỀU TRA
IV. NHỮNG BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
V. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ ĐỐI CHỨNG
C. KẾT LUẬN CHUNG VÀ KIẾN NGHỊ.
1/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI :
Trên văn bia Văn Miếu – Quốc Tử Giám có viết : “Hiền tài quốc gia chi
nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long , nguyên khí nỗi tắc
quốc thế nhược dĩ ô”. Nghĩa là: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí
thịnh thì nước mạnh, nguyên khí yếu thì nước suy. Như vậy, rõ ràng nhân tố con
người trong mọi thời đại là vô cùng quan trọng.
Ngày nay, đất nước ta đang bước vào xu thế hội nhập. Đảng và Nhà
nước vẫn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trước mắt
vô cùng bức thiết là thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Và giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm giáo dục nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để đáp ứng nhu cầu của thời đại. Con
người lao động mới phải là con người phát triển toàn diện.
Vậy mà, có một thực trạng đang tồn tại trong nhà trường phổ thông hiện
nay là học sinh không thích học môn Ngữ văn. Vì sao lại có thực trạng đó ? Có
rất nhiều nguyên nhân. Một phần do xu thế chọn nghề của xã hội; một phần do
định hướng của các bậc phụ huynh hướng con em họ ưu tiên các môn học tự
nhiên; một phần cũng do bản thân môn Ngữ văn là môn học không dễ và nguyên
nhân nữa không thể không kể đến là do kiến thức, phương pháp truyền thụ có
phần hạn chế, cách thiết kế nội dung, các bước tổ chức cho học sinh tiếp cận tri
thức thiếu sinh động của chính giáo viên.
Hiện nay, việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã và đang được
các thầy cô thực hiện đồng bộ. Mặc dù cịn có rất nhiều ý kiến về việc thay sách và
đổi mới phương pháp giảng dạy, song từ những trải nghiệm thực tế, chúng ta có thể
khẳng định rằng việc thay sách và đổi mới phương pháp giảng dạy đã giúp các em
tiếp xúc được nhiều tác phẩm hay, mới ,lạ, cập nhật với cuộc sống. Không những
thế, đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học mơn
Ngữ văn nói riêng giúp các em biết tư duy sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn
đề, biết nói lên những suy nghĩ, cảm nhận của riêng mình. Có nghĩa là học sinh
được rèn nhiều kĩ năng, được phát triển nhiều năng lực tiềm ẩn bên trong các em
như : năng lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực hợp tác làm việc nhóm; năng lực giải
quyết vấn đề; năng lực cảm thụ thẩm mĩ…Mỗi giờ học văn là một niềm vui bất
ngờ đối với các em, như đại văn hào Nga M.Gor- ki đã từng nói: “Giáo dục nhằm
phát triển tài năng chứ không tạo ra tài năng”!
2/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Để học sinh yêu thích môn Ngữ Văn thì người thầy đóng một vai trò cực
kì quan trọng. Như Hàn Dũ – một học giả Trung Hoa nổi tiếng, đã từng nói :
“Thầy là người truyền đạo, trao nghiệp, cởi giải mê hoặc”. Đúng vậy, một giờ
học Ngữ văn thành công là sự nỗ lực song song giữa thầy và trò. Thầy đóng vai
trò dẫn dắt, chỉ đạo, trò giữ vai trò chủ động, tích cực khám phá, tích luỹ tri
thức. Điều này càng thể hiện rõ ở những phần luyện tập giúp cho học sinh được
rèn luyện các thao tác, kĩ năng cho thuần thục, mà lại được tự do sáng tạo, được
bày tỏ những gì mà mình nghĩ. Được u – ghét hờn nhiên mà ít bị lệ tḥc vào
sự gị bó nghiêm ngặt. Ở những tiết học ấy, kiến thức về các bài học vẫn được
củng cố mà khơng khí khơng cịn căng thẳng, học sinh hào hứng với tâm thế chủ
động, tích cực, say mê sáng tạo.
Qua những năm thực hiện chương trình thay sách và đổi mới phương pháp
dạy học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng, với cương vị là Tổ trưởng chun
mơn, tôi đã được dự khá nhiều giờ của đồng nghiệp trong trường cũng như
trường bạn, song điều tơi cịn băn khoăn là một số thầy cơ vẫn thuyết trình
nhiều, việc cung cấp kiến thức đơi khi cịn mang tính áp đặt, đặc biệt là khâu
Đọc-Hiểu văn bản; các thầy ít giao bài tập cho nhóm, cá nhân chuẩn bị từ lúc ở
nhà; trên lớp, không tạo điều kiện cho các em được thể hiện…Tơi thiết nghĩ có
nhiều cách để phát huy tính tích cực, chủ động , sáng tạo và năng lực của học trò
như giáo sư Nguyễn Khắc Phi khẳng định: “Trong q trình dạy học, khơng cho
phép dạy học theo kiểu máy móc rập khn, nhồi sọ mà ln ln địi hỏi sự
năng động, vận dụng linh hoạt sáng tạo của người thầy”.
Chính vì vậy, tơi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “Dạy học theo định hướng
phát triển năng lực của học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
II. PHẠM VI, THỜI GIAN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI :
- Các tiết Ngữ văn dạy phần văn bản
- Học kì I - Năm học : 2016-2017
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
lớp: 9C
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Điều tra, khảo sát, quan sát, đối chiếu, phân tích, thực nghiệm
3/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Phải nói rằng, lứa tuổi học sinh THCS với đặc điểm tâm sinh lí hết sức
điển hình. Đây là thời kì q độ chuyển từ giai đoạn trẻ em sang người lớn.
Trong giai đoạn này, hứng thú của các em đã phát triển ở mức độ cao; hứng thú
về học tập đã phát triển và ngày càng đậm nét. Đây là một đặc điểm hết sức
thuận lợi đối với việc giảng dạy bộ mơn Ngữ văn. Việc tị mị thích thú mơn Văn
khơng phải là khoảng cách xa đối với các em. Bên cạnh đó, ý thức tự lập và khả
năng đào sâu khám phá những nét đẹp trong cuộc sống và khám phá những năng
lực tiềm ẩn trong bản thân khá cao- đó là một ưu điểm điển hình của học sinh
bậc THCS.Song song những ưu điểm trên là những nhược điểm mà nhiều em
mắc phải, đó là cịn rụt rè e ngại; còn tự ti trong việc nhận thức, đánh giá về bản
thân; cịn ngại khó, chưa chủ động trong học tập… nên chưa đánh thức, phát huy
hết khả năng tiềm ẩn của bản thân mình. Vậy làm thế nào để giải quyết những
khó khăn đó? Làm thế nào để giờ dạy và học mơn Ngữ văn có hiệu quả? Làm
thế nào để đánh thức , khơi dậy khả năng của học trò?
II.CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Như chúng ta đã biết “Văn học là nhân học”; “Văn học là nghệ thuật của
ngôn từ”. Chính vì vậy, việc học Văn khơng phải đơn giản.Hơn nữa, trong thời
đại hiện nay, môn Ngữ văn không còn là “điểm đến” hấp dẫn với các em học
sinh như các mơn: Tốn, Lí, Hóa, Anh văn…mặc dù đó là một trong hai mơn
chính chiếm số lượng tiết khơng nhỏ. Có nhiều học sinh rất ngại học mơn Văn
bởi lí do là văn viết dài, khó học, khó thuộc. Có những tác phẩm tự sự dài học
sinh lười khơng đọc hết dẫn tới tình trạng mơ màng về nội dung, cốt truyện,
nhân vật. Có những bài thơ khi học xong, học sinh không nắm được nghệ thuật
tiêu biểu, nội dung ý nghĩa của bài thơ. Các em không chủ động tìm tịi, nghiên
cứu tác phẩm ở nhà, cộng với trên lớp thầy cô “làm hộ” các em nên học sinh
khơng được rèn kĩ năng …vì thế các năng lực tiềm ẩn của học sinh không được
đánh thức, khơi dậy dẫn đến kiểu học nhồi sọ, rập khn máy móc khơng hiệu
quả. Những lí do trên khiến tâm lí học sinh ngại và chán học môn Văn. Vậy làm
thế nào để khắc phục khó khăn đó? Làm thế nào để tiết dạy học mơn Ngữ văn
thật sự có hiệu quả để thu hút học sinh say mê học tập?
Để trả lời cho câu hỏi đó, mỗi người thầy giáo phải rèn cho mình trái tim
nhiệt huyết, tri thức phong phú sâu sắc và bản lĩnh vững vàng khi đứng trên bục
giảng.
4/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Như chúng ta đã biết, văn học xuất phát từ đời sống, chính vì thế văn học
rất gần gũi với mọi người. Những bài thơ hay, những văn bản hấp dẫn đã giúp
cho giờ Văn không chỉ là giờ học mà cịn là những giờ giải trí, khám phá biết
bao điều kì diệu của cuộc sống con người. Cũng trong các giờ học đó mà học
sinh được rèn nhiều kĩ năng, được tự khám phá khả năng của bản thân như năng
lực giao tiếp tiếng Việt; năng lực làm việc nhóm; năng lực giải quyết vấn đề;
đặc biệt là năng lực cảm thụ thẩm mĩ…Để có giờ Văn như thế thì học sinh được
rèn bằng cách giao bài tập nhóm, cá nhân chuẩn bị bài ngay từ ở nhà từ khâu
Đọc-Tìm hiểu chung đến khâu Đọc - Hiểu văn bản và cả phần Luyện tập, vận
dụng của bài học. Đồng thời nó cũng địi hỏi người thầy phải chuẩn bị kĩ càng,
công phu và chủ động, sáng tạo và linh hoạt khi thiết kế bài giảng.
III. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI:
Dạy học môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực của học sinh
cấp THCS.
IV. TÌNH TRẠNG THỰC TẾ KHI CHƯA THỰC HIỆN.
1 .Về phần học sinh :
- Ngại học do kiến thức dàn trải và có phần nhồi nhét.
- Kiến thức hổng nhiều. Các kĩ năng còn non yếu chưa được rèn luyện
cho nên khá lúng túng trong các khâu như cảm hiểu và phân tích tác phẩm; chưa
nhuần nhuyễn khi áp dụng kiến thức đã học vào làm bài tập, nhất là quá trình tạo
lập văn bản...
-Thiếu sự chủ động, sáng tạo, còn thụ động trong quá trình tiếp thu, lĩnh
hội tri thức; chưa biết làm việc theo nhóm cho có hiệu quả.
- Học sinh thờ ơ, ít rung động với vẻ đẹp của tác phẩm văn học; chưa
được làm quen nhiều về các kiến thức lí luận văn học .
- Vốn từ ngữ ít ỏi, cho nên dùng từ còn sai và thậm chí dùng mà không
hiểu nghĩa của từ.
- Diễn đạt lủng củng, không thoát ý; nhút nhát ngại trình bày trước tập
thể.
- Giờ học trầm, b̀n tẻ, khơng tích hợp được liên mơn, khơng biết vận
dụng kiến thức bài học giải quyết các vấn đề tương tự hay liên quan ngoài cuộc
sống; kết quả thấp.
2. Về phần giáo viên:
- Chưa thật sự chú trọng trong những giờ học này.
- Chuẩn bị sơ sài, thiếu định hướng rõ ràng. Không xác định rõ trọng tâm
kiến thức, kĩ năng cần rèn cho học sinh.
5/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
- Không giao bài tập về nhà và kiểm tra sát sao sự chuẩn bị của các em.
- Phó mặc cho học sinh tự làm.
- Không đầu tư nghiên cứu hệ thống câu hỏi dẫn dắt cho khoa học nhất là
hệ thống câu hỏi mở và cách thức tổ chức các hoạt động trên lớp để phát huy
năng lực cuả học sinh .
Tất cả các yếu tố trên dẫn đến giờ dạy và học văn chưa thành công. Các
em không có hứng thú học Ngữ văn; vốn từ ít được trau dồi cho phong phú; tỏ
ra vụng về trong việc diễn đạt suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc của bản thân. Từ đó,
việc cảm hiểu các tác phẩm trên lớp cũng bị hạn chế do cảm quan không được
đánh thức và rèn luyện. Nhiều kĩ năng yếu kém không được rèn giũa. Chất
lượng giáo dục chưa được cải thiện.
V. SỐ LIỆU ĐIỀU TRA:
LỚP/SĨ SỐ
9C/40
NĂNG LỰC HỌC VĂN
GIỎI
2 (5%)
KHÁ
5 (12,5%)
T.BÌNH
17 (42,5%)
YẾU
6 (15%)
KÉM
4 (10%)
VI. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN:1. Giáo viên trau dồi để có vốn kiến
thức phong phú về mơn học:
- Giáo viên phải nắm vững hệ thống kiến thức cơ bản về văn học, bao
gồm : kiến thức về lịch sử văn học; kiến thức về lí luận văn học; kiến thức về tác
phẩm văn học cụ thể.
* Kiến thức về văn học sử :
Là có sự hiểu biết về quy luật hình thành và phát triển của các hiện tượng
và quá trình văn học diễn ra trong những điều kiện xã hội- lịch sử nhất định. Nắm
chắc kiến thức văn học sử có nghĩa là giáo viên trong quá trình luyện tập ,sẽ giúp
học sinh có cách nhìn hệ thống về tiến trình phát triển nền văn học, từ đó nắm rõ
hơn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Các em hiểu được văn học Việt Nam
có mấy bộ phận? Có thể chia văn học Việt Nam ra mấy giai đoạn lớn? Mỗi giai
đoạn có tác giả và tác phẩm tiêu biểu nào? Những chủ để lớn xuyên suốt nền văn
học dân tộc là gì? Tác phẩm đang học ra đời trong hồn cảnh nào? Vị trí của nhà
văn ấy trong nền văn học dân tộc?...Nắm vững văn học sử, các em sẽ tiếp nhận
văn học một cách có hệ thống, khơng phiến diện, khơng lẫn lộn…để từ đó có cách
nhìn nhận và đánh giá đúng đắn về tác giả và tác phẩm.
6/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Rõ ràng khi phân tích một tác phẩm nào đó, chúng ta phải xem xét
không chỉ những yếu tố trong văn bản mà còn phải căn cứ thêm nhiều yếu tố
khác ngoài văn bản, như: hoàn cảnh sáng tác , cuộc đời nhà văn, bối cảnh lịch sử
xã hội, gia đình, bạn bè…đã góp phần hình thành tác phẩm đó như thế
nào?...Những kiến thức ấy chính là do văn học sử cung cấp. Khi phân tích bài
thơ “Ngắm trăng”( Hồ Chí Minh-SGK Ngữ văn 8- Tập 2) chẳng hạn:
“Trong tù khơng rượu cũng khơng hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ.
Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ
Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ.”
(Trích “Nhật kí trong tù”).
Ở đây, ngồi việc phân tích cái hay, cái đẹp của văn bản, từ văn bản,
trong từng câu chữ, ý tứ của bài thơ như nhiều người đã chỉ ra, nếu chúng ta lại
đặt bài thơ trong hoàn cảnh sáng tác của toàn tập thơ, soi rọi nội dung và nghệ
thuật bài thơ từ ánh sáng chung, phong cách chung của toàn bộ tập “Nhật kí
trong tù”; rồi lại liên hệ với những sáng tác của các nhà thơ khác ở cùng một
giai đoạn, cùng viết về trăng nhưng ở hoàn cảnh khác nhau…chúng ta sẽ thấy
bài thơ đẹp hơn nhiều lần, sâu sắc hơn và thấm thía hơn.
*Kiến thức tác phẩm văn học:
Đây là một bộ phận quan trọng nhất của hệ thống kiến thức cơ bản
về văn.Vì một lẽ đơn giản là nếu khơng nắm được tác phẩm thì coi như mọi kiến
thức về văn đều trống rỗng. Trước hết cần nắm vững nội dung tư tưởng và nghệ
thuật của các tác phẩm đã được đưa vào chương trình sách giáo khoa, sau đó
tham khảo mở rộng khác ngồi chương trình.Ví dụ, khi dạy bài thơ “Ngắm
trăng” (Hồ Chí Minh-SGK Ngữ văn 8-tập 2), giáo viên phải biết liên hệ, so sánh
với nhiều bài thơ cùng viết về trăng trong và ngoài nước. Có thể dẫn ra trăng
trong thơ Lí Bạch, Đỗ Phủ, trăng trong ca dao dân ca, trăng trong thơ Nguyễn
Trãi, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du…
Có thể dẫn ra những vầng trăng trong một số thi phẩm cùng thời với
bài “Ngắm trăng” của Bác: trăng trong thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…
Có thể so sánh vầng trăng của Bác ở những bài thơ Người viết trong
những thời điểm và hoàn cảnh khác nhau. Trăng lúc Bác ở trong tù, trăng khi
Người ở chiến khu Việt Bắc…
…Làm thế nào để khi bàn một vấn đề hay viết về một ý nào đó, bình
giảng hay phân tích một câu thơ, đoạn thơ nào đó, giáo viên khơng những hiểu
nó một cách chính xác, sâu sắc mà cịn mới mẻ và diễn đạt, trình bày nó một
cách hấp dẫn , có thể đưa ra nhiều dẫn chứng văn thơ của nhiều tác giả khác
7/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
nhau tuy cùng viết về một đề tài, một ý, nhưng cách thể hiện phong phú, đa
dạng… Trước một tình huống hấp dẫn, hình ảnh đẹp, từ ngữ chứa đựng nhiều
thông tin…trong tác phẩm, giáo viên biết gợi dẫn cho học sinh tìm tịi, giải mã
theo suy nghĩ của các em nhưng có định hướng của người thầy trên lập trường ,
quan điểm đúng đắn…về tác giả, tác phẩm.
Như ta đã biết, mỗi tác phẩm văn học,về nội dung, là một bức tranh sinh
động về cuộc sống và con người. Và qua bức tranh đó, người viết ln gửi gắm
những tình cảm, tư tưởng và thể hiện thái độ của mình trước cuộc sống. Nhưng
những tác phẩm văn học muốn tồn tại được không cho phép dập khuôn lặp lại
giữa các tác giả, thậm chí cùng một tác giả. Vì vậy, khi giúp học sinh khám phá
tác phẩm văn học, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng phân tích , tổng hợp, biết
so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và những nét đặc sắc riêng
để từ đó mà có kiến thức sâu sắc về mỗi tác phẩm. Chẳng hạn khi dạy “Chiếc
lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng- SGK Ngữ văn 9), để phân tích khía cạnh nội
dung “ tình cảm thiêng liêng cao đẹp của những người đồng chí được nối dài
trong kháng chiến” thể hiện qua các nhân vật ông Sáu, ông Ba, cô giao liên Thu
, giáo viên có thể so sánh, đối chiếu với những tác giả khác cùng đề tài:
“Xưa tiễn chồng đi rười rượi tóc xanh
Nay lại tiễn con đi rung rinh đầu bạc”
( Lưu Trọng Lư).
Cịn Tố Hữu thì:
“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
Hồng Trung Thơng lại viết:
“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”
Và vẫn ý ấy, Trinh Đường không muốn lặp lại:
“Cha còn đeo quân hàm
Con đã ra nhập ngũ.
Một hòn đá Trường Sơn
Cha con cùng gối ngủ”.
Còn về phương diện nghệ thuật, giáo viên rèn cho học sinh kĩ năng
nhận diện và phân tích giá trị ,ý nghĩa để làm nổi bật nội dung, tư tưởng của tác
phẩm.
*Dấu câu và cách ngắt nhịp:
8/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Nhà văn Tơ Hồi coi dấu câu là một loại từ, là hình thức của chữ trong
tác phẩm. Và cả cách ngắt nhịp cũng vậy. Nó góp phần tạo nên ý tại, ngơn
ngoại, nó có khả năng “gợi ra những điều mà từ khơng nói hết”, nhất là trong
thơ. Thật khó mà dùng ngơn từ để diễn tả sự im lặng và xúc động thiêng liêng
đến tận cùng , giây phút Bác Hồ trở về Tổ quốc sau 30 mươi năm xa cách bằng
mấy dấu câu trong đoạn thơ sau:
“Ôi! Sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về…Im lặng. Con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ…”
(Tố Hữu- Theo chân Bác)
Hay ta cùng đọc đoạn văn sau đây:
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên khơng
có những đám mây bàng bạc, lịng tơi lại náo nức những kỉ niệm mơn man của
buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong
lịng tơi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.”
(Thanh Tịnh- Tôi đi học. SGK Ngữ văn 8- Tập 1)
2 Đoạn văn của Thanh Tịnh mỗi đoạn chỉ 1 câu với 62 chữ, 2 dấu chấm và 2 dấu
phảy. Nhịp điệu câu văn nhẩn nha, không gấp gáp vội vàng. Ngữ điệu câu văn
khơng có gì căng thẳng. Cả hai đoạn văn là những tiếng nói thì thầm, nhỏ nhẹ
như lá rụng cuối thu, lãng đãng như mây bạc lưng trời…Tất cả nhằm diễn đạt
một tâm trạng, một hồi ức, một tấm lòng đang “náo nức những kỉ niệm mơn
man của buổi tựu trường”.
*Vần điệu, âm hưởng và nhạc tính:
Tiếng Việt rất giàu nhạc tính. Hệ thống vần điệu và thanh điệu là
những yếu tố cơ bản tạo nên tính nhạc của tiếng Việt nói chung và ngơn từ văn
học nói riêng, nhất là thơ.
Một trong những tác dụng quan trọng của Vần là tạo nên âm hưởng
vang ngân trong thơ, chẳng hạn bài thơ “Tức cảnh Pac Bó” (Hồ Chí Minh- SGK
Ngữ văn 8-Tập 2). Bài thơ độc đáo ở chỗ cả bài gieo một vần “ang” và đều nằm
ở cuối đủ 4 câu thơ (hang; sàng; Đảng; sang) của 1 bài thơ tứ tuyệt! Người đọc
hiểu rằng ,vào thời điểm đó, dẫu Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn phải hoạt động cách
mạng trong vịng bí mật (trong “hang”), dẫu phải lấy “cháo bẹ”,”rau măng”,
“bàn đá chông chênh” để sống, sinh hoạt và làm việc…ấy vậy mà cái “hang” ấy
lại rời rợi ánh sáng huy hoàng; cuộc sống và công việc hoạt động cách mạng ấy
lại rất sang, bởi nó lấp lánh lịng lạc quan ,niềm tin tưởng vào tương lai chói
9/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
ngời của sự thành cơng và thắng lợi…Có lẽ tất cả đều do âm hưởng của vần
“ang” rộng mở, ngân nga mang lại…
*Từ ngữ , hình ảnh, các biện pháp tu từ:
Đây là yếu tố cơ bản và quan trọng nhất của hình thức chất liệu ngơn
từ. Bởi vì mọi nội dung cần thể hiện của tác phẩm văn học khơng thể có cách
nào khác là nhờ vào hệ thống từ ngữ này. Các phương tiện như dấu câu, nhịp
điệu, ngữ âm ở trên cũng chỉ có ý nghĩa khi nằm trong một văn bản mà từ ngữ
làm nền tảng. Nhà văn muốn mô tả, tái hiện hiện thực phải thơng qua từ ngữ.
Muốn nói đến nỗi lịng của mình, tình cảm và tư tưởng của mình cũng phải
thơng qua từ ngữ…”Văn học là nghệ thuật ngơn từ” chính là như vậy. Quả thật
ngôn từ trong các tác phẩm văn học vừa có tác dụng biểu ý, vừa có tác dụng
biểu cảm, gợi hình ảnh, hương vị, âm thanh…
Chẳng hạn như câu thơ của Nguyễn Du trong “ Truyện Kiều”:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lịe đơm bơng”.
Hay đoạn văn của Nam Cao khắc họa hình ảnh về lão Hạc:
“Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho
nước mắt chảy ra. Cái đầu của lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém
của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.” (Lão Hạc- SGK Ngữ văn 8- Tập 1).
- Ngôn từ văn học là loại ngôn từ đã được chắt lọc từ ngôn ngữ đời
thường, được nâng cấp, sửa sang, làm cho nó càng óng ả, giàu đẹp hơn. Các
biện pháp tu từ chính là những phương tiện quan trọng để thực hiện nhiệm vụ
trang điểm ngơn từ văn học, đó là các biện pháp tu từ : so sánh, ẩn dụ, nhân hóa,
hốn dụ, điệp ngữ…Giáo viên rèn kĩ năng phân tích các biện pháp tu từ tức là
rèn cho học sinh biết chỉ ra hiệu quả của cách viết, cách nói ấy, vai trò và tác
dụng của chúng trong việc miêu tả, biểu đạt chứ không phải đơn thuần là chỉ gọi
được tên, liệt kê các biện pháp mà nhà văn đã dùng.
Chẳng hạn , trong bài thơ “Ơng đồ” (Vũ Đình Liên- SGK Ngữ văn 8Tập 2) đã sử dụng phép tu từ nhân hóa rất thành cơng:
“ Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”.
“giấy” và “mực” ,hai vật vốn vô tri vô giác vậy mà giờ đây cũng biết buồn bã,
thảm sầu. Phải chăng chúng cũng biết đồng cảm, sẻ chia cùng chủ nhân là ông
10/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
đồ- một thời vang bóng- giờ đây thất thế, đang rơi vào tột cùng của cô đơn, sầu
tủi giữa sự thờ ơ ghẻ lạnh của thế thái nhân tình? Vũ Đình Liên thật tài tình , sử
dụng phép nhân hóa, một mũi tên mà trúng hai đích: vừa phả hồn vào vật để
đồng cảm, sẻ chia, nuối tiếc, hoài cổ về một nét đẹp văn hóa Việt đang bị mai
một; đồng thời lại thạch hóa những tâm hồn vơ cảm, vô tri!?...
*Câu trong văn bản và thể loại văn bản:
Khi tiếp xúc với tác phẩm văn học được phân tích, bên cạnh việc chú ý
khai thác các yếu tố hình thức nghệ thuật nói trên, cũng cần để ý đến kiểu câu và
thể loại văn bản.
- Hiểu biết về các kiểu câu cũng góp phần lí giải tốt tác phẩm. Ví dụ như trong
“Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn- SGK Ngữ văn 8 tập 2) đã sử dụng chủ yếu
câu văn biền ngẫu( câu văn có nhiều vế ,cân chỉnh, đăng đối như những con
ngựa đi sóng đơi với nhau) khiến cho câu văn có kết cấu trùng điệp, lời văn
cuồn cuộn như triều dâng, mạch văn liên tục, tâm tư và tình cảm của người viết
sục sơi nơi đầu ngọn bút …góp phần khơng nhỏ để làm nên áng thiên cổ hùng
văn bất hủ .
*Thể loại văn bản:
Bên cạnh việc chú ý đến đặc điểm cú pháp, khi phân tích tác phẩm văn
học, cịn phải xem xét một cấp độ cao hơn, đó là văn bản và thể loại của văn bản.
Tác phẩm được phân tích có thể là một tác phẩm trọn vẹn , nhưng cũng
có thể chỉ là một đoạn trích. Điều này cũng chi phối cách thức và phương hướng
phân tích, tìm hiểu.
Tiếp theo là thể loại của văn bản( khá quan trọng). Nếu là tác phẩm thơ
thì làm theo thể gì: lục bát, Đường luật hay tự do?...Nếu là văn xi thì là truyện
ngắn hay tiểu thuyết, kí hay kịch bản? …Thậm chí cịn phải chú ý đến tiểu loại
nếu thấy cần thiết. Ví dụ: trong kí cịn có: bút kí, tùy bút, nhật kí, phóng sự…
Trong tiểu thuyết thì có: tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết hiện đại…Trong
kịch lại có : bi kịch, hài kịch, kịch cổ điển, kịch hiện đại…Mỗi một thể loại lại
có những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật riêng biệt. Chính vì thế, nắm chắc
đặc điểm thể loại của tác phẩm văn học, sẽ phân tích đúng hướng.
Ví dụ: Một trong những đặc điểm nổi bật của tác phẩm kí là sự phong
phú, sống động và chính xác về số liệu (người và việc), tạo nên tính chân thực
và sức thuyết phục. Trong khi đó, cái hay của truyện ngắn lại là ở chỗ nhà văn
biết lựa chọn được một tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn, qua tình huống ấy
mà con người và sự việc được bộc lộ. Chính vì thế, khi đọc “Bản án chế độ thực
dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc, ta thấy Người luôn dẫn ra rất nhiều số liệu về
con người, và sự việc: số lượng, nơi chốn, ngày, tháng, nguồn tin với những chi
11/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
tiết cụ thể, sống động như đang chứng kiến. Đây là cuộc hành hình kiểu Luynch:
“…Chúng trói người da đen bị hành hình vào một gốc cây to trong rừng, tưới
dầu lửa vào người. Trước khi châm lửa, chúng bẻ dần từng chiếc răng của nạn
nhân, rồi móc mắt, giật từng mớ tóc xoăn, lột theo những mảng da đẫm máu…
Người da đen không kêu được nữa: lưỡi đã sưng phồng lên vì một thanh sắt
nung đỏ gí vào. Tồn thân người ấy quằn quại như một con rắn bị đánh dập nửa
mình, dở sống, dở chết”.
Cịn đây là “thuế máu” của người bản xứ: “Bảy mươi vạn người bản xứ đã
bước chân lên đất Pháp và trong số ấy tám vạn người đã khơng cịn trơng thấy
mặt trời trên quê hương họ nữa”.
Ở truyện ngắn thì lại khác. Khi phân tích truyện ngắn, nên chú ý đến tình
huống truyện, cách kể chuyện và hình tượng nhân vật. Chẳng hạn, cái hay của
truyện ngắn “Bức tranh của em gái tôi” của Tạ Duy Anh (SGK Ngữ văn 6-tập 2)
chính là chỗ tác giả xây dựng được tình huống bất ngờ ở cuối truyện, cách chọn
ngôi kể là nhân vật người anh xưng “tôi” cùng với bút pháp miêu tả nội tâm tinh
tế làm cho câu chuyện hấp dẫn, cảm động, mà lại chứa đựng một triết lí sâu sắc
về cuộc sống.
*Nhân vật trong tác phẩm văn học:
Nhân vật trong tác phẩm văn học có thể là người hoặc có thể là vật
(nhưng chứa đựng suy nghĩ, tình cảm của con người) .
Nhân vật trong thơ trữ tình là nhân vật trữ tình thường xưng tơi, ta,
anh, em, mình… hoặc khơng thấy xưng ai cả, ví dụ:
-“Làng tơi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.
Khi trời trong gió nhẹ sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”.
(Quê hương- Tế Hanh, SGK-Ngữ văn 8)
- “Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về”.
( Sang thu- Hữu Thỉnh ,SGK Ngữ văn 9 )
Nhân vật trong tác phẩm văn xuôi ( tự sự) là những con người cụ
thể được tác giả miêu tả, có thể có tên hoặc không tên xưng “tôi”. Nhiều khi học
sinh nhầm lẫn đồng nhất nhân vật xưng “tôi” với tác giả như ở truyện ngắn “Tơi
đi học” của Thanh Tịnh chẳng hạn. Vì vậy phải giúp học sinh lưu ý trong những
trường hợp này.
12/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
*Chú ý phong cách nghệ thuật của tác giả:
Nói về phong cách thì khơng phải nhà văn nào cũng đều xây dựng cho
mình một phong cách nghệ thuật rõ nét. Phong cách nhìn ở một phương diện
nào đó, và nói một cách đơn giản nhất, có thể gọi là chỗ hay nhất, mạnh nhất của
một nhà văn về tư tưởng và nghệ thuật, thường trở đi trở lại trong sáng tác của
người đó. Phong cách ở mỗi nhà văn là sự sáng tạo ra một thế giới nghệ thuật
riêng, có sức hấp dẫn riêng của nhà văn đó. Ví dụ nhà văn Nguyên Hồng, với
những trang văn xuôi sôi nổi trữ tình, thể hiện một chủ nghĩa nhân đạo thống
thiết. Ông thường viết về những kiếp người đau khổ, bất hạnh (đặc biệt là những
người đàn bà) bị những tai họa dồn dập vùi xuống bùn đen, nhưng vẫn quyết
vùng vẫy để vươn lên ánh sáng. Cịn Nam Cao ln đau đớn trước tình trạng
người trí thức phải sống mịn, người nơng dân phải vứt bỏ nhân tính vì miếng
cơm manh áo, các nhân vật trong tác phẩm thường đấu tranh, giằng xé nội tâm
gay gắt…
Nắm chắc những đặc điểm nổi bật về phong cách nghệ thuật của mỗi
nhà văn, trong q trình cảm thụ , phân tích tác phẩm sẽ góp phần làm sáng tỏ
hơn những hiểu biết và cảm nhận của mình.
*Kiến thức lí luận văn học:
Ở cấp THCS, học sinh chưa được học lí luận văn học thành những bài
riêng và cũng không được nhiều thầy cô chú ý đúng mức. Tuy nhiên vẫn cần
cung cấp cho học sinh các khái niệm, thuật ngữ về lí luận văn học như: đề tài,
chủ đề, hình ảnh, hình tượng, tự sự, trữ tình, hư cấu, ước lệ, tượng trưng, hiện
thực, lãng mạn, phong cách, các thủ pháp nghệ thuật…vì nó có mặt hầu như ở
bất kì bài giảng văn nào trên lớp của thầy, hay các bài làm văn của trò. Trong
những giờ học Ngữ văn trên lớp, giáo viên giúp các em lí giải : Thế nào là đề
tài? Thế nào là nhân vật trong tác phẩm văn học? Đề tài khác chủ đề ở chỗ nào?
Nhân vật trong truyện cổ dân gian có những đặc điểm gì? Loại nhân vật ấy có gì
khác so với các nhân vật trong các tác phẩm văn học hiện đại? Tại sao loại nhân
vật này thì được miêu tả theo bút pháp này còn loại nhân vật kia lại miêu tả theo
bút pháp khác?
Để hình thành và củng cố kiến thức lí luận cho các em được một cách
vững chắc, giáo viên phải gắn các kiến thức ấy vào tác phẩm văn học cụ thể, liên
hệ, đối chiếu để làm sáng tỏ qua các hình tượng văn học cụ thể, sinh động, tránh
lí luận chung chung, khơ khan, trừu tượng và làm một cách thường xuyên .
Tiết Đọc-hiểu văn bản cũng là những dịp thuận lợi có thể đưa vào để khắc
sâu kiến thức lí luận văn học cho học sinh. Ví dụ: Khi phân tích đến câu cuối
“Một mảnh tình riêng ta với ta” (“Qua Đèo Ngang”- Bà Huyện Thanh Quan 13/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
SGK Ngữ văn 7), một em HS (7D) viết: “Mảnh tình riêng đó, chỉ riêng bà và
cảnh biết thơi, bà và cảnh tuy hai mà một, bởi vì có chung tâm trạng. Trước
cảnh, bà đã bộc lộ tâm sự của mình, một tâm sự hồi cổ. Chính nét đặc sắc đó về
nội dung cũng như nghệ thuật” tức cảnh sinh tình”khiến cho thơ bà mang một
phong cách riêng, một phong cách thơ rất đặc biệt.” hay em HS khác khi bàn về
“Thuế máu”( Trích “Bản án chế độ thực dân Pháp” SGK Ngữ văn 8-tập 2) như
sau: “…sự thực ấy đã được Nguyễn Ái Quốc vạch trần bằng những tư liệu
phong phú, xác thực với giọng văn trào phúng sắc sảo”.
Tất cả những kiến thức trên, giáo viên có thể đưa vào phần luyện tập
để bổ trợ kiến thức cho học sinh, đặc biệt là học sinh giỏi thì rất tốt.
2. Giáo viên cần nắm chắc chương trình dạy phần văn bản trong sách giáo
khoa:
- Có thể liệt kê các văn bản trong chương trình SGK Ngữ văn 8 như sau:
THỂ LOẠI VĂN BẢN
TÊN VĂN BẢN
-Tôi đi học (Thanh Tịnh).
-Trong lịng mẹ (Trích Những ngày thơ ấu-Ngun
Truyện hiện đại
Hồng).
Việt Nam
-Lão Hạc (Nam Cao).
-Tức nước vỡ bờ (Trích Tắt đèn- Ngơ Tất Tố).
-Cô bé bán diêm (An đéc xen).
-Đánh nhau với cối xay gió (Trích Đơn ki hơ tê- Xec
Truyện hiện đại
van téc).
nước ngoài
-Hai cây phong ( Ai ma tốp).
-Chiếc lá cuối cùng (O.Hen ri).
-Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác (Phan Bội
Châu).
-Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh).
-Muốn làm thằng Cuội (Tản Đà).
Thơ hiện đại Việt Nam -Hai chữ nước nhà (Á Nam Trần Tuấn Khải).
-Nhớ rừng (Thế Lữ).
-Quê hương (Tế Hanh).
-Khi con tu hú (Tố Hữu).
-Tức cảnh Pac Bó; Ngăm trăng (Hồ Chí Minh).
Nghị luận
-Chiếu dời đơ (Lí Công Uẩn).
-Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn).
-Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngơ đại cáo –Nguyễn
14/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Kịch
Văn bản nhật dụng
Trãi).
-Bàn luận về phép học (Nguyễn Thiếp).
-Thuế máu (Trích Bản án chế độ thực dân PhápNguyễn Ái Quốc).
-Đi bộ ngao du (Trích Ê min hay về giáo dục).
-Ơng Giuốc đanh mặc lễ phục (trích Trưởng giả học
làm sang– Mô li e).
-Thông tin về Ngày Trái đất năm 2000.
-Ơn dịch, thuốc lá.
-Bài tốn dân số.
3. Nội dung của giải pháp:
Sau khi đã nắm chắc chương trình SGK , Phân phối chương trình
và các tiết yêu cầu giảm tải, giáo viên tìm ra điểm yếu mà học sinh hay mắc về
kiến thức, về kĩ năng thực hành để bồi dưỡng. Trong kinh nghiệm của bản thân
thực tế giảng dạy 16 năm nay, tôi nhận thấy:
-Về mảng văn, các em thực sự lúng túng ở khâu cảm hiểu văn bản,
chưa biết khai thác những tín hiệu nghệ thuật sáng giá để làm nổi bật nội dung
tư tưởng tác phẩm; mảng kiến thức về văn học sử còn yếu; năng lực tổng hợp,
khái quát chưa tốt; chưa thực sự hứng thú với những bài tập giao về nhà; chưa
phát huy được sở trường của bản thân như:
+ Năng lực tự học.
+ Vẽ tranh minh họa nội dung bài học…
+ Tìm tịi nghiên cứu tài liệu.
+ Phỏng vấn ý kiến những người xung quanh, nhất là những người hiểu
biết, có uy tín.
+ Thuyết trình trước đám đơng.
+ Viết kịch bản; khả năng nhập vai diễn xuất.
+ Đọc diễn cảm; đọc sáng tạo.
+ Cảm thụ những giá trị thẩm mĩ về nội dung và nghệ thuật.
- Đối với mơn Ngữ văn, ngồi việc phát triển cho HS năng lực chung
còn phát triển cho các em năng lực chuyên biệt: năng lực giao tiếp tiếng Việt ,
năng lực cảm thụ thẩm mĩ…
- Để phát triển năng lực HS, nhất là trong môn học Ngữ văn thì GV
phải rèn cho các em kĩ năng Tự học. Tự học là một năng lực chung mà mọi HS
cần được hình thành và phát triển. Tự học tức là tự mình tìm hiểu, suy nghĩ và
rút ra kết luận về một vấn đề hay một hiện tượng nào đó. Muốn có năng lực tự
15/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
học, đương nhiên phải có tri thức về lĩnh vực mà mình muốn tự học. Muốn có tri
thức về lĩnh vực đó theo tinh thần tự học thì phải tự đọc, đọc qua tài liệu, sách
vở, các phương tiện thông tin khác nhau; cũng có thể tìm hiểu, học hỏi qua kinh
nghiệm của người khác, nhưng chủ yếu tự học là tự đọc, tự suy nghĩ và vận
dụng. Tự học phụ thuộc rất nhiều vào sự tự giác, niềm đam mê và tính tị mị ,
nói cách khác là ham hiểu biết. Khơng có yếu tố này thì khơng thể có năng lực
tự học.
Đối với mơn Ngữ văn, năng lực tự học thể hiện trên hai bình diện:
+ Tự đọc hiểu văn bản, tự mình đọc và tìm tịi nội dung , ý nghĩa văn bản,
thể hiện sự ham thích đọc các loại văn bản. Sau đó biết suy nghĩ về những điều
đã đọc, liên hệ với cuộc sống xung quanh mình. Cụ thể như:
- Hoạt động 1: Đọc văn bản và xác định thể loại (văn bản văn học hay văn
bản thông tin, đặc điểm nào của thể loại văn bản cần chú ý trong việc đọc hiểu)
- Hoạt động 2: Tổ chức tìm hiểu nội dung chính của vă bản: Tóm tắt văn
bản; nêu ý chính của văn bản.
- Hoạt động 3: Tổ chức tìm hiểu vai trị, tác dụng của hình thức văn bản.
Yêu cầu học sinh tìm, nêu lên các biểu hiện về hình thức của văn bản: Tên văn
bản, bố cục, cấu trúc văn bản; các từ ngữ, câu chữ, hình ảnh, nhịp điệu, chi
tiết…chỉ ra một số yếu tố hình thức nổi bật nhất và phân tích vai trị, tác dụng
của các yếu tố đó.
- Hoạt động 4: Tìm hiểu mục đích của văn bản: Mục đích của văn bản là
gì? Mục đích ấy thể hiện ở chỗ nào, qua câu chữ nào?...Với văn bản văn học,
mục đích phức tạp hơn, có khi khơng nằm ở câu chữ cụ thể.
- Hoạt động 5: Tìm hiểu ý nghĩa của văn bản. Văn bản chỉ có một, bất
biến nhưng ý nghĩa thì nhiều , nhất là văn bản văn học. Sau khi học sinh đã xác
định được nội dung chính (Hoạt động 2), giáo viên yêu cầu tìm hiểu ý nghĩa của
câu hỏi : Văn bản nói về nội dung này, nhưng có phải chỉ nói về nội dung cụ thể
ấy không? Chẳng hạn 4 câu thơ đầu trong bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan
Châu Trinh có phải chỉ đơn thuần phác họa hình ảnh người tù khổ sai đập đá ở
Cơn Lơn hay không? Hoạt động này sẽ mất nhiều thời gian để học sinh tìm ra
tầng nghĩa thứ hai là tác giả còn khác họa bức tượng đài uy nghi, lẫm liệt về một
đấng anh hùng cách mạng…Người giáo viên phải có trình độ để làm trọng tài,
gợi ra những hướng tiếp nhận và cảnh báo những tiếp nhận suy diễn máy móc,
khiên cưỡng.
- Hoạt động 6: Yêu cầu học sinh đánh giá những giá trị của văn bản và
rút ra cách đọc văn bản này: Cần chú ý gì khi đọc văn bản này? Ví dụ khi học
xong truyện ngắn Cô bé bán diêm (An-đec-xen) , em cần chú ý cách đọc tác
16/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
phẩm của nhà văn An-đec-xen như thế nào? ( Chú ý về thủ pháp đối lâp, đan
xen; chú ý màu sắc cổ tích trong truyện ngắn An-đec-xen, Cách kết vừa hiện
thực vừa lãng mạn, vừa hiện thực vừa nhân đạo là nét nổi bật trong truyện ngắn
An-đec-xen).
+Tự tạo lập văn bản. Biết cách thẻ hiện những điều mình nghĩ bằng hình thức
nói hoặc viết một cách trong sáng, dễ hiểu từ đúng đến hay.
Dạy học tích hợp là một trong những con đường để phát triển năng lực
HS- năng lực vận dụng tổng hợp. Vì việc tổ chức nội dung và u cầu dạy hoc,
học theo hướng tích hợp địi hỏi người dạy và người học phải vận dụng kiến
thức, kĩ năng tổng hợp để giải quyết vấn đề, qua đó mà hình thành và phát triển
năng lực này. Dạy tốt một giờ Ngữ văn là đã thực hiện yêu cầu tích hợp. Vì theo
u cầu dạy Văn phải thơng qua các hình thức thể hiện, nhất là ngơn từ; phải
hiểu ngơn từ, hiểu câu, hiểu đoạn, mới có thể hiểu nội dung, ý nghĩa văn bản.
Như thế phải nắm rất vững về tiếng Việt, cả lí thuyết lẫn cách sử dụng. Từ đó có
năng lực phân tích , lí giải vẻ đẹp của văn bản văn học qua chất liệu ngôn từ.
Đối với các văn bản văn học (tác phẩm hình tượng) , nội dung hình tượng lại là
một bức tranh tổng hợp sinh động về cuộc sống muôn màu mn vẻ; vì thế GV
Ngữ văn cần phải trang bị cho mình rất nhiều những hiểu biết về xã hội và tự
nhiên để hiểu văn bản văn học, từ đó mới hướng dẫn học sinh về cách đọc hiểu
văn bản được. Tìm hiểu những ý nghĩa của văn bản văn học lại còn phụ thuộc
vào kinh nghiệm sống, sự từng trải, vốn văn hóa, mơi trường sống…Vì thế
muốn dạy tích hợp về đọc hiểu văn bản, GV cần sống sâu sắc với chính mình và
với mọi người. Đọc văn giúp hiểu mình và hiểu người.
Tuy nhiên cần chú ý phương pháp tích hợp cho nhuần nhuyễn, hợp lí
khơng nên cố tích hợp một cách gượng ép, áp đặt, suy diễn khơ cứng.
Tóm lại, cứ dạy thật tốt một giờ Ngữ văn, người giáo viên sẽ cùng một
lúc hình thành và phát triển cho học sinh trên nhiều phương diện : tiếng Việt,
đạo đức, văn hóa, mĩ học, lịch sử, địa lí…kinh nghiệm và kĩ năng sống…
4. Cách thức tiến hành cụ thể:
a. Đối với phần Đọc - Tìm hiểu chung:( Phần khởi động)
* Giao bài tập về nhà (theo nhóm):
- Nhóm học sinh hoặc cá nhân sưu tầm tài liệu về cuộc đời và sự nghiệp văn
thơ của tác giả ( dưới nhiều hình thức như quay các video clip; sưu tầm tranh
ảnh, vẽ tranh ; làm các cuộc phỏng vấn phỏng vấn các ý kiến của các nhà văn,
thầy cơ giáo, bạn bè, những người có uy tín trao đổi … xoay quanh nhà văn và
tác phẩm sắp học).
17/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
- Kể tóm tắt truyện hoặc đọc thuộc lịng diễn cảm bài thơ; kể chuyện diễn
cảm; nhập vai…nếu văn bản truyện có dung lượng ngắn.
*Thực hiện trên lớp:
- Một nhóm đại diện trình bày trước lớp đoạn video clip ,tranh ảnh, tư liệu
mà nhóm mình đã chuẩn bị. Trong q trình thể hiện, HS tự phân vai với nhau
tùy theo sở trường của từng cá nhân trong nhóm như bạn thì thuyết trình; bạn thì
đọc diễn cảm... Các nhóm khác lắng nghe và đóng góp ý kiến. Sau đó giáo viên
nhận xét và cho điểm.
Một nhóm hai học sinh lớp 9C trình bày clip và slide trình chiếu về tác giả
G.Mô-pa-xăng và tác phẩm Bố của Xi-mông.
b. Đối với khâu Đọc- Hiểu văn bản:
- Giáo viên dẫn dắt bằng hệ thống câu hỏi mở và học sinh được làm việc cá
nhân hoặc theo nhóm trình bày các suy nghĩ , cảm nhận của mình dưới nhiều
hình thức như : nêu cảm nhận cá nhân; thảo luận nhóm;tranh luận; cắt dán tranh
vẽ lên bảng rồi phân tích, thuyết trình. Sau đó các nhóm khác nhận xét và cuối
cùng giáo viên chốt và bình nâng cao.
18/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Một nhóm học sinh lớp 9C lên thuyết trình về nội dung diễn biến tâm
trạng của Xi-mông trong văn bản truyện Bố của Xi-mông (G.Mô-pa-xăng).
c. Đối với khâu ứng dụng:
- Giáo viên giao cho học sinh chuẩn bị tiểu phẩm, đóng vai hoặc xem clip
về một tình huống liên quan đến bài học sau đó cho một em đứng lên tự điều
khiển cuộc thảo luận . Cuối cùng giáo viên đánh giá nhận xét và chốt.
=> Như vậy nó khác cách làm truyền thống mà GV thường làm là GV tự sưu
tầm tư liệu sau đó trình bày trước lớp cho HS. Với cách làm cũ khó kích thích
phát huy được năng khiếu, sở trường ,năng lực tiềm ẩn của HS đồng thời càng
khiến cho HS thụ động, lười biếng tiếp cận tri thức.
19/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
5. Giáo án kèm theo:
GIÁO ÁN
TIẾT 151: BỐ CỦA XI-MÔNG
I. Mục tiêu cần đạt.
1. Kiến thức:
- Những hiểu biết bước đầu về G.Mô-pa-xăng và thấy được sự thể hiện
tinh thần nhân đạo, tài năng nghệ thuật xuất sắc của ông.
- Nghệ thuật kể chuyện, cách miêu tả tâm lí nhân vật trong tác phẩm.
2. Kỹ năng.
- Tóm tắt được tác phẩm và biết cách phân tích diễn biến tâm trạng nhân
vật.
- Nêu cảm nghĩ về một đoạn truyện, viết văn tự sự xen yếu tố miêu tả,
biểu cảm.
- Làm việc nhóm, phát huy năng lực (năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
cảm thụ thẩm mỹ, năng lực sáng tạo, năng lực hợp tác...).
3. Tình cảm:
- Thắp lên ngọn lửa yêu thương, chia sẻ với mọi người, đặc biệt là những
người bất hạnh.
- Giáo dục kĩ năng sống tích hợp lối sống văn minh, thanh lịch cho học
sinh.
II. Chuẩn bị của giáo viên và học sinh.
1. Giáo viên:
- Soạn bài, phiếu bài tập, tranh ảnh minh họa, phim, bài hát...
- Hướng dẫn học sinh làm việc nhóm để vẽ tranh ,clip và đóng tiểu phẩm.
2. Học sinh:
- Soạn bài, đọc truyện , vẽ tranh, sưu tầm, quay video.
III. Tiến trình
1. Ổn định tổ chức
2. Vào bài.
20/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Hoạt động của
giáo viên
Hoạt động của
học sinh
Nội dung cần đạt
Hình thành
và phát triển
năng lực
A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG
Trình bày phần
chuẩn bị của các
em về bài tập cô
giao ở tiết trước
- Cử 1 nhóm lên
trình bày.(chuẩn
bị clip về tác
giả, tác phẩm).
- Các nhóm khác
nhận xét
Trình bày những ấn tượng sâu
sắc của em về G.Mô pa-xăng
và tác phẩm “Bố của Ximông”
- Năng
hợp tác.
- Năng
sáng tạo.
lực
lực
B. HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI
-¿ hồn cảnh em
bé Xi-mơng?
1. Nhân vật Xi-mơng
a.Hồn cảnh
- học sinh trả lời
- Học sinh khác
làm vào vở
- Học sinh nhận
xét
- Em hãy nhận xét - Học sinh nhận
về hoàn cảnh của xét
Xi-mơng?
- Hồn cảnh:
-7,8 tuổi
-xanh xao
-nhút nhát
-vụng dại
-khơng có bố
-bị bạn bè giễu cợt, hành hạ
-muốn tự tử
Em bé đáng thương, bất
hạnh
(Giáo viên hướng - Học sinh trả lời
học sinh tích hợp
về kiến thức địa
lý, văn hóa)
21/25
- Năng lực
giao tiếp tiếng
Việt.
- Năng lực
cảm thụ thẩm
mĩ
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Hoạt động của
giáo viên
Hoạt động của
học sinh
Chia 4 nhóm thảo
luận (5 phút):
N1: tâm trạng Ximông khi ở bờ
sông?
N2: tt Xi-mông
khi gặp bác Philíp?
N3: tt em bé khi
trở về nhà?
N4:tt
Xi-mơng
sáng hơm sau đến
trường?
Nội dung cần đạt
b.Diễn biến tâm trạng của
Xi-mông:
*Khi ở bờ sông:
-đau khổ,tuyệt vọng
-quên ý định tự tử
-nhớ nhà, nhớ mẹ
-khóc…
*Khi gặp bác Phi lip
-khóc
-nghẹn ngào
-nói đứt quãng
*Khi về gặp mẹ:
-tủi thân
-muốn trở lại sông tự tử
-thương mẹ
-đề nghị bác Phi lip làm bố
-khuây khoả, nhẹ nhõm
*Sáng hôm sau đến trường:
-thách thức
-quát vào mặt…
-sẵn sàng chịu trận
-can đảm, tự tin, hãnh diện
=> Sắp xếp,miêu tả tâm lí theo
trình tự hợp lý, chân thực, tự
nhiên, sinh động
Nhận xét về:
Cách mtả tâm Học sinh trả lời
trạng?
vào bảng phụ và
22/25
Hình thành
và phát triển
năng lực
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
Hoạt động của
giáo viên
Hoạt động của
học sinh
Nội dung cần đạt
Hình thành
và phát triển
năng lực
cử đại diện
nhóm trình bày.
Các em cảm nhận
Tâm hồn cậu bé:
về vẻ đẹp tâm hồn
+ Trong sáng hồn nhiên
cậu bé như thế
+ Khát khao được yêu thương
nào?
Qua đó em hiểu gì Học sinh tự bộc Tấm lịng nhân văn cao cả của
về tấm lịng của lộ
G.Mơ-pa-xăng.
nhà văn?
Năng lực giao
tiếp tiếng Việt.
Năng lực thẩm
mĩ.
Năng lực làm
việc nhóm
C. HOẠT ĐỘNG ỨNG DỤNG
Chiếu clip về hình Đại diện nhóm Suy nghĩ về những mảnh đời - Năng lực
ảnh trẻ em bất trình bày
bất hạnh trong cuộc sống hàng giao tiếp tiếng
hạnh
ngày
Việt.
- Năng lực
cảm thụ thẩm
mĩ.
Học sinh đóng
-năng
lực
tiểu
phẩm.
đóng vai.
( Lồng ghép
-Năng lực giải
giáo dục nếp
quyết vấn đề
sống văn minh
liên quan.
thanh lịch người
Hà Nội).
Các HS khác
nhận xét.
GV chốt.
Dặn nhiệm vụ về -Kể lại phần kết
-Năng lực tự
nhà
truyện theo trí
học.
tưởng tượng của
em?
VII. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÓ ĐỐI CHỨNG :
23/25
“Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh trong giờ Đọc - Hiểu văn bản môn Ngữ văn”
NĂNG LỰC HỌC VĂN
LỚP/SS
9c/40
Thời gian
thực hiện
Trước
Sau
Giỏi
2(5%)
6(15%)
Khá
T.bình
Yếu
Kém
5(12,5%) 17(42,5%) 6(15%) 4(10%)
12(30%) 19(47,5%) 3(7,5%)
0
Sau khi thực hiện, nhiều em đã được lấp dần kiến thức bị hổng và kĩ năng yếu
kém trước đó. Để bồi kiến thức cũ nhưng với phương pháp mới, hình thức tổ
chức hấp dẫn tạo cho các em tâm thế nhập cuộc thoải mái, tích cực,hào
hứng .Từ đó mà các em chủ động, tự tin trong q trình tích lũy tri thức,không
thụ động, rụt rè như trước và hiệu quả nâng lên rõ rệt. Điều đó khiến cho bản
thân tơi vơ cùng phấn khởi. Và nó trở thành động lực giúp tôi cần phải cố gắng
nhiều hơn nữa vì các em học sinh thân yêu.
Trong quá trình áp dụng sáng kiến, các đồng chí cùng nhóm Ngữ văn
8,9 đã tham gia khảo sát thực nghiệm cuối cùng và có những ý kiến tán đồng với
cách làm này .Bởi, theo các đồng chí, tiết dạy Ngữ văn như vậy vừa bám sát
nhiệm vụ của năm học: Đổi mới phương pháp dạy học, lấy học sinh làm trung
tâm, kích thích tính chủ động ,tích cực, say mê sáng tạo và phát triển năng lực ở
các em.Qua đó cũng tích hợp giáo dục lồng ghép Văn minh thanh lịch người Hà
Nội; môi trường; học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh...,xây
dựng “Trường học thân thiện, Học sinh tích cực” đồng thời đã bám sát đặc trưng
thể loại, bám sát Chuẩn kiến thức- kĩ năng ,phân phối chương trình và Tài
liệu giảm tải của Sở GD để giảng dạy.
C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Nói tóm lại, mục tiêu của giáo dục là khơi dậy và phát huy được năng lực
của con người, đặc biệt là con người trong thời đại mới hiện nay. Vì thế trong
bài viết “ Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới”, cựu phó thủ tướng Vũ Khoan đã
nhấn mạnh: “Chuẩn bị con người là quan trọng nhất.” Bởi tự cổ chí kim, con
người là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Đất nước hưng thịnh hay suy vong
đều do yếu tố con người. Bước vào thời đại mới, yếu tố con người càng phải
mới. Khi nền kinh tế, văn hóa, cơng nghệ, giáo dục…phát triển theo hướng tồn
cầu hóa thì vai trị con người càng quan trọng, nổi trội, có ý nghĩa quyết định sự
24/25