TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TIỂU LUẬN
INCOTERMS
(QUY TẮC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ )
GV hướng dẫn: TS Lê Phan Thị Diệu Thảo
Nhóm 3 - Lớp T01_K25
Hoàng Thị Cúc 030125090127
Thái Phương Hiền 030125090195
Nguyễn Thị Thanh Huyền 030124080386
Trịnh Hoàng Luân 030125090442
Nguyễn Hồng Quân 030125090677
Nguyễn Tường Thanh 030124080821
Nguyễn Lê Ngọc Trinh 030125090922
Huỳnh Quốc Long Vinh 030125091049
Tp. Hồ Chí Minh 9/2012
Lời mở đầu
Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn chưa từng thấy để doanh nghiệp tiếp cận tới các thị
trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hoá được bán ra ở nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và
chủng loại đa dạng hơn. Khi khối lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, đồng thời nếu
Nhóm 3_T01_K25
hợp đồng mua bán hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì khả năng
dẫn đến sự hiểu nhầm và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên. Từ nhu cầu đó, rất cần
có một quy chuẩn để tránh những mẫu thuẫn, hạn chế rủi ro và bảo vệ quyền lợi cho
cả hai bên, Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã ban hành các điều khoản thương
mại quốc tế - Incoterms.
Mặc dù chỉ là thông lệ quốc tế nhưng từ khi ra đời cho tới nay, incoterms trở
thành điều kiện không thể thiếu trong đa số các hợp đồng thương mại. Trải qua
nhiều lần sửa đổi bổ sung, Incoterms 2010 là bộ quy tắc cập nhật mới nhất, đảm bảo
cả quyền lợi của bên nhập khẩu lẫn bên xuất khẩu và đã chính thức có hiệu lực từ
ngày 1/1/2011 kế thừa và hoàn thiện hơn cũng như tăng cường tính chặt chẽ trong
các hợp đồng thương mại. Vì thế, bài tiểu luận tập trung vào:
- Sơ lược về hình thành và phát triển của Incoterms
- Phân tích tính mới mẻ, hoàn thiện hơn trong Incoterms 2010
- Việc các doanh nghiệp Việt Nam và thế giới hiện nay áp dụng Incoterms như
thế nào?
- Hạn chế trong khi áp dụng Incoterms và các đề xuất để các doanh nghiệp Việt
Nam sử dụng hiệu quả nhất.
Trang 2 / 33
Nhóm 3_T01_K25
Danh mục bảng biểu và các từ viết tắt
Hình 2.1 Biểu đồ thể hiện chi phí và rủi ro giữa bên bán và bên mua
Bảng 3.1 Bảng so sánh điểm giống nhau giữa Incoterms 2000 và 2010
ICC International Champer of Commerce
EXW Ex Works (Giao tại xưởng)
FCA Free Carrier (Giao cho người chuyên chở)
FAS Free alongside Ship (Giao dọc mạn tàu)
FOB Free on Board (Giao lên tàu)
CPT Carriage paid to (Cước phí trả tới)
CIP Carriage and insurance paid to (Cước phí và bảo hiểm trả tới)
CFR Cost and Freight (Tiền hàng và cước phí)
CIF Cost, insurance and freight (Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí)
DAT Delivered at terminal (Giao tại bến)
DAP Delivered at Place (Giao tại nơi đến)
DDP Delivered Duty paid (Giao hàng đã nộp thuế)
L/C Letter of Credit
THC Terminal Handling Charge
Trang 3 / 33
Nhóm 3_T01_K25
Mục lục
Trang 4 / 33
Nhóm 3_T01_K25
I. TỔNG QUAN VỀ INCOTERMS.
1. Khái niệm
Incoterms (viết tắt của International Commerce Terms - Các điều khoản
thương mại quốc tế) là một bộ các quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và
sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Incoterms quy định những quy tắc có liên quan
đến giá cả và trách nhiệm của các bên (bên bán và bên mua) trong một hoạt động
thương mại quốc tế.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Incoterms
Việc bán, thanh toán tiền hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người mua nước
ngoài chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với thương mại trong nước. Để giảm bớt
những khó khăn trong việc hiểu những quy định của các nước, Phòng thương mại
quốc tế (ICC) đã soạn thảo ra Incoterms (International Commerce Terms). Năm 1936,
phòng Thương mại quốc tế ICC – International Champer of Commerce tại Paris đã
phát hành Incoterms quy định quốc tế, để giải thích các điều kiện thương mại để giải
quyết những vấn đề tồn tại, do những bất đồng giữa luật địa phương và những điều
cốt yếu trong ngoại thương gây ra, cũng để quy chuẩn nhiều cách hiểu cho một thuật
ngữ. Ngoài ra, Incoterms nhằm thống nhất tập quán thương mại quốc tế, tránh được
những vụ tranh chấp và kiện tụng làm lãng phí thời gian và của cải của con người và
xã hội.
Từ đó đến nay, Incoterms đã được sửa đổi và bổ sung bảy lần vào các năm
1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và năm 2010 nhằm phù hợp với thực tiễn
thương mại quốc tế. Incoterms ra đời lần sau hoàn thiện hơn lần trước, nhưng
không phủ định lần trước.
Incoterms được công nhận và sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới, quy định
các điều khoản về giao nhận hàng hoá, trách nhiệm của các bên mua, bán về thanh
toán tiền vận tải, chi phí hải quan, bảo hiểm hàng hoá, tổn thất và rủi ro trong quá
trình vận chuyển, thời điểm chuyển giao trách nhiệm về hàng hoá.
Trang 5 / 33
Nhóm 3_T01_K25
- Incoterms 1980
Gồm 14 điều kiện: Ex Works; Free Carrier; Free on Rail/Free on Truck; Fob
Airport; Free alongside Ship; Free on Board; Cost and Freight; Cost, insurance and
freight; Freight Carriage paid to; Freight Carriage and insurance paid to; Ex Ship; Ex
Quay; Delivered at frontier; Delivered Duty paid.
- Incoterms 1990
Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ;
DDU; DDP.
- Incoterms 2000
Gồm 13 điều kiện: EXW; FCA; FAS; FOB; CFR; CIF; CPT; CIP; DAF; DES; DEQ;
DDU; DDP.
- Incoterms 2010
Gồm 11 điều kiện : EXW; FCA; CPT; CIP; DAT; DAP; DDP; FAS; FOB; CFR; CIF.
3. Vai trò của Incoterm
Kể từ khi Incoterms được ICC soạn thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng
mang tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát
triển của thương mại quốc tế. Incoterms 2010 có tính đến sự xuất hiện ngày càng
nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan, việc sử dụng thông tin liên lạc bằng điện tử
trong kinh doanh ngày càng tăng, mối quan tâm cao về an ninh trong lưu chuyển
hàng hoá và cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms 2010 cập nhật và gom
những điều kiện “giao hàng tại nơi đến”, giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống
11, trình bày nội dung một cách đơn giản và rõ ràng hơn. Incoterms 2010 cũng là
bản điều kiện thương mại đầu tiên đề cập tới cả người mua và người bán một cách
hoàn toàn bình đẳng.
Incoterms được tạo ra với mục đích mở rộng các nơi diễn ra những thỏa thuận về chi
phí, về rủi ro tiềm ẩn trong việc lưu kho hàng hóa sản phẩm công nghiệp và vận tải,
cũng như thỏa thuận về chi phí lập và sở hữu các chứng từ liên quan.
Từ đó, có thể nhận thấy 5 vai trò quan trọng của Incoterm như sau:
a) Incoterms là một bộ các quy tắc nhằm hệ thống hóa các tập quán thương mại
quốc tế được áp dụng phổ biến bởi các doanh nhân trên khắp thế giới.
Trang 6 / 33
Nhóm 3_T01_K25
b) Là một ngôn ngữ quốc tế trong giao nhận và vận tải hàng hóa ngoại thương.
c) Là phương tiện quan trọng để đẩy nhanh tốc độ đàm phán, xây dựng hợp
đồng ngoại thương, tổ chức thực hiện các hợp đồng ngoại thương.
d) Là cơ sở quan trọng để xác định giá cả mua bán hàng hóa.
e) Là căn cứ pháp lý quan trọng để thực hiện khiếu nại và giải quyết tranh chấp
(nếu có) giữa người bán và người mua trong quá trình thực hiện hợp đồng
ngoại thương.
Trang 7 / 33
Nhóm 3_T01_K25
II. CÁC ĐIỀU KIỆN INCOTERMS 2010
1. Giải thích một số thuật ngữ
+ Người chuyên chở (carrier): là người được ký hợp đồng vận tải với người
bán/người mua.
+ Thủ tục Hải quan: bao gồm những công việc như xuất trình chứng từ, kiểm
tra an ninh, cung cấp thông tin và xuất trình hàng hóa để kiểm tra theo yêu cầu của
HQ.
+ Giao hàng (delivery): là địa điểm rủi ro và tổn thất về hàng hóa được di
chuyển từ người bán sang người mua.
+ Delivery documents: là chứng từ chứng minh cho việc giao hàng, có thể là
chứng từ gốc hoặc điện tử, có thể là một biên lai.
+ Electronic record/procedure: là một hay nhiều thông điệp điện tử, tương
đương với chứng từ truyền thống.
+ Packing: Chỉ bao gồm việc đóng gói theo yêu cầu của HĐ mua bán hoặc vận
chuyển
2. Các điều kiện Incoterm
Incoterms 2010 có 11 điều kiện và có thể chia thành 4 nhóm:
Nhóm E: EXW (Giao tại xưởng)
Nhóm F: FCA (Giao cho người chuyên chở), FAS (Giao dọc mạn tàu),
FOB (Giao lên tàu)
Nhóm C: CFR(Tiền hàng và cước phí), CIF(Tiền hàng, bảo hiểm và cước
phí), CPT (Cước phí trả tới), CIP (Cước phí và bảo hiểm trả tới).
Nhóm D: DAT (Giao tại bến), DAP (Giao tại nơi đến), DDP (Giao hàng đã
nộp thuế).
Trang 8 / 33
Nhóm 3_T01_K25
Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện chi phí và rủi ro giữa bên bán và bên mua
2.1. EXW (Giao tại xưởng):
Quy định người mua sẽ chịu toàn bộ phí tổn và rủi ro trong việc đưa hàng từ
đầu người bán đến điểm cuối cùng. Người bán có trách nhiệm đặt hàng dưới quyền
định đoạt của người mua tại nơi giao hàng (xưởng, nhà máy, nhà kho).
Điều kiện này phù hợp với thương mại nội địa, và thể hiện trách nhiệm tối
thiểu của người bán.
Người bán không có nghĩa vụ với người mua về việc xếp hàng, mặc dù trên
thực tế người bán có điều kiện hơn để thực hiện công việc này.
Người bán chỉ có nghĩa vụ hỗ trợ người mua khi có yêu cầu thực hiện thông
quan xuất khẩu chứ không có nghĩa vụ làm thủ tục hải quan. Như vậy người mua
Trang 9 / 33
Nhóm 3_T01_K25
không nên sử dụng EXW khi không thể trực tiếp hoặc gián tiếp làm thủ tục xuất
khẩu.
Người mua có nghĩa vụ rất hạn chế trong việc cung cấp thông tin cho người
bán liên quan đến xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên, người bán vẫn cần có một số
thông tin như để tính thuế hoặc lập báo cáo.
Cả người bán và người mua đều không có nghĩa vụ đối với nhau về việc ký kết
hợp đồng vận tải và hợp đồng bảo hiểm.
Như vậy, người bán nên sử dụng điều kiện này khi muốn bán hàng mà không
phải làm thủ tục gì.
2.2. FCA (Giao cho người chuyên chở):
Quy định người bán có nghĩa vụ giao hàng, làm thủ tục xuất khẩu cho đến tận
khi giao cho nhà chuyên chở hoặc một người khác được chỉ định bởi người mua tại
cơ sở của người bán hoặc tại địa điểm đã được chỉ định, trong thời hạn thống nhất.
Rủi ro được chuyển cho người mua tại địa điểm giao hàng, do đó các bên cần
phải quy định rõ địa điểm tại nơi được chọn để giao hàng. Nếu người mua không chỉ
rõ địa điểm giao hàng chính xác, người bán sẽ chọn trong những điểm hoặc địa điểm
nơi mà nhà chuyên chở sẽ nhận hàng. Khi người bán được yêu cầu hỗ trợ tìm và ký
hợp đồng với nhà chuyên chở, trách nhiệm rủi ro và phí tổn người mua sẽ phải gánh
chịu. Người bán không phải chịu trách nhiệm vận chuyển.
Điều kiện này có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải và có thể sử dụng
khi có nhiều phương thức vận tải tham gia, phù hợp với cả thương mại nội địa và
thương mại quốc tế.
Nếu các bên định giao hàng tại cơ sở của người bán thì nên quy định địa chỉ
cơ sở của người bán là nơi giao hàng và lúc này người bán chịu trách nhiệm bốc dỡ
hàng. Nếu các bên có ý định giao hàng tại một địa điểm khác thì các bên phải chỉ ra
địa điểm giao hàng khác đó, lúc này người bán không chịu trách nhiệm bốc hàng, kể
cả dỡ hàng mà chỉ giao hàng cho người vận chuyển trên phương tiện vận tải của
người bán.
Điều kiện FCA đòi hỏi người bán phải thông quan xuất khẩu, nếu có. Tuy vậy,
người bán không có nghĩa vụ thông quan nhập khẩu , trả thuế nhập khẩu hoặc trả
Trang 10 / 33
Nhóm 3_T01_K25
chi phí làm thủ tục thông quan nhập khẩu. Người bán không có nghĩa vụ đối với
người mua về ký kết hợp đồng vận tải. Tuy vậy, nếu người mua yêu cầu hoặc đó là
tập quán thương mại thì người bán có thể ký hợp đồng vận tải theo điều kiện thông
thường với chi phí và rủi ro do người mua chịu.
Cả 2 bên đều không có nghĩa vụ đối với nhau về ký kết hợp đồng bảo hiểm.
2.3. FAS (Giao dọc mạn tàu):
Quy định người bán được cho là hoàn tất nghĩa vụ giao hàng khi hàng được
đặt cạnh mạn tàu tại cảng giao hàng, từ thời điểm này người mua sẽ chịu mọi phí
tổn về rủi ro về hàng hóa. Người mua đồng thời có nghĩa vụ làm thủ tục xuất khẩu.
Điều kiên này chỉ áp dụng với vận tải biển hoặc vận tải đường thủy nội địa. “Giao dọc
mạn tàu” có nghĩa là người bán giao hàng khi hàng hóa được đặt dọc mạn con tàu
do người mua chỉ định (ví dụ đặt trên cầu cảng hoặc trên xà lan) tại cảng giao hàng
chỉ định trong thời hạn nhất định.
Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa di chuyển từ người bán sang
người mua khi hàng hóa được đặt dọc mạn tàu, và người mua chịu mọi chi phí kể từ
thời điểm này trở đi. Do đó, các bên nên quy định càng rõ càng tốt về địa điểm xếp
hàng tại cảng giao hàng chỉ định. Người bán, hoặc phải đặt hàng hóa dọc mạn tàu
hoặc mua sẵn hàng hóa đã được giao như vậy. Từ “mua sẵn” ở đây áp dụng cho việc
bán hàng nhiều lần trong quá trình vận chuyển (bán hàng theo lô) rất phổ biến trong
mua bán hàng nguyên liệu.
Khi hàng được đóng trong container, thông thường người bán phải giao hàng
cho người chuyên chở tại bến, chứ không giao dọc mạn tàu. Trong trường hợp này,
điều kiện FAS là không phù hợp, mà nên sử dụng điều kiện FCA.
Điều kiện FAS yêu cầu người bán phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu (nếu
có). Tuy vậy, người bán không có nghĩa vụ thông quan nhập khẩu, trả các khoản thuế
nhập khẩu hoặc làm thủ tục thông quan nhập khẩu.
Việc ký kết hợp đồng vận tải và bảo hiểm tương tự như điều kiện FCA.
Trang 11 / 33
Nhóm 3_T01_K25
2.4. FOB (Giao lên tàu):
Quy định người bán giao hàng lên con tàu do người mua chỉ định tại cảng xếp
hàng chỉ định hoặc mua được hàng hóa đã sẵn sàng để giao như vậy. Người bán có
nghĩa vụ làm thủ tục xuất khẩu.
Rủi ro về mất mát hoặc hư hỏng của hàng hóa di chuyển khi hàng hóa được
xếp lên tàu, và người mua chịu mọi chi phí kể từ thời điểm này trở đi. Điều kiện này
chỉ áp dụng với vận tải biển hoặc vận tải đường thủy nội địa. Điều kiện FOB có thể
không phù hợp khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở trước khi được xếp lên
tàu, ví dụ hàng hóa trong container thường được giao tại các bến bãi (terminal).
Trong trường hợp này nên sử dụng điều kiện FCA. Điều kiện FOB yêu cầu, người bán
phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu (nếu có). Tuy vậy, người bán không có nghĩa
vụ thông quan nhập khẩu, trả các khoản thuế nhập khẩu hoặc làm thủ tục thông
quan nhập khẩu.
Người mua phải ký hợp đồng vận tải với chi phí của mình để vận chuyển hàng
hóa từ cảng giao hàng được chỉ định, trừ trường hợp hợp đồng vận tải do người bán
ký theo yêu cầu của người mua hay do tập quán thương mại. Người bán có trách
nhiệm thông báo cho người mua rằng hàng đã được giao hoặc tàu đã không nhận
hàng theo thời gian đã thống nhất. Còn người mua phải thông báo cho người bán
đầy đủ về tên tàu, chỗ bốc hàng, và khi cần thiết, thời gian giao hàng lựa chọn trong
thời hạn đã thống nhất. Người bán chịu trách nhiệm bốc dỡ hàng lên tàu và hết
trách nhiệm khi đã giao hàng lên tàu.
Như vậy, cơ sở để phân biệt, chia ra 3 nhóm FCA, FAS, FOB chính là trách
nhiệm vận chuyển hàng từ cơ sở của người bán lên tàu và trách nhiệm chuyên chở
tăng dần từ FCA FAS FOB. Đối với nhóm F, người bán chịu chi phí làm thủ tục
xuất khẩu, nộp thuế và lệ phí xuất khẩu.
2.5. CFR (Tiền hàng và cước phí):
Quy định người bán chịu các phí tổn và trả cước vận chuyển đến cảng đích.
Thời điểm chuyển giao rủi ro từ người bán sang người mua là ngay sau khi hàng
được giao qua lan can tàu tại cảng xuất. Người bán có nghĩa vụ làm các thủ tục xuất
Trang 12 / 33
Nhóm 3_T01_K25
khẩu. Rủi ro về mất mát hay hư hỏng của hàng hóa di chuyển khi hàng được giao lên
tàu. Ở đây, người bán phải chịu thêm chi phí chuyên chở đến cảng dỡ hàng, còn chi
phí dỡ hàng do người mua chịu nếu có thỏa thuận. Giá CFR = Giá FOB + F (Cước phí
vận chuyển).
Điều kiên này chỉ áp dụng với vận tải biển hoặc vận tải đường thủy nội địa.
Điều kiện này có hai điểm tới hạn, vì rủi ro di chuyển và chi phí được phân chia ở các
địa điểm khác nhau. Trong khi hợp đồng luôn chỉ rõ cảng đến thì nó có thể lại không
chỉ rõ cảng xếp hàng – là nơi mà rủi ro di chuyển sang người mua. Nếu cảng gửi
hàng có ý nghĩa đặc biệt đối với người mua, thì các bên quy định trong hợp đồng
càng cụ thể càng tốt.
Các bên xác định càng cụ thể càng tốt địa điểm đến đã thỏa thuận, vì các chi
phí cho đến địa điểm đó do người bán chịu. Người bán nên ký các hợp đồng vận tải
đến đúng địa điểm này. Nếu theo hợp đồng chuyên chở, người bán phải trả các chi
phí liên quan đến việc dỡ hàng tại địa điểm chỉ định ở cảng đến, thì người bán không
có quyền đòi lại chi phí đó từ người mua trừ khi hai bên có thỏa thuận khác. Người
bán phải, hoặc giao hàng lên tàu, hoặc mua hàng đã giao để vận chuyển hàng đến
cảng đến. Ngoài ra, người bán phải ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa hoặc “mua”
một hợp đồng như vậy. Từ “mua” ở đây áp dụng cho việc bán hàng nhiều lần trong
quá trình vận chuyển (bán hàng theo lô) rất phổ biến trong mua bán hàng nguyên
liệu.
CFR không phù hợp khi hàng hóa được giao cho người chuyên chở trước khi
hàng được giao lên tàu, ví dụ hàng đóng trong container, mà thường là giao hàng tại
bến, bãi. Trong trường hợp này nên sử dụng điều kiện CPT. CFR đòi hỏi người bán
thông quan xuất khẩu cho hàng hóa (nếu có). Tuy vậy, người bán không có nghĩa vụ
thông quan nhập khâu, trả bất kỳ loại thuế nhập khẩu nào hay tiến hành bất kỳ một
thủ tục hải quan nhập khẩu nào.
Người bán phải thuê hoặc mua hợp đồng vận tải hàng hóa từ chỗ giao hàng
(nếu có) tại địa điểm giao hàng đến cảng đích được chỉ định, hoặc nếu đã thống
nhất, đến một chỗ cụ thể tại cảng đích đó.
Trang 13 / 33