Các đường cong kinh tế học
Đường cong Phillips biểu thị quan hệ giữa tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát (đường
cong Phillips phiên bản lạm phát) hoặc giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng GDP (đường cong Phillips
phiên bản GDP). Đường này được đặt theo tên Alban William Phillips, người mà vào năm 1958 đã tiến hành
nghiên cứu thực nghiệm dựa trên dữ liệu của nước Anh từ năm 1861 đến năm 1957 và phát hiện ra tương quan âm
giữa tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng tiền lương danh nghĩa
[1]
.
Lý luận của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp
Đường cong Phillips dốc xuống phía phải
Kinh tế Mỹ thập niên 1960 có hiện tượng tỷ lệ lạm
phát khá cao mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP cũng cao.
Để giải thích hiện tượng đó, các nhà kinh tế của trường
phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp đã sử dụng kết quả
nghiên cứu của Phillips và dựng nên đường cong
Phillips dốc xuống phía phải trên một đồ thị hai chiều
với trục hoành là các mức tỷ lệ thất nghiệp và trục tung
là các mức tỷ lệ lạm phát. Trên đường này là các kết
hợp giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Dọc theo
đường cong Phillips, hễ tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống
thì tỷ lệ lạm phát sẽ tăng lên; và ngược lại.
Từ đó, trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp lý
luận rằng để giảm tỷ lệ thất nghiệp chính phủ đã sử dụng
chính sách quản lý tổng cầu, song do tỷ lệ thất nghiệp có
quan hệ ngược chiều bền vững với tỷ lệ lạm phát, nên
tăng trưởng kinh tế cao đương nhiên gây ra lạm phát.
Lạm phát là cái giá phải trả để giảm tỷ lệ thất nghiệp
Lý luận của chủ nghĩa tiền tệ
Đường cong Philips ngắn hạn và Đường cong
Phillips dài hạn
Chủ nghĩa tiền tệ đã bác bỏ lý luận nói trên của
trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp. Họ cho rằng
đường cong Phillips như trên chỉ là đường cong
Phillips ngắn hạn. Friedman đã đưa ra khái niệm tỷ lệ
thất nghiệp tự nhiên, theo đó khi thị trường lao động ở
trạng thái cân bằng vẫn có thất nghiệp. Đây là dạng thất
nghiệp tự nguyện. Vì thế, ở trạng thái cân bằng, tỷ lệ
thất nghiệp vẫn là một số dương. Và khi nền kinh tế cân
bằng, thì lạm phát không xảy ra. Đường cong Phillips
ngắn hạn dốc xuống phía phải và cắt trục hoành ở giá trị
của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Hễ chính phủ áp dụng các
biện pháp nhằm đưa tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới mức
này, thì giá cả sẽ tăng lên (lạm phát), và có sự dịch
chuyển lên phía trái dọc theo đường cong Phillips ngắn
hạn.
Sau khi lạm phát tăng tốc, cá nhân với hành vi kinh
tế điển hình (hành vi duy lý) sẽ dự tính lạm phát tiếp tục
tăng tốc. Trong khi tiền công danh nghĩa không đổi, lạm
phát tăng nghĩa là tiền công thực tế trả cho họ giảm đi.
Họ sẽ giảm cung cấp lao động, thậm chí tự nguyện thất
nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp lại tăng lên đến mức tỷ lệ thất
nghiệp tự nhiên, trong khi tỷ lệ lạm phát vẫn giữ ở mức
cao.
Nếu nhà nước vẫn cố gắng giảm tỷ lệ thất nghiệp
xuống dưới mức tự nhiên, cơ chế như trên lại xảy ra.
Hậu quả là, trong dài hạn, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức tự
nhiên mà tỷ lệ lạm phát lại bị nâng lên liên tục. Chính
sách của nhà nước như vậy là chỉ có tác dụng trong ngắn
hạn, còn về dài hạn là thất bại.
Tập hợp các điểm tương ứng với tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên và các mức tỷ lệ lạm phát liên tục bị đẩy lên cao
tạo thành một đường thẳng đứng. Đường này được gọi
là đường Phillips dài hạn.
Bàng quan trong kinh tế học vi mô chỉ thái độ của người tiêu dùng không có sự phân biệt giữa các lựa chọn
kết hợp hàng hóa bởi lẽ mọi lựa chọn đều cho tổng mức thỏa dụng bằng nhau.
1/33
Trong các giáo trình kinh tế học vi mô nhập môn hoặc cơ sở, bàng quan thường được thể hiện bằng đường
bàng quan (còn gọi là đường đồng mức thỏa dụng) trên một đồ thị hai chiều. Đường bàng quan là một tập hợp
các lựa chọn về lượng giữa hai hàng hóa khác nhau nhưng cùng cho một mức hiệu dụng bằng nhau. Độ dốc của
đường bàng quan được gọi là tỷ lệ thay thế biên của hàng tiêu dùng. Đây là tỷ lệ mà theo đó, người tiêu dùng sẵn
lòng giảm lượng hàng hóa này để có thể tăng một đơn vị lượng hàng hóa kia. Thông thường, đường bàng quan là
một đường cong (do tỷ lệ thay thế biên không cố định) và lồi (vì tỷ lệ thay thế biên có xu hướng giảm dần).
Tuy nhiên, nếu hai hàng hóa thay thế hoàn hảo cho nhau, thì đường bàng quan có dạng tuyến tính, và bản đồ
bàng quan sẽ bao gồm các đường thẳng song song với nhau như trong Hình 2.
Nếu hai hàng hóa bổ sung hoàn hảo cho nhau, thì đường bàng quan có dạng hình chữ L như trong Hình 3.
Tập hợp các đường bàng quan của người tiêu dùng
gọi là bản đồ bàng quan. Đường bàng quan càng xa
điểm gốc nghĩa là mức thỏa dụng mà các lựa chọn đem
lại càng lớn.
•
Hình 1: Bản đồ bàng quan với những đường bàng
quan điển hình.
•
Hình 2: Đường bàng quan trong trường hợp hai hàng
hóa X và Y thay thế hoàn hảo cho nhau.
•
Hình 3: Đường bàng quan trong trường hợp hai hàng
hóa X và Y bổ sung hoàn hảo cho nhau
Đường đẳng lượng, trong kinh tế học vi mô, là tập hợp các kết hợp giữa những yếu tố sản xuất (đầu vào) để
đạt được cùng một mức sản lượng (đầu ra).
Để cho đơn giản, giả định xí nghiệp chỉ sử dụng 2 yếu tố sản xuất (đầu vào), đó là input X và input Y. Giả
định chỉ có 2 yếu tố sản xuất cho phép minh họa đường đẳng lượng bằng hình vẽ không gian hai chiều. Khi có
nhiều hơn 2 yếu tố sản xuất, cần sử dụng không gian hơn 2 chiều mới minh họa được; và điều đó làm cho việc
minh họa phức tạp. Lại tiếp tục giả định rằng hai yếu tố này có thể thay thế cho nhau để sản xuất ra cùng một mức
sản lượng và giả định công nghệ sản xuất là cố định. Nếu sử dụng yếu tố này nhiều thêm, thì phải sử dụng yếu tố
còn lại ít đi. Giả định quan trọng nữa là yếu tố sản xuất nào cũng tuân theo quy luật lợi tức giảm dần.
Khi biểu diễn trên một trục tọa độ với một trục là các mức input X, và trục còn lại là các mức input Y, sẽ có
một đường cong đi từ phía trên bên trái xuống phía dưới bên phải và đây là một đường lồi (hướng vào gốc) như
thấy trong hình vẽ A. Độ dốc của đường đẳng lượng này thể hiện tỷ lệ thay thế yếu tố này bằng yếu tố kia hay
chính là tỷ lệ biên thay thế kỹ thuật.
Nếu hai yếu tố sản xuất thay thế hoàn hảo cho nhau, khi đó đường đẳng lượng có dạng đường thẳng đi xuống
phía dưới bên phải và tạo với mỗi trục một góc 45
0
, nói theo kiểu toán học là đường này có độ dốc là -1 như trong
hình vẽ B.
Nếu hai yếu tố sản xuất bổ sung hoàn hảo cho nhau, khi đó đường đẳng lượng có dạng là những đường gấp
vuông góc như trong hình C. Đỉnh của đường đẳng lượng này (điểm mà tại đó đường này gấp khúc) nằm trên
đường phân giác của trục tọa độ.
Đường đẳng lượng (Isoquant) và đường đẳng phí (isocost)
Một tập hợp các đường đẳng lượng sẽ được gọi là bản đồ đẳng lượng. Trong một bản đồ đẳng lượng, các
đường này không bao giờ giao nhau. Đường càng xa gốc tương ứng với mức sản lượng càng lớn.
2/33
Đường đẳng lượng giúp xác định kết hợp tối ưu các yếu tố đầu vào để đạt được mức đầu ra xác định với chi
phí ít nhất. Điểm tối ưu đó chính là tiếp điểm giữa đường đẳng lượng và đường đẳng phí.
Đường đẳng phí, trong kinh tế học vi mô, là tập hợp các mức chi phí không đổi mà doanh nghiệp bị ràng
buộc khi tìm cách kết hợp các yếu tố sản xuất (đầu vào) để sản xuất ra mức sản lượng lớn nhất.
Một bản đồ đẳng phí.
Giả thiết:
• Doanh nghiệp chỉ sử dụng hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn. Lượng lao động được sử dụng là L và
lượng vốn được sử dụng là K
• Giá cả của các yếu tố sản xuất trên là cố định, và lần lượt là w và r.
• Tổng chi phí sản xuất là TC (= wL + rK) và giá trị này là cố định.
Khi đó, đường đẳng lượng là một đường ngang dốc xuống phía phải trong một trục tọa độ mà mỗi trục là một
tập hợp các mức sử dụng một trong hai yếu tố sản xuất. Trên cùng một đường đẳng lượng, các mức sử dụng đầu
vào có thể khác nhau, nhưng chi phí vẫn bằng nhau, như trường hợp điểm A và điểm B. Độ dốc của đường đẳng
lượng chính bằng giá trị tuyệt đối giữa giá cả của 2 yếu tố sản xuất. Độ dốc này mang giá trị âm, vì tăng sử dụng
yếu tố này sẽ phải bớt sử dụng yếu tố còn lại.
Một tập hợp các đường đẳng phí gọi là bản đồ đẳng phí. Đường đẳng phí càng xa gốc tương ứng với mức tổng
chi phí càng lớn.
Vấn đề mà doanh nghiệp cần giải quyết chính là tìm ra điểm kết hợp tối ưu các mức sử dụng 2 yếu tố sản xuất
để với một mức chi phí cho trước có thể sản xuất ra mức sản lượng lớn nhất (đồng nghĩa với mức lợi nhuận lớn
nhất). Điểm đó chính là tiếp điểm giữa đường đẳng phí và đường đẳng lượng.
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng tài khoản vãng lai của môt quốc gia sụt giảm ngay sau khi quốc
gia này phá giá tiền tệ của mình và phải một thời gian sau tài khoản vãng lai mới bắt đầu được cải thiện. Quá trình
này nếu biểu diễn bằng đồ thị sẽ cho một hình giống chữ cái J.
Các lý luận kinh tế học nói rằng khi phá giá tiền tệ, giá hàng xuất khẩu định danh bằng ngoại tệ trở nên thấp đi
trong khi giá hàng nhập khẩu định danh bằng nội tệ tăng lên. Vì thế, đất nước sẽ tăng xuất khẩu và giảm nhập
khẩu. Kết quả là cán cân vãng lai (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) sẽ được cải thiện. Tuy nhiên, trong thực tế, về phía
cầu, hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra dựa trên các hợp đồng, vì thế lượng hàng xuất nhập khẩu không thay đổi
đồng thời với thay đổi giá cả (do tỷ giá thay đổi). Còn về phía cung, việc điều chỉnh trang thiết bị sản xuất để sản
xuất thêm hàng xuất khẩu cần thời gian.
Tóm lại, chính sự thay đổi giá cả và thay đổi khối lượng hàng hóa không diễn ra đồng thời là nguyên nhân trực
tiếp của hiện tượng Đường cong J.
Đường cong Laffer, đặt theo tên Authur Laffer, biểu diễn quan hệ số thu thuế là hàm số của thuế suất. Nó là
một trong những lý luận trung tâm của kinh tế học trọng cung.
3/33
Đường cong Laffer: Có một mức thuế suất tối ưu (t*) cho phép nhà nước đạt được số thu ngân sách từ thuế lớn
nhất. Khi thuế suất nằm dưới mức tối ưu này, thì nâng thuế suất cho phép tăng thu ngân sách. Nhưng nếu thuế
suất đã cao hơn mức tối ưu này mà lại tiếp tục nâng thuế suất thì số thu ngân sách chỉ giảm đi. Hàm ý của đường
cong Laffer là khi thuế suất đang ở mức cao, thì giảm thuế suất sẽ có lợi vì thu ngân sách tăng đồng thời lại
khuyến khích khu vực tư nhân hăng hái đầu tư.
Lý luận đường cong Laffer bị phê phán là đơn giản quá mức, chỉ dừng lại ở trạng thái tĩnh. Một trong những
phê phán chính đối với đường cong Laffer là giảm thuế dẫn tới thu nhập sau thuế của người lao động tăng, khiến
họ có nhu cầu nghỉ ngơi cao hơn. Sản xuất vì thế có thể bị thu hẹp do lượng cung lao động giảm. Thêm vào đó,
làm thế nào để tính chính xác được thuế suất tối ưu t* hoàn toàn không phải là việc đơn giản.
Đường cong Lorenz là một loại đồ thị dùng để biểu diễn mức độ bất bình đẳng trong phân phối. Nó được phát
triển bởi Max.O.Lorenz từ năm 1905 để thể hiện sự phân phối thu nhập. Đường cong Lorenz là sự biểu diễn bằng
hình học của hàm phân bố tích lũy, chỉ ra quan hệ giữa tỷ lệ phần trăm của một giá trị thể hiện qua trục tung với tỷ
lệ phần trăm của một giá trị khác thể hiện qua trục hoành. Đường cong Lorenz thường được sử dụng trong việc
nghiên cứu sự phân bố thu nhập, chỉ ra tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình hay dân số trong tổng số và tỷ lệ phần trăm
thu nhập của họ trong tổng thu nhập.
Một đường cong Lorenz điển hình: Tỷ lệ phần trăm cộng dồn số hộ gia đình được thể hiện trên trục hoành, và
tỷ lệ phần trăm cộng dồn thu nhập thể hiện trên trục tung.
Đường màu xanh lá cây hợp với trục hoành thành một góc 45° gọi là đường bình đẳng tuyệt đối. Mỗi điểm
trên đường này thể hiện tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình đúng bằng tỷ lệ phần trăm thu nhập.
Đường màu xanh da trời được gọi là đường bất bình đẳng tuyệt đối. Mỗi điểm trên đường này thể hiện tỷ lệ
phần trăm số hộ gia đình không có thu nhập hoặc tỷ lệ phần trăm số hộ gia đình chiếm toàn bộ tổng thu nhập.
Đường cong Lorenz luôn luôn bắt đầu từ điểm (0,0) và kết thúc tại điểm (1,1). Nó không thể nằm phía trên
đường bình đẳng tuyệt đối, cũng không thể nằm phía dưới đường bất bình đẳng tuyệt đối. Một đường Lorenz điển
hình là đường lõm hướng về gốc (0,0). Một điểm bất kỳ trên đường Lorenz cho biết tỷ lệ % cộng dồn của nhóm
dân cư nghèo nhất nhận được bao nhiêu % tổng thu nhập. Như vậy đường Lorenz là cách biểu hiện trực quan của
sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nó càng lõm thì mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng
cao.
Hạn chế của đường Lorenz
Đường cong Lorenz của 3 quốc gia X, Y, Z: Mặc dù biểu hiện một cách trực quan, dễ thấy mức độ bất bình
đẳng trong phân phối thu nhập nhưng bản thân đường cong Lorenz không phải là cách đánh giá định lượng về sự
bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Mặt khác, kể cả khi so sánh đường Lorenz giữa các quốc gia một cách
trực quan, trong nhiều trường hợp cũng không thể đưa đến kết luận quốc gia nào có mức độ bất bình đẳng cao
hơn. Khi các đường Lorenz không cắt nhau thì đường nào lõm hơn sẽ thể hiện mức độ bất bình đẳng lớn hơn
4/33
nhưng khi chúng cắt nhau thì không thể đưa ra kết luận được. Ví dụ như trong hình bên, nhìn đường Lorenz của
ba quốc gia X, Y, Z ta chỉ có thể biết Y và Z có mức độ bất bình đẳng cao hơn X còn giữa Y và Z thì không biết
được quốc gia nào có mức độ bất bình đẳng lớn hơn.
Để khắc phục nhược điểm này, người ta thường sử dụng hệ số Gini (do nhà thống kê học người Ý Corrado
Gini xây dựng) là tỷ lệ phần trăm giữa diện tích của vùng nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và đường cong
Lorenz với diện tích của vùng nằm giữa đường bình đẳng tuyệt đối và đường bất bình đẳng tuyệt đối. Giá trị của
hệ số Gini nằm trong khoảng từ 0 đến 1, giá trị càng cao thì mức độ bất bình đẳng càng lớn. Những quốc gia có hệ
số Gini từ 0,5 trở lên thì được coi là có mức độ bất bình đẳng cao còn trong khoảng 0,2 đến 0,35 thì phân phối
tương đối công bằng.
Đường IS biểu thị tập hợp các mức lãi suất và thu nhập cân bằng thị trường hàng hóa vĩ mô. IS là kết hợp hai
chữ cái viết tắt của Investment và Saving trong tiếng Anh, nghĩa là đầu tư và tiết kiệm. Đường IS được sử dụng
trong phân tích IS-LM.
Giả thiết
Hình mô tả cách xây dựng đường IS
• Đầu tư I là hàm số của lãi suất thực tế r : I = I (r).
Đầu tư giảm nếu lãi suất tăng (dI/dr<0). (Xem thêm hàm số đầu tư)
• Tiết kiệm S là hàm số của thu nhập Y : S = Y - C
Tiết kiệm tăng khi thu nhập tăng (dS/dY>0). Xem thêm hàm số tiết kiệm).
Ở đây lưu ý là thu nhập bằng với sản lượng bằng với tổng chi tiêu (chi tiêu dùng + chi đầu tư tư nhân + chi
tiêu ròng chính phủ + xuất khẩu ròng). Khi một trong các loại chi tiêu này thay đổi, thì tổng chi tiêu sẽ thay đổi,
hay thu nhập sẽ thay đổi. Y = C + I + G + NX
• Thị trường hàng hóa vĩ mô ở trạng thái cân bằng, do đó : I = S.
Thành lập mô hình
• Lãi suất r tăng, khiến cho đầu tư I giảm đi.
5/33
• Tiết kiệm S luôn bằng đầu tư I, nên khi đầu tư giảm thì thu nhập Y phải giảm để cho tiết kiệm giảm
xuống.
• Biểu diễn quan hệ nghịch đảo giữa lãi suất r và thu nhập Y để đảm bảo cần bằng thị trường hàng hóa vĩ
mô này trên đồ thị hai chiều với trục hoành là các mức thu nhập Y, còn trục tung là các mức lãi suất r, ta sẽ có
một đường IS là tập hợp của các mức tiết kiệm và thu nhập bằng nhau làm cân bằng thị trường hàng hóa vĩ mô.
Đường này dốc xuống phía phải.
• Phương trình đường IS: Y = C ( Y - T ) + I ( r ) + G
Vận dụng mô hình: Vì nguyên nhân nào đó (chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế dẫn tới chi
tiêu ròng của chính phủ tăng lên (xem Chính sách tài chính), lãi suất r không đổi mà đầu tư I lại tăng lên. Tiết
kiệm S phải tăng theo đầu tư. Và thu nhập Y phải tăng lên để cho tiết kiệm tăng. Khi r không đổi mà Y tăng,
đường IS dịch song song sang phía phải của đồ thị.
• Ngược lại, khi r không đổi mà Y giảm, đường IS dịch song song sang phía trái.
Các yếu tố làm dịch chuyển IS
• G (chi tiêu chính phủ), T (thuế): Chính phủ sử dụng chính sách tài khóa làm tăng G (giảm T) sẽ làm IS
dịch chuyển sang phải.
• Cú sốc ngoại sinh : Cú sốc ngoại sinh của người tiêu dùng ,nhà đầu tư làm tăng I (đầu tư),C (chi tiêu cá
nhân) ngoại sinh sẽ làm dịch chuyển IS phải.
Độ dốc của đường IS: Đường IS có độ dốc âm : bởi vì r(lãi suất),I(đầu tư) có quan hệ ngược
chiều với nhau.Độ dốc của IS phụ thuộc vào độ nhạy cảm của I(đầu tư) phản ánh qua lãi suất,giá trị của số nhân
chi tiêu.
• Sự nhạy cảm của đầu tư với lãi suất:
o Đầu tư rất nhạy cảm:một sự thay đổi nhỏ của lãi suất cũng làm cho đầu tư và chi tiêu thay đổi một
lượng lớn => thu nhập thay đổi nhiều,đường IS sẽ thoải.
o Đầu tư ít nhạy cảm :ngược lại.
• Giá trị của số nhân chi tiêu(m):
o Nếu số nhân chi tiêu lớn thì thu nhập cân bằng tăng nhiều.Do vậy đường IS sẽ thoải.
o Nếu số nhân chi tiêu nhỏ thì ngược lại.
Các trường hợp đường IS đặc biệt: Trong mô hình trên, chúng ta thấy một đường IS trơn
tru, dốc xuống phía phải. Song có những trường hợp đặc biệt, đường IS sẽ không phải như vậy.
• Đường IS thẳng đứng:
Trong mô hình chuẩn trình bày ở trên, chúng ta giả thiết là đầu tư I là hàm số giảm của lãi suất r. Tuy nhiên,
nếu nới lỏng giả thiết này, và cho rằng đầu tư hoàn toàn không có phản ứng gì khi lãi suất thay đổi (dI/dr=0). Khi
ấy tiết kiệm S cũng không hề thay đổi. Thu nhập Y cũng không thay đổi. Tóm lại, dù lãi suất thay đổi, nhưng thu
nhập không đổi. Đường IS vì thế thẳng đứng.
• Đường IS nằm ngang: Giả dụ, bây giờ đầu tư I lại phản ứng mạnh vô hạn với những thay đổi của lãi suất
r. Lúc này đường IS sẽ nằm ngang.
Đường LM biểu diễn một tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ. L và M là các chữ cái viết tắt của
các từ tiếng Anh Liquidity Preference và Money Supply nghĩa là nhu cầu giữ tiền mặt của cá nhân và cung tiền
của cơ quan quản lý tiền tệ của nhà nước. Đường LM được dùng trong phân tích IS-LM.
Giả thiết
• Thị trường tiền tệ ở trạng thái cân bằng, nghĩa là lượng cầu tiền L bằng lượng cung tiền M.
• Lượng cung tiền M không thay đổi vì cơ quan quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương hay các cơ quan
tương đương) không tiến hành biện pháp gì làm ảnh hưởng tới lượng cung tiền.
• Lượng cầu tiền L bằng tổng của lượng cầu tiền vì mục đích giao dich và lượng cầu tiền vì mục đích đầu cơ
kiếm lợi.
Càng có nhiều thu nhập, cá nhân càng tiêu dùng nhiều, do đó càng cần nhiều tiền mặt để giao dịch.
Lãi suất càng cao thì người ta càng giữ ít tiền mặt, và thay vào đó càng tăng mua các tài sản có lợi tức cao.
6/33
Thành lập mô hình
Hình 1: Đường LM thông thường
Vì giả thiết rằng lượng cầu tiền L luôn bằng lượng cung tiền M, nghĩa là không đổi. Nên hễ thu nhập Y tăng,
thì lượng cầu tiền vì mục đích giao dịch sẽ tăng lên. Lượng cầu tiền dự trữ vì mục đích đầu cơ vì thế sẽ giảm đi;
và để đảm bảo điều đó, lãi suất thực tế r cần phải tăng lên. Tóm lại, khi xét từ góc độ thị trường tiền tệ cân bằng,
khi thu nhập tăng thì lãi suất thực tế cũng sẽ tăng; và ngược lại.
Như vậy, đường LM biểu diễn một tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tiền tệ sẽ là đuờng dốc lên phía
phải trên một đồ thị hai chiều với trục hoành là các mức thu nhập Y, còn trục tung là các mức lãi suất thực r (xem
Hình 1).
• Phương trình đường LM: M / P = L (Y, r)
M: cung tiền
M / P: cung tiền thực tế
L (Y, r): hàm cầu tiền phụ thuộc vào thu nhập và lãi suất
Các trường hợp đặc biệt
Hình 2: Đường LM nằm ngang khi lãi suất quá thấp, thẳng đứng khi lãi suất quá cao và dốc lên phía phải khi
lãi suất ở giữa hai khoảng trên
Hãy xem xét hành vi đầu cơ của cá nhân. Hễ thấy lãi suất thực tế tăng lên, cá nhân liền chuyển tiền mặt mà
mình đang nắm giữ thành các tài sản có thể đem lại lợi tức. Đây là trường hợp thông thường. Song có hai trường
hợp đặc biệt, hay hai giải pháp góc.
• Trường hợp thứ nhất tương ứng với tình huống cá nhân thà giữ tiền mặt hoàn toàn, đó là khi lãi suất quá
thấp và các tài sản như trái phiếu chỉ đem lại lợi tức không đáng kể.
• Trường hợp thứ hai tương ứng với tình huống cá nhân đem hết số tiền dự trữ để đầu cơ chuyển thành các
tài sản có lợi tức, thành ra số tiền còn nắm giữ vì mục đích đầu cơ bằng không.
Với hai giải pháp góc này, đường LM cần được điều chỉnh lại như trong Hình 2.
Vận dụng mô hình
7/33
Hình 3: Đường LM dịch sang phải khi cung tiền tăng
Bây giờ, giả dụ cơ quan quản lý tiền tệ quyết định tăng lượng cung tiền M. Để cho thị trường tiền tệ luôn cân
bằng, lượng cầu tiền L cũng sẽ tăng lên tương ứng. Với cùng một mức lãi suất thực nên lượng cầu tiền dự trữ để
đầu cơ sẽ không đổi. Vì thế, lượng cung tiền L tăng thực chất là do lượng cầu tiền vì mục đích giao dịch tăng.
Muốn thế, thu nhập Y phải tăng. Nói chính sách nới lỏng tiền tệ kích thích kinh tế tăng trưởng chính là dựa vào cơ
chế nói trên.
Trên đồ thị, đường LM sẽ dịch song song sang phía phải khi lượng cung tiền M tăng.
Mô hình IS-LM : cũng được biết đến như là mô hình Hicks-Hansen, được nhà kinh tế học người Anh John
Hicks (1904-1989) và nhà kinh tế học của Hoa Kỳ Alvin Hansen (1887-1975) đưa ra và phát triển. Mô hình IS-
LM đã được sử dụng để kết hợp các hoạt động khác nhau của nền kinh tế: nó là sự kết hợp của thị trường tài chính
(tiền tệ) với thị trường hàng hóa và dịch vụ. Trong nền kinh tế đóng thì mô hình không chịu ảnh hưởng của các
yếu tố bên ngoài nền kinh tế: xuất khẩu ròng (NX), tỷ giá hối đoái,lãi suất thế giới
Trong tiếng Anh, IS-LM là viết tắt của Investment/Saving - Liquidity preference/Money supply (Đầu tư/Tiết
kiệm - Nhu cầu thanh toán/Tiền cung cấp ưu đãi).
Cơ sở hình thành mô hình
Hình mô tả cách xây dựng đường LM
Hình mô tả cách xây dựng đường IS
8/33
Xem bài riêng về đường IS và đường LM
• Phương trình biểu hiện trạng thái cân bằng trên thị trường hàng hóa của một nền kinh tế đóng :Y = C + I +
G
o C = C ( Y - T )
o I = I ( r )
•
o G =
•
o T =
• Phương trình biểu hiện trạng thái cân bằng trên thị trường tiền tệ của một nền kinh tế đóng : M / P = L ( Y,
r )
• Xây dựng đường IS :Đường IS là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho tổng chi
tiêu kế hoạch đúng bằng thu nhập.
Phương trình đường tổng chi tiêu kế hoạch: AE = C ( Y - T ) + I ( r ) + G
• Xây dựng đường LM: Đường LM là tập hợp các kết hợp khác nhau giữa lãi suất và thu nhập sao cho cầu
tiền thực tế bằng cung tiền thực tế.
Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả hai thị trường hàng hóa và
tiền tệ
Cân bằng IS-LM trong nền kinh tế đóng
• Trạng thái cân bằng đồng thời trên cả hai thị trường hàng hóa và tiền tệ là trạng được biểu hiện sự kết hợp
hai thị trường này trong cùng một mô hình.
• Điểm cân bằng trên cả hai thị trường này phải thỏa mãn đồng thời hai phương trình :
•
o (IS) : Y = C ( Y - T ) + I ( r ) + G
o (LM) : M / P = L ( Y, r )
Kết hợp hai đường IS và LM
Giao điểm giữa hai đường IS và LM là điểm cân bằng đồng thời cả hai thị trường hàng hóa và tiền tệ
Có thể kết hợp hai đường IS và LM vào cùng một đồ thị với trục tung là các mức lãi suất thực tế r và trục
hoành là các mức thu nhập Y. Giả định là không có tình huống nào hai đường này không gặp nhau.
Giao điểm E giữa đường IS và đường LM chính là điểm cân bằng đồng thời cả thị trường hàng hóa lẫn thị
trường tiền tệ. Điểm E giúp xác định mức thu nhập cân bằng Y* và mức lãi suất thực tế cân bằng r*.
9/33
Mỗi đường đều có thể có hình dáng thông thường, tức là đường IS dốc xuống phía phải và đường LM dốc lên
phía phải. Mỗi đường đều có thể có hình dáng nằm ngang và mỗi đường đều có thể có hình dáng thẳng đứng.
Như vậy, sẽ có bảy tình huống hai đường IS và LM gặp nhau và hai tình huống hai đường không gặp nhau
(chúng ta sẽ không xem xét hai tình huống này).
Tình huống thông thường: Hai đường IS và LM ở dạng thông thường (tình huống 1). Khi chính sách tiền
tệ không thay đổi, chính sách tài chính nới lỏng được thực hiện thì thu nhập tăng lên do đường IS dịch song song
sang phía phải, còn chính sách tài chính thắt chặt được thực hiện thì thu nhập giảm đi do đường IS dịch song song
sang phía trái.
Tương tự, khi chính sách tài chính không đổi, chính sách tiền tệ nới lỏng được thực hiện thì thu nhập tăng lên
do đường LM dịch song song sang phía phải, còn chính sách tiền tệ thắt chặt được thực hiện thì thu nhập giảm vì
đường LM dịch song song sang phía trái.
Chính sách tài chính và chính sách tiền tệ phát huy hiệu lực, nhưng mức độ phụ thuộc vào độ dốc của hai
đường IS và LM.
Khi hai chính sách cùng được thực hiện một lúc và theo cùng hướng nới lỏng hay cùng hướng thắt chặt, hiệu
quả đối với tăng thu nhập là rất lớn. Còn khi hai chính sách cùng được thực hiện một lúc, nhưng một chính sách
theo hướng nới lỏng còn một chính sách theo hương thắt chặt, thì hiệu quả tới thu nhập nhỏ. Đây gọi là ảnh hưởng
triệt tiêu.
Tình huống đặc biệt
• Chính sách tiền tệ vô hiệu lực: Đường LM ở đoạn nằm ngang gặp đường IS dốc xuống phía phải (tình
huống 2) hoặc đường IS thẳng đứng (tình huống 3). Các tình huống này gọi là bẫy thanh khoản. Lúc này chỉ có
chính sách tài chính là phát huy được tác dụng, còn chính sách tiền tệ vô hiệu lực. Chính phủ nới lỏng tài chính
bao nhiêu thì thu nhập tăng lên bấy nhiêu, và thắt chặt bao nhiêu thì thu nhập giảm bấy nhiêu. Tương tự khi
đường LM ở đoạn dốc lên gặp đường IS thẳng đứng (tình huống 4).
• Chính sách tài chính vô hiệu lực: Đường LM ở đoạn thẳng đứng gặp đường IS dốc xuống (tình huống 5)
hoặc đường IS nằm ngang (tình huống 6). Lúc này chính sách tài chính vô hiệu lực. Ngược lại, chính sách tiền tệ
phát huy tác dụng tối đa; cung tiền tăng bao nhiêu thì thu nhập tăng bấy nhiêu. Tương tự khi đường IS nằm ngang
gặp đường LM ở đoạn dốc lên (tình huống 7).
Mô hình Mundell-Fleming (The Mundell-Fleming model) là một mô hình kinh tế học vĩ mô sử dụng 2
đường IS và LM để phân tích tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô được thực hiện trong một nền kinh tế mở
cửa. Mô hình mang tên 2 nhà kinh tế học là Robert Mundell và John Marcus Fleming. Đây là mô hình lý thuyết
được Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển một cách độc lập trong những năm 1960. Mô hình cho thấy
mối quan hệ giữa sản lượng với tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong ngắn hạn.
Thiết lập mô hình
Hình minh họa cách dựng LM* Hình minh họa cách dựng IS*
Đường LM*
• Cách dựng LM*:
• Phương trình LM* :
M / P = L ( r* , Y )
• Đường LM* là đường LM trong đồ thị Y-e.
10/33
• Đường LM* là một đường thẳng đứng, vì tỷ giá hối đoái không được đưa vào trong phương trình của
LM*.
Đường IS*
• Cách dựng IS* :
• Phương trình đường IS* :
Y = C ( Y - T ) + I ( r* ) + G + NX ( e )
• Đường IS* là đường IS thể hiện trong đồ thị Y-e.
• Đường IS* dốc xuống vì tỷ giá hối đoái cao hơn làm giảm xuất khẩu ròng ( NX ),qua đó làm giảm tổng
thu nhập.
Điều kiện của mô hình
• Sản lượng thực tế nhỏ hơn sản lượng tiềm năng.
• Giá cố định
• Nền kinh tế nhỏ, mở cửa.
Nền kinh tế nhỏ, tỷ giá hối đoái thả nổi
Chính sách tài chính(Chính sách tài khóa)
Ảnh hưởng của chính sách tài chính mở rộng trong ngắn hạn,tỷ giá hối đoái thả nổi
Để tăng sản lượng Y, chính phủ có thể sử dụng chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu chính phủ hoặc
giảm thuế). Trong ngắn hạn, chi tiêu chính phủ tăng làm tăng chi tiêu hàng hóa trong nước (đường IS dịch chuyển
sang phải trong khi đường LM đứng yên), dẫn đến đồng nội tệ lên giá so với ngoại tệ (do nhu cầu về đồng nội tệ
lớn). Đồng nội tệ lên giá làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu. Trong dài hạn, sự gia tăng của tỷ giá hối đoái
làm giảm xuất khẩu ròng, là nguyên nhân làm mất ảnh hưởng của sự mở rộng tổng cầu trong nước về hàng hóa và
dịch vụ. Điều này làm triệt tiêu ảnh hưởng mở rộng ban đầu của chính sách tài chính và đưa lãi suất trong nước về
mức lãi suất thế giới.
Do vậy: trong ngắn hạn, dưới chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi và vốn chu chuyển hoàn hảo thì chính sách tài
chính hoàn toàn không có hiệu lực trong việc điều tiết tổng cầu của nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ
Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ mở rộng trong ngắn hạn với tỷ giá hối đoái thả nổi
11/33
Để tăng sản lượng Y thì chính phủ tăng cung tiền làm lãi suất trong nước tạm thời giảm xuống so với lãi suất
nước ngoài, tạo ra một dòng vốn lớn chảy ra nước ngoài. Chính sách tiền tệ mở rộng làm đường LM dịch chuyển
sang phải, còn đường IS thì đứng yên. Nhà đầu tư trong nước tìm cách chuyển từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ,
làm giá của đồng nội tệ giảm. Trong dài hạn, tỷ giá hối đoái giảm làm tăng xuất khẩu và làm giảm nhập khẩu.
Việc chuyển đổi đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ diễn ra cho đến khi tỷ giá hối đoái tăng đủ để lãi suất trong nước
tăng ngang bằng với lãi suất nước ngoài.
Do vậy: Trong ngắn hạn, với tỷ giá hối đoái thả nổi và vốn chu chuyển hoàn hảo thì chính sách tiền tệ là có
hiệu quả.
Chính sách thương mại
Ảnh hưởng của chính sách hạn chế thương mại tới đường xuất khẩu ròng(NX) trong ngắn hạn
.
Ảnh hưởng của chính sách hạn chế thương mại với tỷ giá hối đoái thả nổi ,trong ngắn hạn
Chính phủ dùng biện pháp hạn chế thương mại: Chính phủ cắt giảm nhu cầu về hàng nhập khẩu bằng cách đặt
ra hạn ngạch nhập khẩu hoặc thuế quan. Xuất khẩu ròng bằng xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, giảm nhập khẩu sẽ làm
cho tăng tỷ giá hối đoái và tăng xuất khẩu ròng, đường xuất khẩu ròng dịch chuyển sang phải. Đường xuất khẩu
ròng (NX) dịch chuyển sang phải làm cho đường IS dịch chuyển sang phải.
Do vậy : Trong ngắn hạn, với tỷ giá hối đoái thả nổi thì biện pháp hạn chế thương mại chỉ làm tăng tỷ giá hối
đoái mà không tác động đến sản lượng Y.
Nền kinh tế nhỏ, tỷ giá hối đoái cố định
Chính sách tài chính
12/33
Ảnh hưởng của chính sách tài khóa mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
Trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách mở rộng tài chính của chính phủ sẽ làm dịch chuyển
đường IS sang phải. Để duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì ngân hàng trung ương phải tăng cung tiền, làm dịch
chuyển đường LM sang phải với quy mô tương ứng.
Do vậy: Trong ngắn hạn, với tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách tài chính mở rộng sẽ làm tăng sản lượng Y.
Chính sách tiền tệ
Ảnh hưởng của chính sách tiền tệ mở rộng trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
Khi chính phủ sử dụng chính sách tiền tệ mở rộng bằng việc tăng cung tiền sẽ tạo áp lực làm giảm tỷ giá hối
đoái, đường LM dịch chuyển sang phải. Để giữ cho tỷ giá hối đoái cố định thì cung tiền phải giảm dẫn đến đường
LM phải dịch chuyển sang trái về vị trí ban đầu.
Do vậy: Trong ngắn hạn, với tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách tiền tệ không có hiệu quả.
Chính sách thương mại
Ảnh hưởng của chính sách hạn chế thương mại trong điều kiện tỷ giá hối đoái cố định
13/33
Chính phủ sử dụng thuế quan hoặc hạn ngạch làm giảm nhập khẩu (làm tăng xuất khẩu ròng), làm dịch chuyển
đường IS sang phải. Để giữ cho tỷ giá hối đoái cố định thì chính phủ phải tăng cung tiền lên làm đường LM dịch
chuyển sang phải, sản lượng Y tăng lên.
Do vậy: Trong ngắn hạn với tỷ giá hối đoái cố định thì chính sách thương mại là có hiệu quả.
Vấn đề khác
•
Mô hình Mundell-Fleming nguyên gốc rõ ràng cũng có những hạn chế. Chẳng hạn, như tất cả các phân
tích kinh tế vĩ mô thời kì đó, nó đã đưa ra những giả thuyết đơn giản hóa về kì vọng trên thị trường tài chính và
thừa nhận tính cứng nhắc của giá cả trong ngắn hạn. Những thiếu sót này đã được các nhà nghiên cứu sau đó
chỉnh sửa, họ đã chứng minh rằng điều chỉnh giá dần dần và kì vọng hợp lý không thể kết hợp vào các phân tích
mà không thay đổi đáng kể các kết quả thu được.
[1]
Sơ đồ DD-AA là sơ đồ biểu diễn cơ chế xác định điểm cân bằng về sản lượng và tỷ giá hối đoái của một nền
kinh tế mở. Đây là một lựa chọn khác thay thế cho mô hình Mundell-Fleming. Sơ đồ DD-AA được xây dựng trên
cơ sở kết hợp hai đường cong DD thể hiện các điểm cân bằng trên thị trường sản lượng và AA thể hiện các điểm
cân bằng trên thị trường tài sản.
Đường cong DD
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa tăng khiến sản lượng cân bằng tăng theo sự dịch chuyển dọc theo đường DD. Y, I,
G, P* tăng hoặc T, P giảm làm sản lượng cân bằng tăng theo sự dịch chuyển song song sang phía phải của đường
DD.
Đường cong DD thể hiện tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường sản lượng (nghĩa là tổng cầu bằng tổng
cung). Để xây dựng được đường DD, trước tiên chúng ta cần rõ cơ chế xác định tổng cầu.
Gọi D là tổng cầu, Y là thu nhập quốc dân, T là tổng thu từthuế, I là đầu tư theo kế hoạch của các hãng, G là
chi tiêu của chính phủ, E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa, P* là mức giá chung của nước ngoài, P là mức giá chung
trong nước. Khi đó ta có phương trình tính tổng cầu như sau:
D = D(Y,T,I,G,E,P*,P)
trong đó, dD/dY>0, dD/dT<0, dD/dI>0, dD/dG>0, dD/dP*>0, dD/dP<0.
Tổng cầu sẽ tăng khi xảy ra một hoặc đồng thời các thay đổi sau: thu nhập quốc dân tăng lên, chính phủ giảm
thuế, đầu tư theo kế hoạch của hãng tăng lên, chính phủ tăng chi tiêu, mức giá chung của nước ngoài tăng lên,
mức giá chung trong nước giảm xuống.
Giả định, nền kinh tế mở ở trạng thái cân bằng, do đó tổng cầu bằng tổng cung. Đường cong DD thể hiện sự
cân bằng này. Như vậy, DD có thể bị tác động khi xảy ra những thay đổi nói trên. Nếu biểu diễn DD trên một trục
tọa độ hai chiều với trục hoành là các mức sản lượng cân bằng, còn trục tung là các mức tỷ giá hối đoái danh
nghĩa, thì với bất cứ sự thay đổi nào của tỷ giá ta sẽ có sự dịch chuyển dọc theo đường DD. Còn với bất cứ sự
thay đổi nào của các nhân tố còn lại (Y, T, I, G, P*, P) ta sẽ có sự dịch chuyển của chính đường DD.
14/33
Đường cong AA
Đường cong AA dốc xuống phía phải. Tỷ giá hối đoái tăng làm sản lượng giảm xuống với sự di chuyển dọc
theo đường AA. Khi sản lượng cố định, cung tiền tăng, mức giá chung trong nước giảm, giá trị kỳ vọng tương lai
của tỷ giá tăng, lãi suất các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tăng đều làm tỷ giá hối đoái tăng với đường AA dịch
song song sang phía phải.
Đường cong AA thể hiện tập hợp các điểm cân bằng trên thị trường tài sản (cân bằng đồng thời cả thị trường
ngoại hối lẫn thị trường tiền tệ trong nước).
Cân bằng trên thị trường ngoại hối có thể diễn đạt bằng phương trình sau:
R = R* + (e(E) -E)/E (2)
trong đó R là lãi suất của các khoản tiền gửi bằng nội tệ, R* là lãi suất của các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ,
e(E) là giá trị kỳ vọng tương lai của tỷ giá hối đoái danh nghĩa, E là tỷ giá hối đoái danh nghĩa.
Cân bằng trên thị trường tiền tệ trong nước có thể diễn đạt bằng phương trình sau:
M/P = L(R,Y) (3)
trong đó M là cung tiền trong nước, P là mức giá chung trong nước, Y là sản lượng (tổng cung bằng tổng cầu).
Từ (2) và (3) ta có:
E = E(M,R*,e(E),Y,P) (4)
với dE/dY<0, dE/dM>0, dE/dP<0, dE/de(E)>0, de/dR*>0.
Dựa vào quan hệ dE/dY<0 để xây dựng đường AA trên một trục tọa độ với trục hoành là sản lượng (Y) và trục
tung là tỷ giá hối đoái danh nghĩa (E), ta thấy đường AA phải là một đường dốc xuống phía phải. Hễ tỷ giá hối
đoái tăng thì Y sẽ giảm và ngược lại. Đây là một sự dịch chuyển dọc theo đường AA. Các nhân tố khác thay đổi
ngoại trừ sản lượng cố định đều sẽ làm tỷ giá hối đoái thay đổi. Đây là sự thay đổi bằng dịch chuyển bản thân
đường AA.
Sơ đồ DD-AA
15/33
Sơ đồ DD-AA giúp xác định sản lượng và tỷ giá cân bằng trong ngắn hạn
Ghép hai đường DD và AA vào cùng một trục tọa độ, ta có sơ đồ DD-AA. Giao điểm của hai đường chính là
điểm cân bằng đồng thời cả thị trường sản lượng (mức sản lượng ở trạng thái toàn dụng lao động) lẫn thị trường
tài sản (tỷ giá hối đoái danh nghĩa ở mức dài hạn của nó).
Những thay đổi trong chính sách tài khóa: Một thay đổi ngắn hạn của chính sách tài
khóa, chẳng hạn tăng chi tiêu chính phủ, hoặc giảm thuế, hoặc cả hai sẽ làm đường DD dịch chuyển sang phía
phải. Tại điểm cân bằng mới (giao điểm mới giữa đường DD đã dịch chuyển và đường AA), mức sản lượng cao
hơn, tỷ giá giảm xuống (nội tệ lên giá).
Nếu những thay đổi như thế diễn ra liên tục, dự tính về tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi, khiến cho đường AA cũng
bị dịch chuyển và sang phía trái, trong khi đường DD vẫn dịch chuyển sang phải. Kết quả là tại điểm cân bằng
mới (giao điểm của hai đường đã dịch chuyển), mức sản lượng vẫn như cũ, chỉ có tỷ giá hối đoái thay đổi (giảm
xuống).
Những thay đổi trong chính sách tiền tệ: Khi ngân hàng trung ương thực hiện chính
sách tiền tệ nới lỏng bằng cách tăng lượng cung tiền, đường AA sẽ dịch chuyển sang phải trong khi đường DD
giữ nguyên. Kết quả là sản lượng tăng và tỷ giá hối đoái cũng tăng (nội tệ mất giá).
Nếu ngân hàng trung ương thực hiện chính sách như thế trong một thời gian dài, thì đường DD cũng sẽ dịch
chuyển và sang phía trái (do mức giá trong nước tăng lên). Đường AA sau khi dịch chuyển sang phía phải khi
ngân hàng trung ương mới tăng cung tiền sẽ bắt đầu dịch chuyển ngược lại về phía trái (do dự tính tỷ giá thay
đổi). Cả hai đường sẽ ngừng dịch chuyển khi mức sản lượng quay trở lại mức cân bằng trước khi có thay đổi
trong chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đoái trong dài hạn sẽ ở mức cao hơn so với trước khi thay đổi chính sách,
nhưng lại thấp hơn so với mức khi mới thay đổi chính sách (ngắn hạn). Vì thế, có thể nói, những thay đổi lâu dài
trong chính sách tiền tệ không tác động tới sản lượng và chỉ tác động phần nào tới tỷ giá. Hiện tượng tỷ giá trong
ngắn hạn tăng lên cao hơn mức dài hạn của nó được gọi là hiện tượng tỷ giá tăng quá mức (xem thêm Mô hình tỷ
giá tăng quá mức)
Mô hình tăng trưởng Solow là một mô hình thuyết minh về cơ chế tăng trưởng kinh tế do Robert Solow và
Trevor Swan xây dựng rồi được các học giả kinh tế khác bổ sung. Solow đã nhận được giải Nobel về kinh tế năm
1987 nhờ cống hiến này. Mô hình này còn gọi là Mô hình tăng trưởng tân cổ điển vì một số giả thiết của mô
hình dựa theo lý luận của kinh tế học tân cổ điển. Mô hình này còn có cách gọi khác, đó là Mô hình tăng trưởng
ngoại sinh, bởi vì không liên quan đến các nhân tố bên trong, rốt cục tăng trưởng của một nền kinh tế sẽ hội tụ về
một tốc độ nhất định ở trạng thái bền vững. Chỉ các yếu tố bên ngoài, đó là công nghệ và tốc độ tăng trưởng lao
động mới thay đổi được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở trạng thái bền vững.
Ký hiệu
16/33
• Y là sản lượng thực tế (hoặc thu nhập thực tế).
• K là lượng tư bản đem đầu tư.
• L là lượng lao động.
• y là sản lượng trên đầu lao động.
• k là lượng tư bản trên đầu lao động.
• S là tiết kiệm của cả nền kinh tế.
• s là tỷ lệ tiết kiệm.
• I là đầu tư.
• i là đầu tư trên đầu lao động.
• C là tiêu dùng cá nhân trong nền kinh tế.
• c là tiêu dùng cá nhân trên đầu lao động.
• δ là tỷ lệ khấu hao tư bản.
• Δ là lượng tư bản tăng thêm ròng.
• n là tốc độ tăng dân số, đồng thời là tốc độ tăng lực lượng lao động.
Hệ giả thiết
Giả thiết 1: Giá cả linh hoạt trong dài hạn. Đây là một quan điểm của kinh tế học tân cổ điển. Khi này, lao
động L được sử dụng hoàn toàn, và nền kinh tế tăng trưởng hết mức tiềm năng và ổn định.
Đồng thời, lúc này, toàn bộ tiết kiệm S sẽ được chuyển thành đầu tư I (quy tắc Say trong kinh tế học tân cổ
điển) Và do đó, sY = I.
Mặt khác, giá cả lao động (tức tiền công thực tế) và giá tư bản (tức lãi suất đi vay) lúc này cũng sẽ linh hoạt.
Vì thế, có thể kết hợp hai yếu tố này để sản xuất môt cách tùy thích.
Giả thiết 2: Mức sản lượng thực tế Y phụ thuộc vào lượng lao động L, lượng tư bản K vài năng suất lao
động A. Từ đó, ta có một hàm sản xuất vĩ mô Y = F(A,L,K).
Giả thiết là hàm này có dạng Cobb-Douglas, tức là:
Với hàm số dạng Cobb-Douglas, nếu ta nhân các số nhân trong vế phải với cùng một số, thì tích số bên vế trái
sẽ tăng lên cùng số đó lần. Do vậy, nếu nhân 1/L với L và K, thì vế trái sẽ thành Y/L tức là sản lượng thực tế trên
đầu lao động y. Còn K/L tức lượng tư bản trên đầu lao động k. Hàm sản xuất vĩ mô sẽ có dạng sau:
Giả thiết 3: Nền kinh tế đóng cửa và không có sự can thiệp của Chính phủ. Do đó, tổng sản lượng Y bằng
tổng của tiêu dùng cá nhân C và đầu tư I hay Y = C + I tương đương với Y = C + sY và lại tương đương với C =
(1-s)Y.
Nếu tính trên đầu lao động L, thì sẽ có tiêu dùng cá nhân trên đầu người c bằng sản lượng thực tế trên đầu
người y nhân với 1-s hay c = (1-s)y.
Lưu ý là 0 < s < 1.
Giả thiết 4: Có sự khấu hao tư bản. Với tỷ lệ khấu hao δ, mức khấu hao sẽ là δK.
Đầu tư I làm tăng lượng tư bản trong khi khấu hao δK làm giảm lượng tư bản, nên mức tư bản thực tế tăng
thêm ΔK sẽ bằng I - δK.
Có thể viết quan hệ trên thành:
Giả thiết 5: Tư bản K và lao động L tuân theo Quy luật lợi tức biên giảm dần. Có nghĩa là khi khi tăng k thì
ban đầu y tăng rất nhanh đến một lúc nào đó nó tăng chậm lại.
Giả thiết 6: Hàm y = f(k) là một hàm tăng. Đồ thị của nó có dạng đường cong. Hàm i = sf(k) = sy cũng như
vậy, bởi vì đầu tư trên đầu lao động i là một bộ phận của sản lượng trên đầu lao động y.
Chú ý rằng để hàm số y = f(k) là hàm tăng thì đạo hàm bậc một y' phải lớn hơn 0, mặt khác do nó tuân theo
quy luật năng suất cận biên giảm dần nên đạo hàm bậc hai y’’ phải nhỏ 0. Đồ thị của hàm số y = f(k) có hình dạng
như trong hình vẽ.
17/33
Giả thiết 7: Thay đổi trong lực lượng lao động L thể hiện bằng phương trình sau:
trong đó, gL là hàm số của L.
Đồng thời giả thiết là tốc độ thay đổi lao động đúng bằng tốc độ thay đổi dân số n.
Xác định mô hình
Hình 1
Khi tư bản trên đầu lao động k tăng, thì giá trị khấu hao δk tăng, hơn nữa, dẫn đến tư bản mới trên đầu lao
động nk tăng. Gọi δk + nk hay (δ+n)k là đầu tư cần thiết, vì nó bù đắp phần tài sản bị hao mòn và đáp ứng vốn
cho lao động mới tăng thêm.
Điểm A trên Hình 1 là giao của đường đầu tư cần thiết (δ+n)k và đường đầu tư trên đầu lao động i. Nó cho
thấy đó là một sự cân bằng.
Tại trạng thái vốn trên đầu lao động k
1
nhở hơn k
*
, thì đầu tư i = sy lớn hơn đầu tư cần thiết (δ+n)k, có nghĩa
là k = sy – (δ+n)k > 0 do đó dẫn đến k tăng.
Ngược lại, tại trạng thái vốn trên đầu lao động k
2
lớn hơn k
*
, thì đầu tư i = sy nhỏ hơn đầu tư cần thiết (δ+n)k,
có nghĩa là k = sy – (δ+n)k < 0, do đó k giảm.
Ta có, k tăng lên đến mức k*, và ngược lại khi nó giảm, thì giảm đến mức k*. Cả hai trường hợp tăng và giảm
đều đạt đến một trạng thái cân bằng. Và người ta gọi đó là điểm ổn định hay trạng thái ổn định.
Tại trạng thái ổn định k*, chúng ta nhận thấy rằng đầu tư và đầu tư cần thiết cân bằng nhau, hay ?k = sy –
(δ+n)k* = 0, tốc độ tăng của sản lượng trên lao động bằng không (gy = 0), và tốc độ tăng của vốn trên mỗi lao
động bằng không (gk = 0).
Mô hình tổng cầu và tổng cung hay còn gọi là mô hình AD-AS là mô hình dùng để giải thích hai biến số.
Biến số thứ nhất là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ được đo bằng GDP thực tế. Biến số thứ hai là mức giá
được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng CPI hay chỉ số điều chỉnh GDP.
Tổng cầu của nền kinh tế là lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trên lãnh thổ một
nước(GDP) mà các tác nhân kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua tại mỗi mức giá.
Trong nền kinh tế mở thì tổng cầu bao gồm 4 nhân tố:
• C: Tiêu dùng của các hộ gia đình
• I: Đầu tư của doanh nghiệp
• G: Chi tiêu của chính phủ
• NX: Xuất khẩu ròng
Phương trình: Phương trình đường tổng cầu trong một nền kinh tế mở có dạng: AD = C + I + G + NX
Đường tổng cầu
18/33
Đường tổng cầu(AD)
Độ dốc của đường tổng cầu: Đường tổng cầu dốc xuống. Được giải thích bởi ảnh hưởng của giá đối với
tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu ròng:
• Mức giá và tiêu dùng(Hiệu ứng Pigou): với mức giá thấp, lượng tiền mà các hộ gia đình nắm giữ có giá trị
hơn, các hộ gia đình cảm thấy giàu có hơn nên họ chi tiêu nhiều hơn trước => tăng tiêu dùng.
• Mức giá và đầu tư (hiệu ứng Keynes): Với mức giá thấp các hộ gia đình cần giữ ít tiền hơn để tiêu dùng.
Nên họ cho vay số tiền thừa, làm lãi suất giảm => kích thích đầu tư.
• Mức giá và xuất khẩu ròng(Hiệu ứng tỷ giá hối đoái): với mức giá thấp, làm cho hàng trong nước rẻ tương
đối so với hàng ngoại. Điều này có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu =>tăng xuất khẩu ròng.
Kết luận: Cả ba hiệu ứng này đã cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa giá và sản lượng hàng hóa. Hay:
đường tổng cầu dốc xuống.
Đường tổng cầu dịch chuyển: Đường tổng cầu sẽ dịch chuyển khi có sự thay đổi khi có sự thay đổi của
các yếu tố cấu thành tổng cầu là C, I, G và NX.
Tổng cung của nền kinh tế: là lượng hàng hóa và dịch vụ được cung ứng trên thị trường. Nó
thể hiện mối quan hệ giữa mức giá chung và khối lượng hàng hóa được cung ứng.
• Tổng cung dài hạn - ASLR
• Tổng cung ngắn hạn - AS
Tổng cung dài hạn - ASLR
Đường tổng cung dài hạn
• Đường tổng cung về hàng hóa, dịch vụ trong dài hạn (ASLR) thẳng đứng tại mức sản lượng tự nhiên.
• Cung hàng hóa, dịch vụ trong dài hạn phụ thuộc vào công nghệ, khối lượng tư bản, lực lượng lao động sẵn
có.
• Cung hàng hóa, dịch vụ trong dài hạn không phụ thuộc vào mức giá trong nền kinh tế.
Tổng cung ngắn hạn - AS
19/33
Đường tổng cung ngắn hạn - AS
• Đường tổng cung ngắn hạn dốc lên.
• Phương trình cơ bản về đường tổng cung gắn hạn: Y = + α ( P - P
e
)
o Y: sản lượng
o : sản lượng tự nhiên
o α: số dương
o P
e
: mức giá kỳ vọng
o P: giá thực tế
• Kết luận rút ra từ phương trình:
o Đường tổng cung có độ dốc dương.
o Vị trí của đường tổng cung phụ thuộc vào P
e
. Vì đường tổng cung ngắn hạn cắt đường tổng cung
dài hạn ở P
e
. Do đó khi P
e
tăng thì đường tổng cung sẽ dịch chuyển lên trên và sang trái.
o Tham số α đo lường phản ứng của sản lượng với chênh lệch giữa giá cả thực tế và giá cả kỳ vọng.
α = 0: đường tổng cung có dạng thẳng đứng.
α rất lớn: đường tổng cung gần như nằm ngang.
• Một số mô hình giải thích về đường tổng cung ngắn hạn:
o Mô hình tiền lương cứng nhắc.
o Mô hình nhận thức sai lầm của công nhân.
o Mô hình thông tin không hoàn hảo.
o Mô hình giá cả cứng nhắc.
Cân bằng cung-cầu (cân bằng sản lượng và mức giá)
Cân bằng tổng cung-tổng cầu
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh toán của một quốc gia. Nó ghi lại
tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu,
tiền tệ) giữa người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố về tài sản nước ngoài
20/33
của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có
thặng dư tài khoản vốn (hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt tài khoản
vãng lai.
Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn ghi lại những giao dịch về tài sản
tài chính.
Tài khoản vốn và lãi suất
Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r',
tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt.
Vì vốn có quan hệ mật thiết với lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất.
Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó
dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ
xuống, cán cân vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và, khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống,
cán cân vốn sẽ được cải thiện.
Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn
vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên. Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi.
Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá (tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện.
Cán cân thanh toán , hay cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một quốc gia với
phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định. Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân,
các doanh nghiệp cư trú trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng
hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có thể là một tháng, một
quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư
trú ngoài nước được ghi vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước
cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Các thành phần của cán cân thanh toán
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm 1993, cán cân thanh toán của một
quốc gia bao gồm bốn thành phần sau.
Tài khoản vãng lai (Xem bài chính về Tài khoản vãng lai). Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng
hóa, dịch vụ và một số chuyển khoản.
Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài sản tài chính (Xem bài chính về Tài khoản vốn)
Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước: Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng
trung ương. Do tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ, nên gần như tăng giảm
cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại hối tạo nên. (Xem bài chính về Dự trữ ngoại hối nhà nước)
Mục sai số: Do khó có thể ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi chép được
và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi trong cán cân thanh toán như là mục sai số.
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán của một quốc gia ghi chép những
giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn
21/33
tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo truyền
thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước
cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi
bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn năm 1993, tài khoản vãng lai
bao gồm:
1. Cán cân thương mại hàng hóa
1. Xuất khẩu
2. Nhập khẩu
2. Cán cân thương mại phi hàng hóa
1. Cán cân dịch vụ
1. Vận tải
2. Du lịch
3. Các dịch vụ khác
2. Cán cân thu nhập
1. Kiều hối
2. Thu nhập từ đầu tư
3. Các chuyển khoản
Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp chung vào trong tính toán
này.
Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai.
Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản
cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.
Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa
tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân thanh toán.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư.
Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài
khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư một
cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP
lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.
Tối thiểu hóa chi phí là hành vi của người sản xuất tìm một kết hợp tối ưu lượng của các yếu tố sản xuất sao
cho với mức chi phí thấp nhất để đạt được một mức sản lượng mục tiêu đã xác định sẵn. Kinh tế học vi mô phân
tích hành vi tối thiểu hóa chi phí của người sản xuất bằng mô hình dưới đây.
Giả thiết
• Để cho đơn giản, giả định nhà sản xuất chỉ sử dụng hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn.
• Giá của lao động là w, còn giá của vốn là r. Hai mức giá w và r là cố định.
• Lượng lao động được sử dụng là L, và lượng vốn được sử dụng là K.
• Chi phí để sản xuất là C và chỉ bao gồm chi phí cho hai loại yếu tố sản xuất nói trên. C = wL + rK = f(w,
L, r, K). Hàm số này được gọi là hàm chi phí.
• Sản lượng mục tiêu là Y cố định. Y = f(L,K)
Mô hình
C = min
K,L
wL + rK
với Y = f(L,K)
22/33
Tổ hợp L
*
và K
*
cho phép tối thiểu hóa chi phí để đạt được một sản lượng xác định trước.
Giải bài toán tối ưu hóa có ràng buộc trên cho ra kết quả là tỷ lệ biên thay thế kỹ thuật giữa hai yếu tố sản xuất
đúng bằng tỷ lệ giữa mức giá của hai yếu tố đó. Trên cơ sở đó, tính ra L
*
và K
*
là các mức đầu vào tối ưu.
Minh họa bằng hình: Khi minh họa bằng hình vẽ, lời giải tối ưu của bài toán trên chính là tiếp
điểm của đường đẳng lượng và đường đẳng phí. Độ dốc của đường đẳng lượng bằng tỷ lệ biên thay thế kỹ thuật,
còn độ dốc của đường đẳng phí bằng tỷ lệ giữa mức giá của hai yếu tố sản xuất.
Tối thiểu hóa chi tiêu là hành vi của người tiêu dùng lựa chọn một tổ hợp hàng hóa để có thể đạt được một
mức thỏa dụng xác định trước với mức chi thấp nhất. Đây là bài toán ngược lại với bài toán tối đa hóa thỏa dụng.
Hành vi tối thiểu hóa chi tiêu được các nhà kinh tế học mô hình hóa như sau.
Giả thiết: Giả định một chủ thể kinh tế muốn tiêu dùng 2 mặt hàng và mức thỏa dụng mà 2 mặt hàng đó
đem lại được ký hiệu bằng U(X,Y). Người tiêu dùng đã xác định sẵn một mức thỏa dụng mà mình muốn có, ký
hiệu là Ū.
Lượng của mỗi mặt hàng mà người tiêu dùng này có nhu cầu được ký hiệu bằng X và Y.
Mức giá của mỗi mặt hàng này được ký hiệu là P
X
và P
Y
.
Chi phí E cho tiêu dùng, vì thế là:
E = P
X
.X + P
Y
.Y
Kinh tế học gọi quan hệ trên là hàm chi tiêu.
Thành lập mô hình: Mô hình này được biểu diễn bằng toán học thành bài toán tối ưu hóa có ràng
buộc:
Min P
X
.X + P
Y
với U(X,Y) = Ū
Hàm ý: Giải bài toán này với định lý Kuhn-Tucker sẽ cho đáp số là lượng cầu cụ thể X
*
và Y
*
và các
lượng cầu này phụ thuộc vào P
X
, P
Y
và Ū. Viết kiểu toán học là:
X
*
= X(P
X
,P
Y
,Ū)
Y
*
= Y(P
X
,P
Y
,Ū)
Hàm số biểu diễn quan hệ phụ thuộc của lượng cầu vào mức giá hàng hóa và mức thỏa dụng gọi là hàm cầu
Hicks.
Có thể thấy bài toán tối thiểu hóa chi tiêu và bài toán tối đa hóa thỏa dụng cùng là những mô hình về hành vi
tối ưu hóa của người tiêu dùng. Cách tiếp cận hành vi của người tiêu dùng qua hai cách ngược nhau như trên được
kinh tế học vi mô gọi là cách tiếp cận song đối.
Tối đa hóa lợi nhuận là hành vi của một hãng (người sản xuất) điển hình kinh tế.
Giả thiết
• Quy trình sản xuất của hãng chỉ sử dụng hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn.
• Để có vốn, hãng phải đi vay và phải trả lãi suất.
• Để có lao động, hãng phải đi thuê lao động và trả tiền công.
• Lợi nhuận của hãng bằng chênh lệch giữa doanh thu và chi phí sản xuất.
23/33
Ký hiệu
• Π là lợi nhuận,
• p là giá bán hàng,
• F(L,K) là sản lượng biểu diễn dưới dạng một hàm sản xuất,
• w là tiền công trả cho một đơn vị lao động,
• L là số lượng đơn vị lao động,
• r là lãi suất phải trả vì đi vay tính trên một đơn vị vốn,
• K là số đơn vị vốn.
Bài toán tối đa hóa lợi nhuận
• Ta có, doanh thu bằng giá bán sản phẩm nhân với sản lượng.
• Lại có, chi phí sản xuất bao gồm chi phí thuê mướn nhân công và chi phí thuê vốn (giả định là hãng đi vay
để đầu tư mua máy móc và nguyên vật liệu). Chi phí thuê mướn nhân công lại bằng tiền công nhân với số lượng
lao động. Còn chi phí thuê vốn bằng lãi suất nhân với số tiền đi vay.
Từ đó, công thức tính lợi nhuận là:
Π=p×F(L,K)-(wL+rK)
Trong vế phải của công thức trên, nhóm số bị trừ chính là doanh thu, còn nhóm số trừ chính là tổng chi phí.
Tối đa hóa lợi nhuận chính là giải bài toán tính vi phân cả hai vế của công thức nói trên lần lượn theo L và K,
đồng thời cho đạo hàm của Π theo L và K bằng 0.
Chi phí biên
Một đường chi phí biên điển hình
Chi phí biên là mức thay đổi trong tổng chi phí khi hãng tăng sản lượng thêm một đơn vị. Ở đây, chúng ta giả
thiết là trang thiết bị sản xuất của hãng không thay đổi. Chi phí biên chính bằng đạo hàm của tổng chi phí theo sản
lượng. Gọi tổng chi phí là TC, sản lượng là Q, còn chi phí biên là MC. Khi đó:
Biểu diễn bằng hình vẽ, chi phí biên là đường có dạng hình chữ U.
Hãng có thể thực hiện được tối đa hóa lợi nhuận khi làm cho chi phí biên, doanh thu biên và giá thành sản
phẩm bằng nhau.
Nếu doanh thu biên lớn hơn chi phí biên thì nó sẽ cho phép tăng sản lượng vì điều đó sẽ làm tăng thêm tổng
lợi nhuận. Tương tự, nếu doanh thu biên nhỏ hơn chi phí biên thì lợi nhuận có thể tăng lên bằng cách giảm sản
lượng.
Tối đa hóa thỏa dụng là hành vi của người tiêu dùng điển hình. Người tiêu dùng khi đối mặt với một chế ước
ngân sách của bản thân, sẽ tìm cách chọn một tổ hợp hàng tiêu dùng tối ưu sao cho mức thỏa dụng mà tổ hợp này
đem lại cho mình là lớn nhất.
24/33
Nếu minh họa bằng đồ thị, tổ hợp cho phép đạt mức thỏa dụng tối đa là tổ hợp hàng hóa tại tiếp điểm của
đường bàng quan và đường ngân sách. Tại đó, tỷ lệ giữa mức thỏa dụng biên của hai hàng hóa (hay chính là tỷ lệ
thay thế biên của hàng tiêu dùng) bằng tỷ lệ giữa hai mức giá của các hàng hóa. Điều này gọi là điều kiện tối đa
hóa thỏa dụng.
Về mặt toán học, hành vi tối đa hóa thỏa dụng được diễn đạt bằng bài toán sau:
u = max U(X,Y)
với P
X
.X + P
Y
.Y = M
trong đó:
• u = U(X,Y) là hàm thỏa dụng.
• X và Y là lượng của lần lượt 2 hàng hóa được tiêu dùng;
• P
X
và P
Y
là giá cả của lần lượt 2 hàng hóa;
• U(X,Y) là mức thỏa dụng do tiêu dùng 2 hàng hóa đem lại.
• M là thu nhập có thể sử dụng của người tiêu dùng.
Giải bài toán tối ưu hóa có điều kiện này bằng định lý Kuhn-Tucker sẽ cho ra lời giải.
Một cách giải tắt bài toán tối đa hóa thỏa dụng nói trên là trước tiên giả định bài toán có lời giải bên trong. Khi
đó áp dụng điều kiện tối đa hóa thỏa dụng, tức là MU
X
/MU
Y
= P
X
/P
Y
(MU là ký hiệu của thỏa dụng biên), từ đó
tìm ra lời giải. Nếu không ra lời giải, nghĩa là bài toán có giải pháp góc, lúc đó tìm xem khi X bằng 0 hay khi Y
bằng 0 thì mức thỏa dụng lớn hơn mà tìm ra lời giải.
Đáp số của bài toán tối đa hóa thỏa dụng là lượng cầu cụ thể đối với mỗi hàng hóa, X
*
= X(P
X
,M) và Y
*
=
Y(P
Y
,M). Đây chính là hàm cầu Marshall.
Có thể thấy bài toán tối đa hóa thỏa dụng và bài toán tối thiểu hóa chi tiêu cùng là những mô hình về hành vi
tối ưu hóa của người tiêu dùng. Cách tiếp cận hành vi của người tiêu dùng qua hai cách ngược nhau như trên được
kinh tế học vi mô gọi là cách tiếp cận song đối.
Bẫy thu nhập trung bình là một tình trạng trong phát triển kinh tế, khi mà một quốc gia đã đạt đến một mức
thu nhập bình quân nhất định (do những lợi thế sẵn có) sẽ dậm chân tại mức thu nhập đấy.
[1]
Đặc trưng: Khi mức lương của người lao động ở các nước đang phát triển tăng lên, các nhà sản xuất
thường cho rằng họ không thể cạnh tranh với những nhà sản xuất có giá thành sản phẩm thấp hơn trong thị trường
xuất khẩu. Bên cạnh đó, họ cũng nhận thấy rằng bản thân mình không có công nghệ tốt nhất như ở các nước đã
phát triển. Đó chính là bẫy thu nhập trung bình. Một ví dụ là hai nước Nam Phi và Brasil đã phát triển ì ạch trong
vài thập kỉ khi mà thu nhập bình quân đầu người của họ rơi vào khoảng "thu nhập trung bình" như cách gọi của
Ngân hàng Thế giới (khoảng 1.000 USD đến 12.000 USD tính theo giá trị năm 2010)
[1]
.
Tiêu biểu, các nước bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình có:
• tỉ lệ đầu tư thấp
• ngành chế tạo phát triển chậm
• các ngành công nghiệp ít đa dạng
• thị trường lao động kém sôi động
[2]
.
Tránh bẫy thu nhập trung bình: Bẫy thu nhập trung bình xẩy đến khi một quốc gia phát
triển chững lại hay thậm chí là trì trệ sau khi đạt được một mức thu nhập trung bình. Vấn đề này thường nảy sinh
với các nền kinh tế đang phát triển khi mức lương tăng lên trong khi tính cạnh tranh về giá cả hàng hóa giảm
xuống, khó có thể cạnh tranh với các nền kinh tế đã phát triển về công nghệ tối tân, hay với các nền kinh tế có
mức lương thấp hơn trong việc sản xuất hàng hóa giá rẻ
[3]
.
Để tránh rơi vào bẫy thu nhập trung bình đòi hỏi phải có những chiến lược để đưa vào những phương thức sản
xuất mới và tìm kiếm các thị trường mới để duy trì xuất khẩu. Bên cạnh đó việc khuyến khích tiêu dùng trong
nước cũng rất quan trọng. Tầng lớp trung lưu đang mở rộng có thể dùng sức mua của mình để mua sản phẩm chất
lượng cao và giúp thúc đẩy tăng trưởng
[4]
.
Khó khăn lớn nhất là việc chuyển từ tăng trưởng dựa trên tài nguyên (phụ thuộc vào nguồn lao động giá rẻ và
vốn tư bản) sang sự tăng trưởng dựa vào năng suất cao và sự đổi mới. Để làm điều này cần phải đầu tư vào cơ sở
25/33