Bắt bệnh của chế hòa khí
Đăng lúc: 10/7/2007, 8:56GMT+7
(thegioioto) Bộ chế hoà khí
với chức năng hòa trộn
xăng và không khí tạo nên
hỗn hợp khí đưa vào bên
trong buồng đốt, đóng vai
trò rất quan trọng trong hệ thống cung cấp
nhiên liệu, chế độ làm việc của động cơ theo
các tỷ lệ hỗn hợp khí được hòa trộn phù
hợp với chế độ làm việc: chế độ khởi động
động cơ, chế độ tăng tốc, chế độ toàn tải…
Nếu phần cung cấp nhiên liệu đảm bảo tốt, thì
các chế độ này thể hiện qua các trạng thái làm
việc của động cơ: sự chuyển chế độ không gây
mất ổn định khả năng làm việc của động cơ,
động cơ hoạt động tốt ở mọi trạng thái làm việc
của độ mở bướm ga, khả năng thay đổi linh
hoạt của số vòng quay và tải trọng. Dựa vào
các biểu hiện cụ thể đó, có thể tiến hành chẩn
đoán chất lượng làm việc của bộ chế hòa khí.
- Chẩn đoán thông qua chế độ khởi động
động cơ:
Động cơ chỉ nổ được khi đóng bớt bướm gió:
thường do hở nhỏ đường ống nạp không khí
sau chế hòa khí, hoặc do thiếu nhiên liệu (mức
xăng trong buồng phao quá thấp, tắc hay bẩn
đường xăng chạy chậm, vít điều chỉnh hỗn hợp
chạy chậm quá hẹp, bướm ga bị kẹt mở).
Chỉ nổ được máy khi để ở mức bàn đạp nhiên
liệu cao: do thừa nhiên liệu (mức xăng trong
buồng phao quá cao, tắc hay bẩn đường không
khí chạy chậm, vít điều chỉnh số vòng quay
chạy chậm không có tác dụng).
Phải dập mồi nhiên liệu động cơ mới nổ: thiếu ít
nhiên liệu.
- Chẩn đoán qua chế độ chạy không tải :
Ở chế độ không tải, số vòng quay động cơ nằm
trong giới hạn (700-1200) vòng/phút, động cơ
làm việc ổn định không bị rung lớn, khí xả có
màu xanh nhạt hay không màu, không có mùi
xăng sống, máy có thể hoạt động trong thời
gian dài mà không bị đột ngột ngừng lại.
Động cơ khởi động được nhưng không chạy
không tải được, muốn động cơ làm việc ổn định
phải nâng cao vòng quay thường : do mức xăng
cao, tắc giclơ không khí chạy chậm, vít chỉnh
hỗn hợp chạy chậm điều chỉnh sai. Ngoài ra
cũng cần lưu ý đến chất lượng hệ thống đánh
lửa và bố trí trục cam, chất lượng xupap…
Nếu động cơ rung, kèm theo tiếng nổ sau ống
xả: chế độ nhiên liệu quá đậm và có máy không
cháy hết nhiên liệu.
- Chẩn đoán qua chế độ tăng tải:
Từ từ tăng ga, tốc độ động cơ tăng đều đặn, độ
rung của động cơ giảm hẳn, màu khí xả thay
đổi không đáng kể.
Nếu có tiếng nổ ở ống xả, động cơ rung mạnh,
có thể là do hệ thống nhiên liệu quá đậm, hở
xupap xả. nếu tốc độ động cơ không đáp ứng
tăng đều đặn chứng tỏ bộ phận làm đậm kém,
giclơ xăng bẩn, thiếu nhiên liệu buồng phao.
- Chẩn đoán qua chế độ toàn tải:
Nâng cao số vòng quay lên tối đa, không có
tiếng nổ đặc biệt phát ra từ ống xả, duy trì ở chế
độ này trong một thời gian ngắn.
Nếu động cơ không đảm bảo số vòng quay lớn
nhất, có khói màu trắng chứng tỏ thiếu nhiên
liệu. Nếu có khói màu đen và có mùi xăng sống
chứng tỏ thừa nhiên liệu.
- Chẩn đoán qua chế độ tăng tốc đột ngột:
Tăng đột ngột chân ga (vù ga), số vòng quay
lập tức thay đổi theo, nhìn màu khí xả: khi nâng
cao đột ngột màu khí xả thay đổi chút ít sang
màu xanh đậm sau đó lại bình thường.
Nếu số vòng quay thay đổi chậm hoặc không
thay đổi chứng tỏ bơm tăng tốc chế hòa khí hư
hỏng, hoặc thiếu nhiên liệu trong buồng phao.
- Chẩn đoán qua chế độ giảm tốc đột ngột:
Thả bàn đạp nhiên liệu đột ngột: động cơ đang
ở số vòng quay cao phải nhanh chóng chuyển
về chế độ chạy chậm.
Nếu có tiếng nổ sau ống xả chứng tỏ thừa
nhiên liệu, nếu động cơ bị tắt máy chứng tỏ chế
độ chạy chậm chưa điều chỉnh đúng.
Bộ chế hòa khí là một bộ phận rất phức tạp, các
hư hỏng thường gắn liền với cấu tạo của
chúng. Vì vậy, khi động cơ của bạn gặp trục
trặc với bộ chế hòa khí thì bạn nên tham khảo
và nhờ các kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm xử lý.