Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp công nghiệp nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.4 KB, 28 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được hình thành trong cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp. Với chính sách cấp phát - giao nộp, các doanh nghiệp
nhà nước hoạt động trong điều kiện vốn được nhà nước cấp, vật tư nhận theo chỉ
tiêu, sản phẩm sản xuất ra được giao nộp theo quy định nên doanh nghiệp không
còn là một đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thì không được đặt trong môi
trường cạnh tranh, không gắn với thị trường, do đó chậm đổi mới công nghệ và
nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực quản lý yếu kém, hiện tượng lãi giả - lỗ
thật diễn ra phổ biến.
Vì vậy, khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, các
doanh nghiệp nhà nước đã bộc lộ những yếu kém về khả năng cạnh tranh hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Song, vấn đề đổi mới các doanh nghiệp
Nhà nước trở nên cấp thiết hơn bao giờ khi mà nền kinh tế đất nước đang từng
bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới được biểu hiện thông qua
việc gia nhập ASEAN, tham gia AFTA và APEC, sắp tới đây là Tổ chức thương
mại Thế giới (WTO).
Đứng trước những thách thức to lớn và đầy khó khăn như vậy, các doanh
nghiệp công nghiệp Nhà nước cần thiết phải chuyển đổi hình thức sở hữu, thu
hút thêm nguồn lực. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: "Triển
khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để huy
động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm ăn có
hiệu quả, làm cho tài sản nhà nước ngày càng tăng lên, không phải để tư nhân
hoá. Bên cạnh những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sẽ có nhiều doanh
nghiệp nhà nước nắm đa số hay nắm tỷ lệ cổ phần chi phối.Gọi thêm cổ phần
hay bán cổ phần cho người lao động tại doanh nghiệp cho các tổ chức và cho cá
nhaan ngoài doanh nghiệp tuỳ từng trường hợp cụ thể, vốn huy động được phải
dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh".
1
Cổ phần hoá các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước là một giải pháp
hữu hiệu cho việc thực hiện huy động vốn để đầu tư phát triển tạo ra sự biến đổi


về chất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo thế chủ động
trong cạnh tranh ngay thị trường trong nước và vươn ra thị trường thế giới.
Như vậy, huy động vốn thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp công nghiệp
nhà nước là vấn đề cấp bách hiện nay đòi hỏi phải giải quyết. Trên cơ sở lý luận
và thực tiễn, dựa trên quan điểm môn học Kinh tế và quản lý công nghiệp vấn đề
này được xem xét qua một số nội dung sau:
I. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và cơ hội huy động vốn thông
qua cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước.
II. Thực trạng huy động vốn thông qua cổ phần hoá doanh nghiệp
công nghiệp Nhà nước.
III. Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn thông qua cổ
phần hoá doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước.
2
I. CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ CƠ HỘI
HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC
1. Thực chất và đặc điểm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở
nước ta.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN) là thực hiện xã hội
hoá sở hữu, chuyển hình thức kinh doanh một chủ sở hữu Nhà nước trong doanh
nghiệp thành công ty cổ phần, nhiều chủ sở hữu để tạo ra một mô hình doanh
nghiệp phù hợp với nền kinh tế thị trường và đáp ứng được yêu cầu của kinh
doanh hiện đại.
Xét về mặt hình thức: cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc Nhà
nước bán thêm một phần hay toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh
nghiệp Nhà nước cho các đối tượng là cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước
hoặc cho cán bộ quản lý, công nhân viên trong doanh nghiệp để chuyển hình
thức hoạt động sang công ty cổ phần.
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta hiện nay bao gồm những
đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, cổ phần hoá là quá trình chuyển đổi từ doanh nghiệp Nhà nước
sang công ty cổ phần. Một doanh nghiệp Nhà nước hoàn tất quy trình cổ phần
hoá thì doanh nghiệp đó sẽ không còn tồn taị dưới loại hình doanh nghiệp nhà
nước mà chuyển sang loại hình công ty cổ phần, chịu sự điều chỉnh của luật
doanh nghiệp (12/6/1999). Khi đã chuyển hình thức hoạt động sang công ty cổ
phần thì địa vị pháp lý của doanh nghiệp đó hoàn toàn tuân theo quy định của
pháp luật Việt Nam về công ty cổ phần. Tức là, toàn bộ các vấn đề liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp, từ cơ chế quản lý đến cơ chế pháp lý đều phải chịu
sự điều chỉnh của Luật doanh nghiệp.
Thứ hai, cổ phần hoá là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu Nhà
nước sang sở hữu nhiều thành phần: Trước khi thực hiện cổ phần hoá, toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp đều thuộc sở hữu duy nhất Nhà nước. Doanh nghiệp
không phải là chủ sở hữu mà chỉ là người có quyền quản lý và sử dụng tài sản
3
Nhà nước đã đầu tư để thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao
(thông qua chức năng sản xuất kinh doanh). Khi cổ phần hoá, sau đó đã xác định
giá trị doanh nghiệp, xác định phần sẽ chuyển đổi sở hữu, xác định số lượng cổ
phần cần thiết, Nhà nước bán cổ phần cho các cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành
phần kinh tế. Những người mua cổ phần trở thành thành viên của công ty cổ
phần, có quyền sở hữu một phần tài sản của công ty tương ứng với phần vốn
góp, đồng thời phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của công ty ứng với
phần vốn góp vào công ty. Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân Việt
Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt
Nam đều có quyền được mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hoá khi có đủ điều kiện quy định.
Thứ ba, cổ phần hoá tiến hành dưới nhiều hình thức. ở nước ta cổ phần
hoá doanh nghiệp nhà nước được thực hiện dưới 4 hình thức sau đây
2
Một là, giữ nguyên giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp,
phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp: Giá trị cổ phần

của Nhà nước góp vào công ty bằng giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp trừ đi chi phí cổ phần hoá, giá trị ưu đãi cho người lao động và giá trị
phần trả dần của người lao động nghèo theo quy định của Nhà nước.
Hai là, bán một phần giá trị thuộc vốn Nhà nước hiện có tại doanh
nghiệp: Nhà nước sử dụng một phần giá trị thực tế vốn Nhà nước tại doanh
nghiệp để bán cho các cổ đông. Về thực chất đây là hình thức chuyển đổi một
phần quyền sở hữu.
Ba là, tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để thực hiện cổ
phần hoá: Một bộ phận của doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập và hạch toán
riêng giá trị tài sản được tách ra để cổ phần hoá (chẳng hạn: phân xưởng sản
xuất, cửa hàng, bộ phận dịch vụ ).
Bốn là, bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
để chuyển thành công ty cổ phần. Với hình thức này, Nhà nước không tham gia
cổ phần ở công ty cổ phần.
2
TT số 104/1998/TT - BTC
4
Tùy theo đặc điểm của từng ngành, thực trạng của từng doanh nghiệp mà
tiến hành cổ phần hoá theo các hình thức nêu trên.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự điều chỉnh các quan
hệ sở hữu trong các doanh nghiệp nhà nước làm cơ sở đổi mới các quan hệ tổ
chức quản lý và phân phối sản phẩm, thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung vốn
nhằm tạo động lực trong các doanh nghiệp, nâng cao tính hiệu quả trong sản
xuất kinh doanh, hiện đại hoá nền kinh tế.
2. Các cơ hội huy động vốn thông qua cổ phần hoá.
2.1. Cổ phần hoá là con đường huy động vốn hiệu quả
Công ty cổ phần ra đời từ thời kỳ tiền tư bản (TK XVI) cuối thế kỷ XIX
và đầu thế kỷ XX nó mới phát triển rộng rãi. Cùng với sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học - công nghệ đòi hỏi các công ty muốn có sức mạnh cạnh
tranh phải nhanh chóng đổi mới kỹ thuật và công nghệ. Muốn vậy, cần phải có

một số vốn rất lớn mà các ngân hàng không thể nào đáp ứng được. Công ty cổ
phần là hình thức huy động vốn rất nhanh và có hiệu quả, có tác động mạnh đến
quá trình tái sản xuất TBCN.
Ngày nay, công ty cổ phần còn là loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh
rất phổ biến tại các nước có nền kinh tế đang phát triển. Cơ chế hoạt động của
nó rất phù hợp với nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường nói chung, kể cả
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN.
Mô hình công ty cổ phần ra đời đã đáp ứng một cách khá lý tưởng sự tách
biệt hai mặt của sở hữu: Giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng (hay quyền kinh
doanh) trong doanh nghiệp. Đó là mô hình hữu hiệu để huy động vốn và sử dụng
vốn đầu tư cũng như di chuyển linh hoạt các nguồn vốn sang các lĩnh vực khác
nhau theo yêu cầu phát triển trong nền kinh tế thị trường. Đó cũng là nơi để lựa
chọn các cơ hội đầu tư và phân tán rủi ro cho tất cả những nhà đầu tư.
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân và các cổ động chỉ chịu trách nhiệm pháp lý hữu hiệu trong phần góp vốn
của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động
những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của
5
công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Cổ phần là
phần vốn cơ bản thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền. Cổ phiếu là
một loại chứng chỉ có giá do công ty cổ phần phát hành để xác nhận quyền sở
hữu cổ phần của cổ đông, nó chứng minh tư cách thành viên của những người
góp vốn vào công ty cổ phần. Mỗi cổ phiếu có thể có ghi tên hoặc không ghi tên.
Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng còn cổ phiếu có ghi trên chỉ
được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của Hội đồng quản trị. Số cổ phần
được quyền phát hành là tổng số cổ phần mà các sáng lập viên dự định chào bán
để huy động đủ số vốn cần thiết như đã dự tính. Về mặt quản lý Nhà nước, việc
quy định tổng số cổ phần được quyền chào bán tạo cơ sở pháp lý cho công ty cổ
phần chủ động huy động thêm vốn mà không phải chỉ xin phép bất cứ cơ quan
Nhà nước nào trong mỗi lần chào bán thêm cổ phần mới trong tổng số cổ phần

được quyền chào bán. Như vậy, sự phân biệt về tổng số cổ phần được quyền
chào bán và số cổ phần đã bán tạo cơ sở pháp lý để công ty cổ phần thực hiện
huy động vốn linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh doanh thực tế.
Cổ phần hoá là con đường huy động vốn rất hiệu quả bởi vì công ty cổ
phần đã giải quyết hết sức thành công vấn đề huy động vốn. Trong xã hội,
những lượng tiền nhỏ dành dụm của nhiều gia đình nếu để riêng rẽ không đủ để
thành lập một doanh nghiệp nhỏ và do đó không thể đem ra kinh doanh được thì
rõ ràng sự có mặt của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho họ có cơ hội để đầu
tư một cách có lợi và an toàn. Mệnh giá cổ phiếu của công ty thường định giá
thấp để có khả năng khai thác triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, ngay cả
những số tiền tiết kiệm rất nhỏ của công chúng. Và khi đó, những khoản vốn
góp nhỏ gộp lại sẽ trở thành rất lớn. Đối với các khoản tiền nhỏ có thể gửi ngân
hàng hay mua trái phiếu, Song, hình thức cổ phần có sức hấp dẫn riêng.Thứ
nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông cổ tức (bằng hoặc
cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng) mà còn hứa hẹn mang đến cho cổ đông một
khoản thu nhập "Ngầm" nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu khi công ty làm ăn có
hiệu quả.Thứ hai, các cổ đông có quyền được tham gia quản lý theo điều lệ công
ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở
6
nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn.Thứ ba, cổ đông có quyền được ưu đãi trong
việc mua cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi được đem ra chào bán
rộng rãi cho công chúng.
Cổ phần hoá và thị trường chứng khoán có mối liên hệ gắn bó với nhau và
làm tiền đề cho nhau cùng tồn tại và phát triển. Cổ phần của công ty cổ phần là
công cụ để huy động vốn, đồng thời cũng là một hàng hoá cho thị trường chứng
khoán hoạt động. Thông qua hoạt động của thị trường chứng khoán, nhà đầu tư
được cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết về tình hình tài chính, hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp để từ đó chọn phương hướng đầu tư hiệu quả, hạn chế
tối đa rủi ro. Nhờ sự phát triển và hoàn thiện của thị trường chứng khoán, khả
năng huy động vốn đầu tự được mở ra hết sức rộng rãi, nó cung cấp những cơ

hội đầu tư đa dạng, đơn giản, dễ dàng và thuận tiện cho đông đảo công chúng.
Và thị trường chứng khoán trở thành nên cung cấp vốn, nơi hội tụ các cơ hội và
nhu cầu đầu tư.
Vốn cổ phần của Doanh nghiệp cổ phần hoá được cơ cấu hai bộ phận
3
:
Một là, vốn cổ phần được hình thành do doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
thường. Cổ phiếu thường là chủ nhân của nó (các cổ đông phổ thông) phải chịu
sự rủi ro cao khi doanh nghiệp thua lỗ trong hoạt động kinh doanh. Nhưng khi
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì có cổ đông phổ thông thường có lợi hơn so
với cổ đông hơn so với cổ đông ưu đãi.
Hai là, vốn cổ phần được hình thành do doanh nghiệp phát hành cổ phiếu
ưu đãi. Loại cổ phiếu ưu đãi bị ràng buộc, hạn chế bởi những điều kiện: mức cổ
tức cố định, khả năng doanh nghiệp mua lại các cổ phiếu đó, mức trả cho các cổ
đông ưu đãi trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản, tiêu chuẩn để đổi lấy cổ
phiếu thường Việc phân chia vốn cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hoá là
cần thiết vì nó liên quan đến thu nhập của doanh nghiệp và nhu cầu huy động
vốn vào sản xuất kinh doanh.
Như vậy, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước chính là con đường hữu
hiệu nhất để có lượng vốn dồi dào, tiềm lực tài chính vững mạnh cho doanh
3
Đoàn Văn Hạnh. Công ty cỏ phần và chuyển DNNN thành công ty cổ phần, tr31
7
nghiệp bởi xuất phát từ những đặc điểm ưu việt của hình thái công ty cổ phần
trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
2.2. Điều kiện huy động vốn
Để đảm bảo huy động vốn được thông suốt, doanh nghiệp phải đáp ứng
nhiều điều kiện, trong đó khả năng kinh doanh có hiệu quả là điều kiện tiên
quyết. Nhà đầu tư mua cổ phần của doanh nghiệp với mục đích được hưởng cổ
tức cao, điều này chỉ đạt được khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Còn đối với

doanh nghiệp thua lỗ, làm ăn kém hiệu quả hay có tương lai không sáng sủa thì
nhà đầu tư chắc chắn sẽ không dám mạo hiểm đầu tư vào vì độ rủi ro gần như là
tuyệt đối, và khi đó vấn đề huy động vốn từ phía những nhà đầu tư ngoài doanh
nghiệp là bất khả thi.
Xuất phát từ điều kiện về doanh lợi và nhất là điều kiện kinh doanh sẽ có
những trường hợp sau:
Một là, doanh nghiệp công nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bình
thường, bảng cân đối tài sản thực dương. Việc phát hành thêm cổ phiếu đối với
doanh nghiệp này sẽ tạo cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng qui mô doanh
nghiệp.
Hai là, doanh nghiệp công nghiệp bị thâm hụt cán cân thanh toán tài
chính nhưng chưa đến mức phát mại, tuy nhiên sản phẩm đã có thị trường ổn
định và có khả năng mở rộng ở trong và ngoài nước. Việc cổ phần hoá sẽ góp
phần huy động thêm vốn hoặc chuyển nợ thành vốn để khai thác thế mạnh thị
trường.
Ba là, doanh nghiệp công nghiệp mới xây dựng có trang thiết bị và công
nghệ tương đối hiện đại nhưng thiếu vốn lưu động, bộ máy quản lý yếu kém,
kinh doanh kém hiệu quả thì tiến hành cổ phần hoá sẽ thay đổi hình thức tổ chức
và nhân sự cũng như huy động thêm vốn lưu động cho hoạt động của doanh
nghiệp.
Bốn là, doanh nghiệp công nghiệp có những hợp đồng lớn với nước
ngoài, có những quan hệ bạn hàng chặt chẽ với thị trường nước ngoài, đang
thiếu vốn để tăng qui mô sản xuất hoặc để đối tác. Việc cổ phần hoá sẽ tạo thêm
8
điều kiện thuận lợi để thực hiện tổ chức liên kết kinh tế trong công nghiệp với
các nhà đầu tư nước ngoài về công nghệ, quản lý kinh doanh và khai thác thị
trường.
Năm là, doanh nghiệp công nghiệp có mức lợi nhuận cao nếu đầu tư thêm
công nghệ mới sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Việc cổ phần hoá sẽ tạo điều
kiện tận dụng các lợi thế này.

Với quy định hiện nay, ngoài điều kiện phải có vốn trên 10 tỷ đồng, công
ty còn phải đáp ứng yêu cầu kinh doanh có lãi trong hai năm liên tục gần nhất và
phải đạt mức bán được 20% vốn cổ phần cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ
chức. Đây là một mức giá cao trên mặt bằng hiện tại với các công ty cổ phần
hoá nói riêng và đối với tất cả các công ty cổ phần nói chung. Có lẽ chỉ các
Tổng công ty 90,91 mới có thể đáp ứng nổi.
Như vậy, dựa vào những điều kiện cụ thể của từng loại doanh nghiệp
công nghiệp với mức độ cần thiết vốn thì tiến hành và cổ phần hoá là để chuyển
sang một mô hình doanh nghiệp huy động, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả
cao. Bên cạnh đó qui mô doanh nghiệp, mức độ cung cấp thông tin từ doanh
nghiệp ra công chúng cũng là những điều kiện quan trọng để thực hiện hoạt
động huy động vốn có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA CỔ PHẦN
HOÁ DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Kết quả đạt được
Ngay từ năm 1987, trong Nghị định 217 - HĐBT, nay là Chính phủ, đã
nêu chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, nhưng do nhiều nguyên
nhân lúc đó chưa thực hiện được. Từ đầu những năm 90, chủ trương cổ phần
hoá đã được nhấn mạnh. Thực hiện các nghị quyết, chủ trương đường lối của
Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành các văn bản: Quyết định số 202/CP
ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty
cổ phần, Chỉ thị số 84/ TTg ngày 4/3/1993 về xúc tiến thực hiện thí điểm cổ
phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu
đối với doanh nghiệp Nhà nước. Sau hơn 4 năm làm thí điểm ngày 7/ 5/1996,
9
Chính phủ có Nghị định 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành
công ty cổ phần. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện các văn bản pháp lý trên
đã nảy sinh nhiều bất cập. Do vậy, ngày 19/8/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 44/CP nhằm bổ sung hoàn thiện nội dung cổ phần hoá cho sát hợp với thực
tiễn cuộc sống nhằm đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.

Thực tiễn cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước cho thấy những
doanh nghiệp này chẳng những vừa tăng đóng góp thêm cho ngân sách nhà
nước, vừa tăng thu nhập cho người lao động, giải quyết việc làm, vừa tăng
doanh thu và lợi nhuận, điều mà các cổ đông tư nhân đặc biệt chú ý đến, mà còn
vừa tăng thu hút vốn. Nói chung, các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật chủ yếu đều cao
hơn trước. Sự phát triển này đã xúc tiến việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước
thành công ty cổ phần tăng lên nhanh chóng, cùng với nó là lượng vốn huy động
được không ngừng tăng lên.
Bảng 1. Vốn của các công ty cổ phần hoá.
Cơ quan
chủ quản
Vốn điều lệ
Bộ T ổng
công ty
Hà Nội TP
HCM
Các
tình
khác
Tổng cộng
- Từ 10 tỷ đồng trở
lên
14 10 5 21 7 57(13,4%)
- Từ 5 đến dưới 10
tỷ đồng
17 10 11 16 29 83 (19,6%)
- Từ 1 đến dưới 5 tỷ
đồng
42 12 43 16 105 218(51,4%)
- Dưới 1 tỷ đồng 6 1 11 0 48 66(15,6%)

- Không có số liệu 2 4 6
Tổng cộng 79 35 70 53 193 430
Trung bình (triệu
đồng)
7079 13227 3564 9312 2949 5415
Độ lệch chuẩn (triệu
đồng)
9145 21930 3562 6460 3021 8651
Nhỏ nhất (triệu
đồng)
512 809 356 1249 22 22
Lớn nhất (triệu 58800 120000 20000 26545 18499 120.000
10
đồng)
Trung vị (triệu
đồng)
3908 5000 2250 7332 4885 3000
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 112/2000
Những thông tin cung cấp dựa trên 3 tiêu chí: cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp trước cổ phần hoá, số vốn tại thời điểm cổ phần hoá và sự phân bổ
vốn tại thời điểm cổ phần hoá trong 3 loại nhà đầu tư: Nhà nước, cán bộ CNV
và người ngoài doanh nghiệp. Tại thời điểm giữa năm 2000 số doanh nghiệp
trong danh sách là 430.
Đầu năm 2000, tổng số vốn của 5280 doanh nghiệp của nhà nước vào
khoảng hơn 116.000 tỉ VND. Về số lượng, số doanh nghiệp đã cổ phần hoá
chiếm khoảng 8% tổng số doanh nghiệp Nhà nước nhưng tổng số vốn của các
doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ chiếm khoảng 1,98% (2.296 tỷ so với 116.000 tỷ).
Vốn trung bình của 1 doanh nghiệp cổ phần hoá là 5,4 tỷ VND (bảng 1) chỉ
bằng 30% vốn Trung bình của một Doanh nghiệp nhà nước (1998) cho thấy:
Các doanh nghiệp được chọn cổ phần hoá là các doanh nghiệp nhỏ trong

các Doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác nếu tính đến phần vốn mà nhà nước còn
nắm giữa trong các doanh nghiệp cổ phần hoá thì số vốn thực sự chuyển đổi sở
hữu còn ít hơn. Ta thấy sự phân bổ vốn của 387 doanh nghiệp với tổng số vốn
2206,5 tỷ VND, trong đó nhà nước còn nắm giữ 694,3 tỷ VNĐ (31,47%).
Bảng 2: Phân bổ vốn điều lệ giữa các loại cổ đông
Chỉ tiêu Vốn
(triệu đồng)
Phần sở
hữu bởi nhà
nước (%)
Phần sở hữu
của cán bộ
công nhân
viên(%)
Phần sở hữu
của cổ đông
bến ngoài(%)
11
Trung bình
Trung vị
Lớn nhất
Nhỏ nhất
Độ lệch chuẩn
5702
3027
120.000
22
8988,25
23,24
25,00

80,00
0,00
19,75
59,07
60,00
100,0
0,00
28,28
17,69
10,00
100,0
0,00
21,48
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 112/2000
Cấn bộ công nhân viên giữ 984,7 tỷ VNĐ (44,63%), người ngoài doanh
nghiệp nắm 527,5 tỷ đồng (23,90%). Như vậy, mới có 1512 tỷ VND vốn của
387 doanh nghiệp được chuyển đổi sở hữu, chiếm khoảng 1,3 % tổng số vốn
Doanh nghiệp nhà nước.
Theo bảng 1: số công ty có số vốn đủ tiêu chuẩn niêm yết của thị trường
chứng khoán (từ 10 tỷ đồng trở lên) là 57, chiếm13,4% và có đến 67% công ty
thuộc vào loại doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn dưới 5 tỷ đồng. Mặt khác, sự
chênh lệch về quy mô vốn của các công ty cổ phần hoá rất lớn: doanh nghiệp
lớn nhất lớn hơn doanh nghiệp nhỏ nhất đến 5454 lần (độ lệch chuẩn 8651 tỷ).
Qua bảng 1 còn cho thấy: về quy mô vốn, thành phố Hồ Chí Minh có
nhiều công ty lớn đã cổ phần hoá nhất: số công ty có số vốn trên 10 tỷ VND lên
đến 21 trong tổng số 51 (chiếm 39,6%), cho nên công ty trung vị của thành phố
này cũng có quy mô lớn nhất là 7,3 tỷ VND. Tiếp đến là các công ty trực thuộc
bộ ngành (3,9 tỷ), các tổng công ty (5,0 tỷ), Hà Nội (2,3 tỷ) và các tỉnh khác (1,9
tỷ).
Về lượng vốn huy động, bảng 2 cho thấy, nếu không tính đến quy mô vốn

của mỗi doanh nghiệp thì trung bình cán bộ nhân viên nắm 59,07 %, người
ngoài doanh nghiệp nắm 17,69%. Như vậy, lượng vốn huy động từ cán bộ công
nhân viên chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với huy động ngoài doanh nghiệp.
Bảng 3: xu hướng sở hữu nội bộ trong các công ty cổ phần hoá .
Tiêu chí
Sở hữu từ 50% vốn
trở lên
Sở hữu dưới 50%
vốn
Số lượng doanh nghiệp
Vốn trung bình (tr. đồng)
Độ lệch chuẩn
246 (63,6%)
4051
4687
141 (36,4%)
8582
13052
12
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 112/2000
Theo bảng 3: có đến 63,6% fn cổ phần hoá mà cán bộ công nhân viên
chiếm đa số cổ phần, và trong đó thậm chí đến 72 công ty (18,6%) mà cán bộ
công nhân viên sở hữu 100% vốn sau cổ phần hoá, tuyệt đại đa số các công ty cổ
phần nội bộ này là các công ty địa phương (94,4%) và ở miền Bắc (78%). Điều
này nói lên rằng: cổ phần hoá ở Việt Nam mang tính chất nội bộ.
Bảng 4: Xu hướng sở hữu của cổ đông ngoài trong
các công ty cổ phần hoá
Tiêu chí
Sở hữu từ 1/3 vốn trở
lên

Sở hữu dưới 1/3 vốn
- Số lượng doanh nghiệp
- Vốn trung bình (tr. đồng)
- Độ lệch chuẩn
79 (20,4%)
9486
15579
308 (79,6%)
4808
5945
Nguồn: Tạp chí Phát triển kinh tế số 112/2000
Bảng 4: Về xu hướng sở hữu của cổ đông ngoài doanh nghiệp, chỉ có 39
doanh nghiệp (10,1%) trong đó các cổ đông ngoài chiếm đa số cổ phần. Ngược
lại, đến gần 80% doanh nghiệp trong đó cổ đông chiếm chưa đến 1/3 vốn cổ
phần. Như vậy, cổ đông ngoài có vai trò rất yếu trong các công ty cổ phần. Họ
chỉ được thu hút và trở thành quan trọng một cách bất đắc dĩ khi nào các doanh
nghiệp cổ phần hoá đủ lớn đến mức các cán bộ công nhân viên không đủ khả
năng mua hết cổ phần. Thực tế cho thấy đại đa số các doanh nghiệp trong số 39
doanh nghiệp kể trên hoặc thuộc các cán bộ, hoặc thuộc các tổng công ty đóng
trên địa bàn các thành phố lớn, hoặc thuộc các thành phố lớn của 2 tam giác tăng
trưởng, nơi thu nhập quốc dân theo đầu người cao hơn 3-4 lần mức trung bình
chung của cả nước, do vậy, tiết kiệm và đầu tư cũng chiếm tuyệt đại đa số của cả
nước. Vì vậy, 20% doanh nghiệp mà cổ đông ngoài chiếm trên 1/3 cổ phần thì
chủ yếu là doanh nghiệp lớn, trung bình không trọng số lên đến gần 9,2 tỷ VND
Từ kết quả thống kê trên cho thấy, tiềm năng về vốn tích luỹ trong nhân
dân rất lớn nhưng khả năng huy động vào trong doanh nghiệp cổ phần hoá còn
rất hạn chế, vốn huy động chủ yếu từ nội bộ doanh nghiệp.
13
Theo thông tin từ Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, tính
đến hết quý I năm 2001 đã cổ phần hoá được tổng số 652 Doanh nghiệp nhà

nước, trong đó: 322 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, 236
doanh nghiệp dịch vụ – thương mại, 64 doanh nghiệp GTVT, 18 doanh nghiệp
nông nghiệp và 12 doanh nghiệp thuỷ sản. Tuy nhiên, tỷ lệ Doanh nghiệp nhà
nước cổ phần hoá có vốn điều lệ lớn hơn 10 tỷ chiếm tỉ lệ thấp (9 – 10 %). Đi
đầu trong việc thực hiện cổ phần hoá là: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
(41 doanh nghiệp ), Bộ GTVT (26 doanh nghiệp ), Tổng công ty Hàng Hải Việt
Nam (12), Tổng công ty dệt may (7), thành phố Hồ Chí Minh (69), Hà Nội (65).
Như vậy, các DNCNNN cổ phần hoá vẫn chiếm tỷ trọng lớn về lượng vốn
huy động song vốn điều lệ lại có xu hướng giảm đi.Số doanh nghiệp công
nghiệp thực hiện cổ phần hoá vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo so với số loại hình doanh
nghiệp khác. Tương ứng với nó là lượng vốn huy động khá lớn, lượng vốn huy
động được từ phía các cổ đông vẫn còn khá nhỏ. Song, số lượng doanh nghiệp
công nghiệp cổ phần hoá có số vốn điều lệ trên 10 tỷ đồng, có xu hướng giảm,
thay vào đó là sự tăng lên của các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số vốn điều lệ
nhỏ hơn 10 tỷ đồng.
2. Tồn tại và nguyên nhân chủ yếu
Qua hơn 10 năm thực hiện cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước, lượng
vốn huy động được từ bên ngoài doanh nghiệp là không lớn nhưng đối với một
số doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa vànhỏ là rất quan trọng. Nó đáp
ứng được một cách đáng kể nhu cầu vốn cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh,
đổi mới máy móc thiết bị,… tạo đà phát triển cho những năm sau. Tuy nhiên,
xét một cách toàn diện vấn đề huy động vốn đối với các doanh nghiệp công
nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần
tháo gỡ. Nó xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:
Một là: Đối với nhiều doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn, đặc biệt
là các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả thì nhà nước sở hữu gần như tuyệt
đối để củng cố vai trò chủ đạo. còn đối với những doanh nghiệp công nghiệp
quy mô vừa và nhỏ thì phần lớn thiếu vốn, công nợ dây dưa, công nghệ kỹ thuật
14
lạc hậu, sản phẩm làm ra khó tiêu thụ, khả năng cạnh tranh kém nên không có

sức hấp dẫn các nhà đầu tư.
Hai là, việc khống chế mức mua cổ phần còn quá chặt chưa phù hợp với
thực tiễn nên có một số doanh nghiệp cổ phần hoá không thể huy động đủ vốn
điều lệ mặc dù cá nhân, pháp nhân có khả năng và muốn mua vượt mức quy
định.
Ba là, quy trình xác định giá trị doanh nghiệp còn phức tạp, còn nhiều mặt
chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Hơn nữa, chỉ có một phương pháp xác định
nên không có cơ sở nào để đối chiếu kiểm tra để đảm bảo tính chính xác của
việc định giá nên dẫn đến hiện tượng giá trị doanh nghiệp được định chưa sát
với thị trường, thường ở mức nhỏ hơn giá thị trường.
Bốn là, thị trường chứng khoán vẫn chưa phát triển tuy Trung tâm giao
dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động . Khi đó, nhà
đầu tư thiếu thông tin rõ ràng về tính hình tài chính của doanh nghiệp cổ phần
hoá, còn doanh nghiệp cổ phần hoá thiếu nơi cung ứng vốn hiệu quả.
Để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cản trở huy động vốn thông qua
cổ phần hoá doanh nghiệp công nghiệp nhà nước, chúng ta cần thực hiện đồng
bộ những giải pháp sau:
15
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG
VỐN THÔNG QUA CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP CÔNG NGHIỆP
NHÀ NƯỚC
1. Tạo lập chính sách ưu đãi tài chính đối với người lao động và đối
với doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá
Đối với doanh nghiệp công nghiệp, nguồn lực lao động có vai trò rất quan
trọng thậm chí có khi là quyết định sự phát triển. Vai trò của lao động công
nghiệp biểu hiện trước hết ở hoạt động trực tiếp sản xuất, chế tạo sản phẩm.
Chính trình độ lao động quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm hàng
hoá sản xuất. Do đó, nó ảnh hưởng to lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp công nghiệp.
Động lực người lao động, xét đến cùng là lợi ích kinh tế mà họ được

hưởng. Lợi ích cao nhất của người lao động trong doanh nghiệp là việc làm và
thu nhập. Khi doanh nghiệp thoả mãn được lợi ích người lao động thì cũng có
nghĩa đã tạo ra động lực cho họ; từ đó người lao động phát huy được khả năng
sáng tạo của mình, cống hiến nhiều hơn cho doanh nghiệp, tăng hiệu quả, năng
suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm hơn làm giảm giá thành sản phẩm, nâng
cao kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo lập tiềm lực tài chính vững mạnh
cho doanh nghiệp. Từ đó sẽ có hai tác động tích cực đến huy động vốn, mở rộng
sản xuất kinh doanh: Thứ nhất, người lao động sẽ có thu nhập cao hơn, việc làm
ổn định sẽ đầu tư trở lại cho doanh nghiệp. Thứ hai, tình hình tài chính doanh
nghiệp khả quan sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp, thu hút được
nguồn vốn lớn hơn từ công chúng.
Việc mở rộng mức ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là một
giải pháp cần thiết và cấp bách để tạo ra sự phát triển ổn định, lâu dài cho doanh
nghiệp. Các ưu đãi về quyền được mua cổ phần nên chuyển sang xác định và
thanh toán trực tiếp bằng tiền thay vì cho phép giảm giá 30% so với các đối
tượng khác. Điều đó có nghĩa là: trường hợp người lao động không thực sự
muốn tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì được thanh toán bằng tiền dựa
trên số tiền thu được do bán cổ phần thuộc vốn Nhà nước. Trường hợp lao động
16
thực sự muốn tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp thì trừ lùi số tiền phải trả,
thực chất là ưu đãi bằng cổ phiếu. Thực hiện như vậy sẽ giải quyết được hai vấn
đề: Thứ nhất, với số lượng cổ phần tuy ưu đãi nhưng vẫn có hạn mức, người lao
động có thể sử dụng lại số tiền ưu đãi để mua thêm cổ phần, doanh nghiệp huy
động được nguồn vốn lớn hơn. Thứ hai, với những người lao động hoàn cảnh
khó khăn về kinh tế nhưng không đủ tiêu chuẩn “nghèo ” (nên không được mua
cổ phần trả chậm) sẽ rất hạn chế cổ phần trong doanh nghiệp. Vì vậy, thực hiện
ưu đãi đối với lao động bằng một khoản tiền mặt nhất định sẽ tạo điều kiện cho
họ sử dụng số tiền này tiếp tục mua cổ phần cho doanh nghiệp theo giá bình
thường.
Trong tổng thể nền kinh tế quốc dân tồn tại nhiều ngành, nghề và lĩnh vực

sản xuất kinh doanh công nghiệp khác nhau. Hơn nữa, sự phát triển kinh tế giữa
các vùng, miền, khu vực cũng khác nhau. Do đó, mức độ ưu đãi cần thiết phải
được lượng hoá sự khác biệt đó bằng giá trị nhằm khắc phục tình trạng có tính
chất bình quân hiện nay.
Chính phủ cần phải sửa đổi kịp thời quy định khống chế về mua cổ phần
ưu đãi của các đối tượng là cán bộ lãnh đạo. thay vào đó cần có một chính sách
đãi ngộ đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp làm ăn
có hiệu quả. Có thể cho không giám đốc một số cổ phiếu để thưởng công xứng
đáng cho những cống hiến của họ. Thực hiện chính sách đãi ngộ này chẳng
những khuyến khích cán bộ quản lý thực hiện tốt chức năng quản lý của mình
mà còn có tác động kích thích cổ đông khác mua cổ phần của doanh nghiệp, đặc
biệt trong doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá làm ăn có hiệu quả, qua đó tăng
cường được khả năng huy động vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
Đối với doanh nghiệp công nghiệp thực hiện cổ phần hoá, nhà nước cần
có chính sách để tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, xoá bỏ những ưu đãi mang tính bao cấp đối với Doanh nghiệp nhà nước
như lãi suất ưu đãi, khoanh nợ, xoá nợ, giãn nợ tràn lan, vô thời hạn, xoá bỏ bao
cấp trong việc sử dụng đất hoặc tiền thuê đất, xoá bỏ việc cho nợ thuế, hợp thức
hoá các khoản nợ thuế kéo dài, xoá bỏ các hình thức trợ cấp, trợ giá và ưu đãi
17
kiểu bao cấp dưới các hình thức khác. Đồng thời, Nhà nước nên có những chính
sách ưu đãi cho các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần hoá, như: thực hiện chế
độ miễn giảm thuế thu nhập đối với phần lợi nhuận dùng để tái đầu tư cho sản
xuất kinh doanh (như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) số tiền thu
được do bán cổ phần nên ưu tiên đầu tư lại cho doanh nghiệp cổ phần hoá để
đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo lại công nhân viên, giải quyết chế độ cho số
lao động dôi dư… thực hiện cơ cấu lại năng lực sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá một cách hợp lý và
hiệu quả sẽ tạo ra lợi thế kinh doanh, lành mạnh hoá tình hình tài chính đảm bảo
khả năng thu hút tốt nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư ngoài doanh

nghiệp cổ phần hoá.
2. Mở rộng đối tượng huy động vốn
Để tăng cường khả năng huy động vốn cũng như phát huy thế mạnh đặc
thù của loại hình công ty cổ phần, giải pháp mở rộng đối tượng mua cổ phiếu
được coi là hữu hiệu nhất. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước rất
cần một lượng vốn lớn cho phát triển sản xuất kinh doanh, nếu chỉ giới hạn bán
cổ phần cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân
Việt Nam thì đã ngăn cản một luồng vốn đầu tư rất lớn, đó là các nhà đầu tư
nước ngoài. đầu tư nước ngoài vào doanh nghiệp cổ phần hoá được xem xét là
một hình thức đầu tư gián tiếp FPI (Foreign Portfolio Investment). Với FPI
cần phải có những hạn chế nhất định không chỉ vì bảo vệ chủ quyền quốc gia
đối với hệ thống cơ sở sản xuất kinh doanh trong nước mà còn nhằm ngăn ngừa
những cơn rối loạn trên cả hai thị trường, thị trường chứng khoán và thị trường
đối khoán, bởi vì khác với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FPI có đặc điểm “khó
vào- khó ra” thì ngược lại vốn FPI lại “dễ vào - dễ ra”. Mỗi khi nền kinh tế có
những thông tin nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài, lập tức sẽ có hàng
loạt lệnh bán lại cổ phiếu và mối ngày có hàng triệu USD có thể rời khỏi nước
này để chuyển dịch sang nước khác. Những đồng vốn FPI vội vã đến và vội vã
đi rất dễ đến hệ quả không những chỉ là những cơn biến động giá chứng khoán
18
mà còn có thể gây chao đảo cả thị trường Hối đoái (
4
). Để hạn chế những tác
động xấu đến toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước cần có chính sách hạn chế lĩnh vực
đầu tư, như hạn chế trong ngành công nghiệp nặng, các ngành công nghiệp mũi
nhọn. để hạn chế kiểm soát của nước ngoài đỗi với hệ thống cơ sở sản xuất kinh
doanh của Việt Nam, Nhà nước cần có chính sách hạn chế giá trị cổ phần bán
cho các đối tượng này (không vượt quá 30% vốn điều lệ của công ty – Quyết
định số 145/1999/QĐ-TTg), giá bán không thấp hơn giá bán cho các nhà đầu tư
trong nước. Trong trường hợp có nhiều nhà đầu tư nước ngoài cùng đăng ký

mua cổ phần vượt tỷ lệ khống chế 30% thì tổ chức đấu giá, giá bán là giá của
nhà đầu tư kêu giá mua cao nhất. Khi giao dịch trên thị trường chứng khoán,
một loại cổ phiếu của một công ty có 2 giá giao dịch khác nhau, phản ánh 2 cặp
số cung - cầu cổ phiếu khác nhau: một cặp cung - cầu cổ phiếu của các nhà đầu
tư nước ngoài và một cặp của các nhà đầu tư trong nước. Do đó, hình thành 2
loại cổ phiếu A và B cho 2 đối tượng: nước ngoài và trong nước.
Như vậy, FPI là một loại hình quan hệ kinh tế quốc tế trong phát triển và
sản xuất kinh doanh công nghiệp. Nó cho phép thu hút một lượng vốn lớn, tạo ra
thế và lực mới cho doanh nghiệp công nghiệp cổ phần hoá.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp công nghiệp thực hiện cổ phần tạo mối liên
kết với các đối tượng là các cá nhân, doanh nghiệp có mối quan hệ trong cùng
một quy trình sản xuất kinh doanh như: các nhà cung cấp nguyên liệu, các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp là hệ thống đại lý, các doanh nghiệp
là khách hàng tiêu thụ sản phẩm (liên kết ngang). Khuyến khích các đối tượng
này tham gia cổ phần với những ưu đãi nhất định nhằm huy động vốn và gắn kết
trách nhiệm với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp.
Khi thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp công nghiệp nhà nước cần phân
phối cổ phần theo thứ tự ưu tiên nhóm cổ đông: cán bộ quản lý và người lao
động nhà cung cấp nguyên liệu, dịch vụ đầu vào nhà đầu tư là những cổ đông
chiến lược; và còn lại là bán đấu giá cho công chúng, để vừa huy động vốn có
hiệu quả, vừa đảm bảo lợi ích cơ bản, lâu dài cho doanh nghiệp.
4
tạp chí PTKT số 122/2000
19
3. Xác định đúng giá trị doanh nghiệp công nghiệp nhà nước để thực
hiện cổ phần hoá
Định giá doanh nghiệp công nghiệp cổ phần hoá là quá trình xác định giá
trị thực tế của doanh nghiệp công nghiệp nhà nước trước khi thực hiện cổ phần
hoá. đây là khâu quan trọng nhất, phức tạp nhất của quá trình cổ phần hoá vì nó
có tính quyết định đến việc huy động vốn cho doanh nghiệp cổ phần tương lai.

Quá trình định giá doanh nghiệp công nghiệp nhằm mục tiêu tính toán,
xác định sự thay đổi về mặt giá trị của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định.
Thông thường, đây là quá trình ước tính khoản tiền mà người mua có thể trả để
họ có được doanh nghiệp, và ngược lại cũng là ước tính khoản tiền thu được của
người bán khi bán doanh nghiệp của mình người bán là đại diện của Nhà nước,
người mua là các cổ đông.
Định giá doanh nghiệp công nghiệp là hoạt động khoa học có tính tổng
hợp và khả năng dự đoán cao. Công việc trước hết khi định gía là phải dựa vào
các luồng thông tin sau: Thông tin hiện có về doanh nghiệp, thông tin hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dự tính trong tương lai, thông tin kinh tế
khác trên thị trường như: trị giá các tài sản tương ứng với tài sản của doanh
nghiệp, nhu cầu mua, bán về loại hình doanh nghiệp đang định giá. Chính vì
những yêu cầu đó đòi hỏi các chuyên gia, những người tham gia định giá phải
nắm vững kỹ thuật định giá và có khả năng phán đoán nghiệp vụ tốt.
Một nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp được nêu ra: “Giá trị doanh
nghiệp ở thời điểm cổ phần hoá là giá trị thực tế của doanh nghiệp mà người
mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được”. Theo nguyên tắc này, giá trị thực
tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được xác định
trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của
người mua tài sản và giá thị trường của tài sản, cho phép loại trừ ra khỏi giá tri
doanh nghiệp cổ phần hoá những tài sản thuộc đối tượng chờ thanh lý, không
cần dùng các khoản công nợ khó đòi… Đối với những doanh nghiệp có lợi thế
kinh doanh (vị trí địa lý, uy tín mặt hàng …) thì chỉ tính 30% giá trị lợi thế để đề
phòng rủi ro tương lai. Đồng thời, thừa nhận giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ
20
phần hoá có thể cao hơn, bằng hoặc thấp hơn giá trị doanh nghiệp tính theo sổ
sách (
5
).
Phương pháp xác định cụ thể như sau, là tổng hợp các khoản:

* Đối với TSCĐ, TSLĐ là hiện vật đã được kiểm kê, xác định theo công
thức:
G =

=
n
1i
S
i
. P
i
. C
i
Trong đó:
G: Giá trị thực tế của tài sản doanh nghiệp
S
i
: Số lượng thực tế của tài sản loại i tại doanh nghiệp
P
i
: Giá trị thị trường của tài sản loại i tại thời điểm xác định GTDN
C
i
: chất lượng còn lại của tài sản loại i của doanh nghiệp
i = 1, 2, 3, …
n: tổng số loại tài sản của doanh nghiệp
Bên bán thường muốn bán “trọn gói”, bên mua lại cân nhắc nhu cầu sử
dụng trong tương lai nên không muốn mua chọn gói. Do đó, sẽ dẫn tới có một
bộ phận giá trị người mua không chấp nhận. Vì vậy nhà nước nên ban hành quy
chế để bên mua và bán thoả thuận với nhau về giá.

* Đối với tài sản là vốn bằng tiền thì tính theo số dư vốn bằng tiền đã
kiểm quỹ hoặc đã đối chiếu tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Nếu số
dư là ngoại tệ thì phải quy đổi ra VND theo tỷ giá liên Ngân hàng công bố tại
thời điểm gần nhất.
* Đối với nợ phải thu là các khoản nợ đã đối chiếu xác nhận.
* Đối với các khoản chi phí dở dang (bao gồm chi phí sản xuất kinh
doanh, chi phí sự nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng) thì tính theo số dư chi phí
thực tế trên sổ kế toán.
* Đối với tài sản ký quỹ, ký cược ngắn hạn, dài hạn thì đực tính theo số
dư thực tế trên sổ kế toán đã đối chiếu xác nhận tại thời điểm xác định giá trị
doanh nghiệp.
5
Tạp chí Tài chính tháng 3/2000
21
* Đối với tài sản đầu tư ngắn hạn và dài hạn thì tính vào Giá trị doanh
nghiệp các khoản mà công ty cổ phần sẽ tiếp tục kế thừa.
* Đối với doanh nghiệp có lợi thế kinh doanh thì phải tính thêm giá trị lợi
thế vào Giá trị thực tế của doanh nghiệp như sau (
6
):
=
Tỷ suất lợi nhuận
siêu ngạch
=
Tỷ suất lợi nhuận
bq 3 năm củaDN
-
Tỷ suất lợi nhuận bq
chung của ngành cùng
địa bàn(tỉnh, thành phố)

Giá trị lợi
thế tính vào
GTDN
=
Vốn Nhà nước
theo sổ kế toán bq
của 3 năm liền kề
*
Tỷ suất lợi
nhuận
siêu ngạch
* 30%
Trên đây là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá được
áp dụng phổ biến. xác định Giá trị doanh nghiệp cần phải được xem xét đúng
đắn, khách quan để tránh thiệt thòi cho các cổ đông, tạo sự tin tưởng cho cổ
đông khi đầu tư vào doanh nghiệp. Nhà nước cần nghiên cứu và ban hành một
hệ thống các phương pháp định giá chuẩn mực áp dụng thống nhất cho Việt
Nam, đồng thời tập trung đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ chuyên gia lành nghề
về định giá, tạo tiền đề cho việc hình thành các tổ chức định giá độc lập, thích
ứng với nền kinh tế thị trường.
6
Tạp chí PTKT số 111/2000
22
4. Hình thành và phát triển thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là trung tâm phản ánh hoạt động kinh tế của các
công ty, là nơi cung ứng các nguồn vốn phân phối các cơ hội đầu tư cho công ty
và công chúng. Trên thực tế, thị trường chứng khoán là điều kiện cho sự ra đời
và hoạt động của các công ty cổ phần. Thông thường thị trường chứng khoán
bao gồm 2 bộ phận :
Một là, thị trường sơ cấp là thị trường phát hành các chứng khoán mới.

Hai là, thị trường thứ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán đã phát
hành.
Ở Việt Nam cần gấp rút xây dựng và phát triển hai Trung tâm giao dịch
chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội để thúc đẩy sự hình thành
thị trường chứng khoán sơ cấp. Thông qua thị trường này, các nguồn lực tài
chính tạm thời nhàn rỗi được tích tụ, tập trung đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá.
Như vậy, việc nhanh chóng phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, thu hút vốn trong và ngoài
nước vào việc phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp công nghiệp nhà
nước thực hiện cổ phần hoá. Ngoài ra, nó còn giúp cho định giá trị doanh nghiệp
chính xác hơn, khách quan hơn.
Tuy nhiên, để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán thì chúng
ta cần phải giải quyết một loạt các vấn đề: thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển,
cải cách chính sách tài chính - tiền tệ, cải cách cơ chế và phương thức hoạt động
kinh doanh của các ngành, xây dựng hệ thống pháp luật và các văn bản dưới luật
tạo hành lang pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán.
5. Lựa chọn hợp lý các doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thực hiện
cổ phần hoá
Để tăng cường khả năng thu hút vốn từ công chúng, doanh nghiệp công
nghiệp thực hiện cổ phần hoá phải đảm bảo được những điều kiện nhất định như
tiềm lực tài chính, trình độ quản lý… bởi vì, người đầu tư bỏ tiền ra mua một
phần vốn của doanh nghiệp thực chất là đi tìm cơ hội đầu tư tài chính với mục
23
tiêu sinh lời. Hoạt động đầu tư này chứa đựng sự rủi ro mạo hiểm cao hơn việc
gửi tiết kiệm. Vì thế sẽ không ai mua cổ phần ở các doanh nghiệp đang bị thua
lỗ hay đứng trước nguy cơ thua lỗ.
Do vậy, khi đưa vào danh sách các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá
cần phải xem xét kỹ thực lực của các doanh nghiệp. Muốn vậy phải có sự sắp
xếp, phân loại các doanh nghiệp một cách khoa học và có hệ thống. Các doanh

nghiệp đáp ứng đầy đủ các điều kiện đặt ra mới tién hành cổ phần hoá. như vậy,
huy động vốn mới đạt được hiệu quả cao. Những doanh nghiệp không đủ điều
kiện nếu cứ gượng ép cổ phần hoá thì sẽ không đưa lại hiệu quả kinh tế mà còn
có khi gây thiệt hại cho Nhà nước.
Các doanh nghiệp công nghiệp thường có quy mô lớn đòi hỏi phải có vốn
lớn và trình độ quản lý cao, trong khi thu nhập không cao và hạn chế về nhiều
khả năng quản lý là cản trở rất lớn cho việc cổ phần hoá loại doanh nghiệp này.
Những doanh nghiệp công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ thực hiện cổ phần hoá
sẽ phù hợp hơn. Trong đó, mở rộng thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp
đang hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hay tuy trước mắt gặp khó khăn
nhưng có triển vọng về thị trường và lợi nhuận. Điều đó không có nghĩa là chỉ
cổ phần hoá các doanh nghiệp công nghiệp kinh doanh có hiệu quả mà cũng cần
phải cổ phần hoá ngay cả những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả
tránh sự trượt dốc không ngừng. Song giải quyết vấn đề này cần thiết phải có sự
trợ giúp từ phía Nhà nước về nhiều mặt như khoanh nợ từng phần cho các doanh
nghiệp đó, cải cách hành chính tại các doanh nghiệp đó, thực hiện cơ cấu lại
năng lực sản xuất kinh doanh tạo ra triển vọng cho huy động vốn từ phía các
nhà đầu tư.
24
KẾT LUẬN
Cổ phần hoá là con kênh khơi luồng vốn đến các Doanh nghiệp công
nghiệp Nhà nước đang rất cần vốn để vươn lên đứng vững trong môi trường
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Phương thức huy động vốn thông qua cổ phần hoá
tạo ra nguồn động lực mới, sức mạnh động lực từ phía các cổ đông theo cơ chế
công ty cổ phần sẽ là một lối thoát hữu hiệu cải thiện cơ bản quản trị kinh doanh
theo mục tiêu nâng cao không ngừng đồng vốn của cổ đông của công ty cổ
phần.
Do đó, cần đặc biệt tuyên truyền để mọi người thấy rõ lợi ích của vốn đầu
tư cho sản xuất thông qua việc mua cổ phiếu của các doanh nghiệp công nghiệp
Nhà nước. Phổ bién rộng rãi thông tin về kết quả hoạt động của các doanh

nghiệp sau khi trở thành công ty cổ phần .
Hiện nay, khi đề cập đến cổ phần hoá nhièu người chỉ nghĩ đến cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước. Chúng ta cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
cho việc cổ phần hoá các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Mặc dù, tốc độ huy động vốn xã hội còn chậm, lượng vốn huy động được
chưa cao song nó cũng tạo ra được những bước chuyển biến đáng khích lệ đối
với những doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá. Thắng lợi của những kết quả đó
khẳng định chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước mà Đảng và Nhà
nước ta đề ra là đúng đắn và cần được phát huy. Chỉ trên cơ sở đổi mới và phát
triển Doanh nghiệp nhà nước thông qua quá trình tích tụ và tập trung vốn của cổ
phần hoá chúng ta mới tiến hành thành công sự nghiệp Công nghiệp hoá và Hiện
đại hoá mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra.
25

×