KTS Hoàng Hữu Phê - Lý thuyết & công nghệ cho cộng đồng
Trong mỗi tác phẩm kiến trúc, điều tạo nên sự khác
biệt dễ nhận thấy của KTS Hoàng Hữu Phê là mối
quan hệ hữu cơ giữa lý thuyết và thực tiễn. Dù với
quy mô và cấp độ nào, các sáng tác kiến trúc/quy
hoạch của ông luôn có sự bài bản và thống nhất
nhằm mang lại thành quả và lợi ích hướng đến
nhiều người. Với ông, lựa chọn làm nghề bằng
những lý thuyết mới và các đột phá về công nghệ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống
đô thị cho số đông, là cách để cảm thấy ý nghĩa của quá trình sáng tạo.
KTS Hoàng Hữu Phê
2001 - nay: Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc Vinaconex R&D, Hà Nội, Việt Nam
1999 - 2000: Trợ lý Tổng Giám đốc Vinaconex
1997 - 1999: Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Khoa Quy hoạch - Kiến trúc, Đại học Tổng
hợp London (UCL),
Vương quốc Anh
1998: Bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ (Quy hoạch Đô thị) tại Đại học Tổng hợp
London (UCL)
1996 - 1997: Giảng dạy tại Trường Kiến trúc Hull, Vương quốc Anh
05 - 08 /1996: Chuyên viên Dự án ISD, VNCC, Bộ Xây dựng
1991 - 1997: Nghiên cứu sinh Tiến sĩ, Khoa Quy hoạch Phát triển, Đại học Tổng hợp
London (UCL)
1988 - 1991: Cộng tác viên nghiên cứu tại khoa Quy hoạch Dân cư, Học viện Công nghệ
Châu Á (AIT), Thái Lan
1987 – 1988: Theo học chương trình Thạc sỹ, AIT, Thái Lan
“Quan điểm sáng tác của tôi không chỉ đơn giản là nhấn mạnh các thông số kỹ thuật/công
nghệ, vì theo tôi kỹ thuật/công nghệ chỉ chiếm 30 - 35% các yếu tố dẫn đến thành công,
trong khi những yếu tố nghiên cứu đột phá luôn chiếm tỷ lệ quyết định. Nếu có gì để phân
biệt với những người khác thì có lẽ trong quá trình hành nghề tôi luôn giữ mối liên hệ giữa
lý thuyết và thực tiễn. Vào thời điểm xảy ra khủng hoảng kinh tế, đặc biệt đối với thị
trường BĐS, mọi người mới nhận ra rằng các luận điểm về kinh tế đô thị trước đây quả
thực có vấn đề. Mô hình động trong lý thuyết tôi đề xuất về cư trú đô thị luôn có sự điều
chỉnh để phù hợp với những thay đổi của xã hội. Bản thân lý thuyết này là sự trở về với
các giá trị nhân bản sau một thời gian dài bận rộn với các mô hình cân bằng (equilibrium)
cứng nhắc”.
KIẾN TRÚC SƯ CỦA CÁC LÝ THUYẾT NHÀ Ở VÀ ĐÔ THỊ
Là tác giả của rất nhiều ý tưởng quy hoạch khu đô thị trên khắp cả nước như Trung Hòa
Nhân Chính (Hà Nội), khu đô thị mới Splendora - Bắc An Khánh (Hà Nội), khu đô thị du
lịch Cái Giá (Cát Bà - Hải Phòng), khu đô thị mới Hưng Điền (TP Hồ Chí Minh), khu đô
thị phía Tây Nam Gia Lâm (Hà Nội), và gần đây nhất là Khu nhà ở Xã hội Bắc An Khánh
(Hoài Đức - Hà Nội) nhưng không phải ai cũng biết, bản thân KTS Hoàng Hữu Phê là
người đã có nhiều năm nghiên cứu các lý thuyết về đô thị và nhà ở. Hầu hết các lý thuyết
này đều được chuyển tải thành các ý tưởng quy hoạch hiện thực, góp phần tạo nên thành
công cho các khu đô thị mới mà ông và các đồng nghiệp thực hiện.
Từ khi thành phố trở thành một đối tượng nghiên cứu, giới học thuật ngạc nhiên phát hiện
ra sự tương đồng đáng kể về mặt hình thái của các đô thị ở nhiều nơi trên thế giới. Khi
nhận thấy mô hình cấu trúc đô thị của Alonso (1964), được phát triển từ mô hình của Von
Thunen (1826) không còn dự báo được chính xác xu thế phát triển các đô thị, đặc biệt là
tại các quốc gia đang phát triển trong các điều kiện mới của thế kỷ XXI, bằng cách thông
qua các phân tích có sử dụng công cụ thống kê và tin học hiện đại để làm nổi rõ mối tương
quan toán học giữa các thành tố tạo nên giá trị của nhà ở/BĐS, KTS Hoàng Hữu Phê đã
cùng giáo sư Patrick Wakely xây dựng nên lý thuyết “Vị thế - Chất lượng”, và công bố tại
Đại học Tổng hợp London (UCL) vào năm 2000.
Nhờ các đóng góp về mặt lý luận và tiềm năng ứng dụng, công trình đã được tặng Giải
thưởng Kỷ niệm Donald Robertson (Donald Robertson Memorial Prize 2000) cho nghiên
cứu xuất sắc nhất trong năm 2000 của tờ Đô thị học (Urban Studies), một tạp chí quốc tế
hàng đầu xuất bản tại Vương quốc Anh. Đây là giải thưởng uy tín về mặt học thuật trong
lĩnh vực nghiên cứu đô thị trên thế giới, được trao tặng mỗi năm một lần.
Được xây dựng như một hệ thống lý luận tổng quát nhằm giải thích sự hình thành và phát
triển của cấu trúc đô thị trong nhiều hình thái kinh tế khác nhau, các hệ quả của lý thuyết
Vị thế - Chất lượng đã dẫn đến việc xây dựng thành công một mô hình hoàn toàn mới về
cư trú đô thị. Trong đó sự đánh đổi giữa chi phí đi lại và chi phí nhà ở trong các mô hình
cổ điển của Alonso (1964), Muth (1969) được thay thế bằng sự đánh đổi giữa vị thế xã hội
và chất lượng nhà ở. Về mặt thực tiễn, lý thuyết Vị thế - Chất lượng cho phép tính toán với
độ chính xác cao giá trị nhà ở/BĐS, cũng như tạo điều kiện đưa ra các dự báo về hiện
tượng bong bóng. Từ các luận điểm cơ bản của lý thuyết Vị thế - Chất lượng, ông đã tìm
ra những cách ứng dụng phù hợp, thể hiện trong các ý tưởng làm tiền đề cho các khu đô
thị mới đã và sẽ được xây dựng tại Việt Nam.
Khu đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính được phát triển dựa trên các ý tưởng về vai trò
hàng đầu của giao tiếp giữa các cư dân (face-to-face contact), như một điều kiện căn bản
để nảy sinh sáng tạo. Đây là một môi trường nhà ở đô thị hướng đến tầng lớp trẻ có trình
độ chuyên môn cao, hay còn gọi là tầng lớp yuppies (young urban professionals), vốn là
động lực cho các nền kinh tế mới nổi trên thế giới. Yêu cầu giao tiếp đã dẫn đến giải pháp
nâng mật độ dân cư cao đến một mức hợp lý, hay còn gọi là “mức tới hạn để nảy sinh giao
tiếp” cho các khu ở, đồng thời với việc tạo ra các không gian mở phong phú khuyến khích
sinh hoạt cộng đồng.
Ý tưởng về bù giá chéo để xây dựng cộng đồng thành công được lồng ghép trong mô hình
quy hoạch khu nhà ở xã hội Bắc An Khánh, lại nhắm đến việc xây dựng một cách hiệu quả
nhất các dự án phức hợp có cả nhà ở xã hội và nhà ở thương mại. Nếu tiến hành xây dựng
nhà ở thương mại trước trong bối cảnh thị trường BĐS trầm lắng dự án chắc chắn sẽ đi
vào bế tắc. Giải pháp bù giá chéo sử dụng các chính sách hỗ trợ, đầu tư xây dựng cộng
đồng nhà ở xã hội thành công, sau đó phát triển thêm các loại hình nhà ở thương mại theo
một kịch bản đầu tư được tính toán trước, tạo ra giá trị lợi nhuận bù đắp cho chi phí, tạo
nên một mặt bằng giá đủ hấp dẫn cho bộ phận dân cư đô thị có mức thu nhập trung bình
và thấp.
Là người có thời gian dài liên tục làm nghề và sáng tạo kiến trúc, KTS Hoàng Hữu Phê
cảm thấy có đôi chút lo lắng khi vẫn còn xu thế chỉ ưu tiên nhiều cho các kỹ năng thực tế,
mà lại bỏ qua nghiên cứu thấu đáo lý thuyết ở các bậc đào tạo nói chung hay tình trạng các
cơ sở lý thuyết làm nền tảng cho quy hoạch đô thị ở nước ta không được cập nhật thường
xuyên, cũng như khó kiểm chứng về tính khả thi, bởi sự khó khăn trong việc tiếp cận đến
cả các nguồn tri thức mới cũng như đến các nguồn số liệu tin cậy về kinh tế xã hội. Với
ông, kiến trúc sư sẽ khó làm nghề một cách bài bản, nếu không nắm vững các nền tảng lý
thuyết giúp chỉ ra các con đường đi đến thành công trong thực tế.
Đại học Quốc gia Hà Nội tại Hòa Lạc
Khu đô thị di tích cái Giá, Cát Bà, Hải Phòng
Khu ĐTM Trung Hòa Nhân Chính, Hà Nội
Khu nhà ở xã hội Bắc An Khánh, Hòa Đức, Hà Nội
Khu di tích Hòn Ngọc Châu Á, Phú Quốc, Kiên Giang
Khu nhà ở xã hội Bắc An Khánh, Hà Nội
Khu chức năng đô thị phía Tây Nam huyện Gia Lâm, Hà Nội
KIẾN TRÚC SƯ CỦA NHỮNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ CỘNG ĐỒNG
Bên cạnh các lý thuyết về quy hoạch và đô thị, công nghệ mới trong thiết kế xây dựng nhà
ở luôn là mũi nhọn tập trung tạo nên các ưu thế thực tiễn vượt trội từ chính những lao
động sáng tạo của KTS Hoàng Hữu Phê. Thiết kế nhà cao tầng là mong muốn được ông ấp
ủ từ thời sinh viên, với chìa khóa cơ bản là các công nghệ xây dựng mới. Có rất nhiều câu
chuyện thú vị trong tiếp cận và học hỏi công nghệ chuyên dụng từ các đồng nghiệp nước
ngoài. Ông cũng đặt ra các tiêu chí các công nghệ đưa ra ứng dụng phải tiên tiến và hiệu
quả, đặc biệt phải sử dụng được một cách rộng rãi, nhằm mang lại lợi ích cho cộng đồng.
Không chủ tâm chọn những hình thức sáng tác tỉa tót chỉ chú trọng vào các chi tiết để
phục vụ cho ý thích một vài cá nhân nào đó, các thiết kế nhằm đến việc nâng cao chất
lượng sống cho số đông mới là điều bản thân ông thực sự hướng đến.
Những năm 1980, công trình Rạp xiếc Hà Nội do ông làm chủ trì kiến trúc được coi là thử
thách lớn đầu tiên về thiết kế công trình công cộng. Phương án của ông và các đồng sự
được chọn sau một quá trình dài cân nhắc và phản biện. Sau khi hoàn thành, đây cũng là
công trình kết cấu thép không gian nhịp lớn vào loại đáng kể ở Hà Nội lúc bấy giờ, đủ chỗ
cho hơn 2.000 khán giả và có độ cao phòng biểu diễn 18m từ đáy sàn thao tác trên mái đến
mặt sàn diễn. Rất nhiều thông số thiết kế như tính toán thoát hiểm, thiết kế kết cấu chịu tải
trọng lớn đã trở thành bài học kinh nghiệm cho các công trình công cộng mà ông thiết kế
sau này.
Công nghệ là một trong các yếu tố cốt lõi để thực hiện thiết kế thành công và có hiệu quả
các tòa nhà chung cư cao tầng tại Khu đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính. Đây là công
trình nhà ở cao tầng lần đầu tiên ứng dụng các phương pháp công nghiệp sản xuất nhà ở
hàng loạt một cách triệt để, bao gồm công nghệ cốp pha trượt (slip-form) tiên tiến từ Cộng
hòa Áo, phối hợp với công nghệ sàn tiền chế dự ứng lực (prestressed precast floor slabs)
từ Vương quốc Bỉ. Các toà nhà cao đến 34 tầng đã sử dụng một phần giải pháp tiền chế,
đối với các nhà dưới 17 tầng, giải pháp tiền chế còn bao gồm cả kết cấu sàn và cột. Điều
này đã giúp giảm khoảng 20% giá thành phần thô, và trở thành hình mẫu tiêu biểu cho rất
nhiều các công trình tiếp theo. Bố trí mặt bằng của các tòa nhà cao tầng được ông đặc biệt
dành nhiều thời gian nghiên cứu một cách tỷ mỷ, bởi tính điển hình và lặp lại của một số
giải pháp có thể mang lại khả năng tiết kiệm rất nhiều chi phí, mang lại lợi ích cho nhiều
người.
Nếu các tòa nhà cao tầng Trung Hòa - Nhân Chính là cuộc chơi công nghệ ở thời hiện tại,
thì công trình Vietinbank Tower là sự bước chân vào thế giới của thời tương lai. Các ý
tưởng mạnh mẽ của đơn vị tư vấn nổi tiếng thế giới Foster + Partners được cụ thể hóa
thông qua các giải pháp và tính toán của tư vấn địa phương là Vinaconex R&D, những
người chịu trách nhiệm trực tiếp với các kết quả công việc cho đến khi đưa ra đấu thầu và
sử dụng công trình, với một khối lượng khổng lồ hơn 9.000 bản vẽ. Đây cũng là công trình
kết cấu thép quy mô lớn đầu tiên Việt Nam với khối lượng hơn 15 nghìn tấn. Lần đầu tiên
trong ngành xây dựng, một đơn vị tư vấn Việt Nam nằm trong một nhóm tư vấn đa quốc
gia đã làm việc một cách hiệu quả thông qua các phương thức thông tin liên lạc hiện đại
như như cầu truyền hình, hội nghị trực tuyến (video conference) để thực hiện một công
trình thiết kế đẳng cấp quốc tế có khối lượng công việc lớn như vậy.
Nhìn lại quãng đời làm nghề, KTS Hoàng Hữu Phê có thể tự hào là người mở đầu một số
hướng công việc: Lần đầu tiên thiết kế các công trình cao tầng theo phương pháp công
nghiệp hóa sử dụng hiệu quả công nghệ lõi cứng và sàn tiền chế tại Việt Nam; Lần đầu
tiên thiết kế nhà ở trên 30 tầng; Lần đầu tiên thiết kế penthouses cũng như các tầng hầm
liên hợp có diện tích lớn tại các chung cư cao tầng. Ông còn tham gia thực hiện thiết kế
các công trình có quy mô thuộc loại lớn nhất trong nước như tòa tháp VietinBank 68 tầng,
chiều cao 365m. Công ty Vinaconex R&D do ông làm giám đốc là đối tác của nhiều
công ty kiến trúc nổi tiếng trên thế giới: Foster + Partners (Vương Quốc Anh), HOK (Mỹ),
Nihon Sekkei (Nhật Bản), Dissing + Weitling (Đan Mạch)
Công ty do ông lãnh đạo cũng là nhà tổ chức cho các cuộc thi kiến trúc tầm cỡ quốc tế ở
Việt Nam, với sự tham gia của các nhóm tác giả dẫn đầu bởi các kiến trúc sư lỗi lạc như
Norman Foster (Vương quốc Anh), Renzo Piano (Italia), Arata Isozaki (Nhật), Wolf Prix
(Áo)
"Sáng tạo là mong muốn của tôi từ khi còn nhỏ và thật thú vị khi công trình mình làm
được phục vụ cho số đông. Công sức của mình có thể không có nhiều người biết, nhưng
tham gia vào việc làm cho hàng nghìn người dân trong các khu đô thị được hưởng chất
lượng sống ngày càng cao hơn, chính là hạnh phúc trong cuộc đời làm nghề."
Nhà thi đấu 4200 chỗ, Trung tâm thể thao Quốc gia tại Nhổn, Hà Nội
Khu đô thị du lịch Cái Giá, Cát Bà, Hải Phòng
Khu đô thị Vụng Hương, Đồ Sơn, Hải Phòng
Khu nhà ở xã hội Hưng Điền
Sân chơi khu Trung Hòa Nhân Chính và NO5
Bến thuyền tại khu nhà ở xã hội Hưng Điền
Viện dầu khí Hà Nội
Khu chức năng đô thị phía Tây Nam huyện Gia Lâm, Hà Nội
Vietcombank Tower, Khu đô thị Ciputra, Hà Nội
MONG MUỐN VỀ TƯƠNG LAI PHÁT TRIỂN NHÀ CAO TẦNG
Tương lai phía trước còn rất nhiều thử thách, với KTS Hoàng Hữu Phê thời gian dường
như không phải là giới hạn trong nghiên cứu và sáng tạo kiến trúc. Là một người cương
quyết về các luận điểm khoa học, ông cũng mong muốn có nhiều người đồng cảm hơn
trong các tìm tòi về lý thuyết khoa học để có thể tạo ra hiệu ứng cộng hưởng và mang lại
nhiều hơn lợi ích thiết thực cho cộng đồng.
Với việc ứng dụng kết quả nghiên cứu các lý thuyết về nhà ở và đô thị của mình, ông
mong muốn phát triển và thực nghiệm nhiều hơn, đặc biệt với ý tưởng bù giá chéo nhằm
phát triển các cộng đồng đô thị thành công ở Việt Nam. Ông quan niệm mỗi khu ở phải là
một cơ thể đầy đủ sức sống và KTS phải là người góp phần tạo ra những cơ hội phát triển
thịnh vượng, có bản sắc riêng để mỗi cư dân đều cảm thấy gắn bó. Ông kỳ vọng với việc
phát triển được những cộng đồng thành công ở các đô thị Việt Nam, để có thể loại bỏ các
khu ở “ổ chuột hiện đại”, tránh lãng phí các nguồn lực đầu tư trong tương lai, thông qua
việc sử dụng các công cụ chính sách để tạo ra những sản phẩm nhà ở có giá cao hơn nhằm
bù giá cho những sản phẩm phục vụ người có thu nhập trung bình và thấp hơn.
Với lĩnh vực thiết kế công trình, ông mong muốn thành lập một nhóm thiết kế siêu cao
tầng tại Việt Nam do các kiến trúc sư và kỹ sư trẻ tuổi đảm nhiệm. Khác với các công
trình cao tầng thông thường, các công trình siêu cao (>150m) đòi hỏi phải sử dụng các kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến cho hầu hết các phần công việc, từ tổ chức không gian kiến
trúc, mặt đứng cho đến kết cấu và trang thiết bị kỹ thuật. Phù hợp với các dự báo nhận
được sự thống nhất cao trong giới chuyên môn về việc các tòa nhà siêu cao tầng sẽ là một
trong các xu hướng phát triển tất yếu của các đô thị trong tương lai, qua các dự án đang
thực hiện, ông tin chắc rằng các KTS và kỹ sư Việt Nam đã, đang và sẽ có đầy đủ khả
năng nắm bắt và thực hiện được các nhiệm vụ phức tạp như các đồng nghiệp của mình ở
các nước tiên tiến trên thế giới.
Hoàng Phương
Nguồn ảnh: Tác giả
Theo Tạp chí Kiến trúc Việt Nam số 6/2013