Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Luận văn quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân”để làm rõ hơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 66 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
---------

NGUYỄN THỊ MỸ MỸ

QUY ĐỊNH VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN

CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
--------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

QUY ĐỊNH VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG THUẾ
THU NHẬP CÁ NHÂN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: Nguyễn Thị Mỹ Mỹ
Khóa 42
MSSV: 1753801011121
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Ths. Nguyễn Thị Thương

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng
tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Thị Thương
đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu
tham khảo. Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Mỹ Mỹ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN ................................................................................6
1.1. Khái niệm về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ..........................6
1.2. Tác động của quy định giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân đối với
Nhà nước, người nộp thuế và xã hội ......................................................................10
1.3. Nội dung của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân ........................14
1.4. Yêu cầu đối với pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân17
1.4.1. Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập giữa những người nộp thuế
............................................................................................................................18
1.4.2. Dung hịa lợi ích của Nhà nước và người nộp thuế ..................................20
1.4.3. Xác định đối tượng được giảm trừ gia cảnh phù hợp...............................23
1.4.4. Mức giảm trừ phù hợp với tình hình của người nộp thuế và điều kiện kinh
tế xã hội ..............................................................................................................25
1.4.5. Cơ chế quản lý về giảm trừ gia cảnh hợp lý, hiệu quả .............................27
Kết luận chương 1:.................................................................................................29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH
TRONG THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN TẠI VIỆT NAM VÀ
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ..................................................................................30

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân ........................................................................................................................30
2.1.1. Thu nhập được tính giảm trừ gia cảnh .....................................................30
2.1.2. Đối tượng được giảm trừ gia cảnh ...........................................................32
2.1.3. Mức giảm trừ gia cảnh .............................................................................38
2.1.4. Quản lý thuế đối với giảm trừ gia cảnh ....................................................39
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân ........................................................................................................................43
2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu
nhập cá nhân ..........................................................................................................46
Kết luận chương 2:.................................................................................................49
KẾT LUẬN ..............................................................................................................50
PHỤ LỤC .....................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thuế với vài trò là nguồn thu chủ yếu và thường xuyên cho ngân sách nhà
nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế và góp phần điều tiết thu nhập, thực hiện
cơng bằng xã hội. Vì thế, pháp luật về thuế cũng đóng một vài trị quan trọng trong
việc ổn định nền kinh tế - xã hội của một quốc gia. Việc xây dựng và hồn thiện hệ
thống chính sách pháp luật về thuế là nhu cầu cấp thiết trong quá trình phát triển kinh
tế, hội nhập quốc tế. Để đáp ứng yêu cầu đó, các văn bản pháp luật về thuế lần lượt
được ban hành, điều chỉnh đối với hàng hóa, thu nhập và các đối tượng khác tạo nên
hành lang pháp lý cơ bản đầy đủ. Theo đó, Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao ra đời cuối năm 1990, có hiệu lực vào 01/4/1991. Trải qua quá trình
thực thi vướng nhiều bất cập và sự cần thiết của một văn bản luật thuế điều chỉnh thu
nhập cá nhân, Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 được Quốc hội thông qua ngày
21 tháng 11 năm 2007 và được sửa đổi, bổ sung năm 2012 bởi Luật số 26/2012/QH13

và năm 2014 bởi Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014 (sau đây gọi tắt là “Luật
Thuế TNCN”). Luật Thuế TNCN đã góp phần hồn thiện chính sách pháp luật về
thuế, đóng vai trị quan trọng trong việc tăng cường cơng tác kiểm sốt, phân phối
thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Nắm bắt được tầm quan trọng của pháp luật thuế thu nhập cá nhân trong quá
trình phát triển kinh tế và đời sống xã hội, vấn đề hoàn thiện các nội dung của sắc
thuế này càng được chú trọng. Bên cạnh những thành tựu và kết quả đạt được sau quá
trình thực thi, Luật Thuế TNCN cũng còn tồn tại những bất cập trong nội dung quy
định. Theo đó nội dung về giảm trừ gia cảnh cần được nghiên cứu sâu sắc hơn để có
thể hồn thiện hơn nữa. Giảm trừ gia cảnh là một nội dung quan trọng trong pháp luật
về thuế thu nhập cá nhân, góp phần thực hiện mục tiêu chung của sắc thuế và đảm
bảo sự công bằng trong điều tiết thu nhập, dung hịa lợi ích của người nộp thuế và
Nhà nước.
Với tầm quan trọng trong việc góp phần thực hiện mục tiêu chung của pháp
luật thuế thu nhập cá nhân, pháp luật về giảm trừ gia cảnh cần được quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ để đưa ra những đề xuất và kiến nghị thay đổi phù hợp. Nhận
thấy, các tài liệu nghiên cứu của các tác giả trước đây hiện đã không phù hợp với
pháp luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành. Không chỉ vậy, việc tạo ra nhiều cơ sở dữ
liệu trong nghiên cứu pháp luật thuế là điều cần thiết trên tiến trình cải cách hồn
thiện hệ thống chính sách về thuế. Vì thế, tác giả thực hiện khóa luận tốt nghiệp với
đề tài “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” để làm rõ hơn
1


quy định của pháp luật hiện hành, đưa ra những yêu cầu đối với pháp luật về giảm trừ
gia cảnh từ đó đưa ra đánh giá về pháp luật hiện hành đã phù hợp hay chưa và đưa ra
kiến nghị kịp thời.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân là một chế định quan trọng trong pháp luật về
thuế, bao gồm nhiều nội dung, trong đó có nội dung về giảm trừ gia cảnh. Nội dung

giảm trừ gia cảnh được quy định đầu tiên tại Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007,
trước đó nội dung này không được quy định trong Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao. Thế nên, những đề tài nghiên cứu trong giai đoạn trước khi
Luật Thuế thu nhập cá nhân được ban hành chủ yếu tập trung vào các nội dung khác
của sắc thuế này và nghiên cứu cơ sở lý luận để xây dựng quy định pháp luật, điển
hình như:
“Ngun tắc cơng bằng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân” – Đề tài Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Phan Phương Nam năm 2006. Trong Luận văn, tác
giả đã làm rõ khái niệm nguyên tắc công bằng. Trên cơ sở làm rõ thế nào là công
bằng và công bằng trong pháp luật về thuế, tác giả đã phân tích những quy định của
pháp luật thuế thu nhập cá nhân, từ đó đánh giá xem những quy định này có đảm bảo
nguyên tắc công bằng hay không. Đồng thời, thực tiễn áp dụng pháp luật thuế thu
nhập cá nhân đã đảm bảo thực hiện nguyên tắc này hay chưa cũng được tác giả bàn
luận. Từ những đánh giá đó, tác giả đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện việc xây
những quy định pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trong giai đoạn xây dựng Luật
Thuế thu nhập cá nhân 2007.
Mặc dù Luận văn này nghiên cứu và phân tích dựa trên Pháp lệnh về thuế thu
nhập đối với người có thu nhập cao nhưng những cơ sở lý luận về ngun tắc cơng
bằng vẫn có giá trị tham khảo trong việc xây dựng các nội dung khác của pháp luật
thuế thu nhập cá nhân đến thời điểm hiện tại. Đối với nội dung giảm trừ gia cảnh, cơ
sở lý luận về ngun tắc cơng bằng có tác động lớn đến việc xây dựng và đánh giá
quy định pháp luật. Chính vì thế, tác giả kế thừa giá trị của ngun tắc cơng bằng
trong q trình nghiên cứu u cầu đối với pháp luật giảm trừ gia cảnh trong thuế thu
nhập cá nhân trong Khóa luận này. Hơn nữa, những nội dung phù hợp khác trong
Luận văn, như xác định thu nhập chịu thuế, công tác hành thu,… vẫn được tác giả
tiếp thu và phát triển cho những nội dung khác trong Khóa luận.
Đối với nội dung giảm trừ cảnh trong thuế thu nhập cá nhân, có một số đề tài
thực hiện nghiên cứu như:

2



- “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” – Đề tài Luận
văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Đặng Thị Phụng năm 2009. Theo đó, đề tài Luận
văn này nghiên cứu nội dung pháp luật về giảm trừ gia cảnh dưới góc độ lý luận, xem
pháp luật về giảm trừ gia cảnh là biện pháp dung hịa lợi ích giữa Nhà nước với cá
nhân, đồng thời là biện pháp đảm bảo công bằng xã hội. Do vậy, Luận văn không tập
trung vào nghiên cứu các vấn đề thực tiễn áp dụng quy định pháp luật.
- “Pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” – Đề tài Khóa
luận tốt nghiệp Cử nhân luật của tác giả Lê Thị Thu Sang năm 2009. Đây là Khóa
luận nghiên cứu nội dung pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong điều kiện Luật Thuế
thu nhập cá nhân 2007 đã được áp dụng vào thực tế. Vì đây là một nội dung mới của
sắc thuế và đã gặp nhiều vướng mắc trong trong q trình thực thi nên tác giả của
Khóa luận này tập trung nghiên cứu về những vướng mắc, bất cập phát sinh khi áp
dụng chế định giảm trừ gia cảnh vào thực tiễn và một số kiến nghị hoàn thiện. Theo
đó, tác giả cho thấy nhiều bất cập từ điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, điều kiện
về nhận thức của người dân về pháp luật giảm trừ gia cảnh đến các nội dung trong
quy định pháp luật và các vấn đề liên quan đến hoạt động quản lý thuế thuế thu nhập
cá nhân nói chung, giảm trừ gia cảnh nói riêng.
- “Áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân” – Đề
tài Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật của tác giả Nguyễn Võ Đại Minh năm 2015:
Khóa luận này nghiên cứu nội dung giảm trừ gia cảnh khi Luật Thuế thu nhập cá nhân
2007 đã trải qua hai lần sửa đổi, là văn bản pháp luật về thuế thu nhập cá nhân đang
có hiệu lực hiện nay. Sự thay đổi trong nội dung quy định pháp luật về giảm trừ gia
cảnh đã đạt những thành tựu nhất định song cũng cịn tồn tại nhiều hạn chế. Vì lý dó
đó, Khóa luận của tác giả Đại Minh nghiên cứu về những thành tựu, hạn chế trong
quá trình thực thi và đưa ra hướng hoàn thiện. Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra được
khái niệm “giảm trừ gia cảnh” mang tính học thuật hơn. Tác giả cũng đã đưa ra những
kiến nghị mới nhằm giải quyết những bất cập còn tồn tại trong quá trình thực thi thuế
thu nhập cá nhân đối với nội dung giảm trừ gia cảnh.

Trên cơ sở kết quả đạt được của những nghiên cứu trước đó, tác giả kế thừa
những giá trị về mặt lý luận và quan điểm hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân
nói chung, nội dung giảm trừ gia cảnh nói riêng. Tác giả cũng phát triển thêm cơ sở
lý luận trong việc xây dựng pháp luật về giảm trừ gia cảnh bên cạnh những đánh giá
thực trạng quy định pháp luật trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện tại.

3


Bên cạnh những Luận văn, Khóa luận nêu trên, có những Luận án tiến sĩ, các
bài báo trên các tạp chí cũng nghiên cứu về lĩnh vực thuế thu nhập cá nhân. Có thể
kể đến như:
- “Điều chỉnh hệ thống thuế thu nhập trong điều kiện Việt Nam là thành viên
tổ chức thương mại thế giới (WTO)” – Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Cao Anh
Tuấn năm 2013;
- “Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam”
– Luận án Tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Hoàng năm 2013;
- “Tác động của chỉ số giá tiêu dùng đến người thu nhập thấp” – Bài viết trên
Tạp chí khoa học ĐHQGHN, kinh tế và kinh doanh của tác giả Trịnh Thị Phan Lan
năm 2012.
Những bài viết, bài nghiên cứu trên tạo nên nguồn tài liệu nghiên cứu có giá
trị tham khảo trong q trình thực hiện Khóa luận này.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu của các tác giả khác trong lĩnh vực thuế thu
nhập cá nhân nói chung và nội dung giảm trừ gia cảnh nói riêng, đề tài khóa luận này
được thực hiện nhằm mục đích làm rõ những quy định về nội dung giảm trừ gia cảnh
trong luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành. Đồng thời, trên cơ sở phân tích của nội
dung giảm trừ gia cảnh, việc nghiên cứu sẽ đưa ra những yêu cầu đối với pháp luật
giảm trừ gia cảnh nhằm mục đích hồn thiện nội dung sắc thuế, thực hiện mục tiêu
chung của pháp luật thuế này. Khơng chỉ vậy, qua những phân tích nội dung pháp

luật, đánh giá tính hợp lý, điểm hạn chế bất cập của quy định và của thực tiễn áp dụng,
tác giả đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm giải quyết bất cập, hạn chế trên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài: Đề tài Khóa luận nghiên cứu quy định của pháp
luật Việt Nam về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân, trong đó tập trung
vào ba đối tượng sau:
- Thứ nhất: Nghiên cứu cơ sở lý luận để xây dựng pháp luật thuế thu nhập cá
nhân phù hợp;
- Thứ hai: Đánh giá, phân tích các nội dung quy định pháp luật trên cơ sở lý
luận được nghiên cứu;
- Thứ ba: Thực trạng áp dụng các quy định pháp luật thuế thu nhập cá nhân về
giảm trừ gia cảnh.
4


Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Đề tài khóa luận này nghiên cứu nội dung giảm trừ gia cảnh với vai trò là chế
định pháp luật trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân, căn cứ trên cơ sở các văn bản
quy phạm pháp luật của Việt Nam đồng thời sẽ có tham khảo pháp luật nước ngồi
trong cùng lĩnh vực. Hơn nữa, đề tài còn nghiên cứu nội dung quản lý thuế liên quan
đến nội dung giảm trừ gia cảnh trên cơ sở quy định của pháp luật Việt Nam.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu đề tài
Để khóa luận được thực hiện một cách chỉn chu, chính xác, một số phương
pháp nghiên cứu được sử dụng như:
- Phương pháp phân tích: Phân tích nội dung quy định của luật trong các văn
bản quy phạm pháp luật. Đồng thời dùng phương pháp này để diễn giải, giải thích
các luận cứ khoa học, quan điểm của tác giả.
- Phương pháp lịch sử: Nghiên cứu quy định về giảm trừ gia cảnh theo từng
thời kỳ của thuế thu nhập cá nhân.
- Phương pháp so sánh: So sánh quy định của nước ngoài và Việt Nam về nội

dung giảm trừ gia cảnh để tiếp thu những quan điểm tiến bộ, từ đó rút kết kinh nghiệm
cho Việt Nam.
- Phương pháp thống kê: Thống kê các số liệu cụ thể về mức thuế thu được ở
Việt Nam và các quốc gia khác (nếu có).
6. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo thì
khóa luận này gồm 02 chương
Chương 1: Lý luận chung về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân tại Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.

5


CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢM TRỪ GIA CẢNH TRONG
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
Sơ lược về quá trình phát triển của thuế thu nhập cá nhân:
Thuế Thu nhập cá nhân là thuế trực thu điều tiết vào thu nhập chịu thuế của
cá nhân trong kỳ tính thuế1. Đây là sắc thuế ra đời rất sớm, nhất là ở các quốc gia
phương Tây: Anh năm 1798, Nhật năm 1887, Mỹ năm 1913, Pháp năm 1914… Tại
Việt Nam, do tình hình kinh tế, chính trị xã hội nên luật thuế thu nhập cá nhân ra đời
muộn hơn. Trở về thời kỳ trước, trong giai đoạn phong kiến cũng tồn tại một hình
thức thuế tương tự với tên gọi là Thuế thân. Thuế thân qua mỗi thời kỳ có sự thay đổi
về độ tuổi người nộp thuế, mức thuế phải nộp nhưng có một điểm chung là khơng
phân biệt thu nhập của người nộp thuế, tất cả mọi người đều phải nộp mức thuế như
nhau. Về bản chất, thuế thân đánh vào con người chứ không đánh vào thu nhập của
người nộp thuế, vậy nên thuế thân không thể hiện được vai trò và ý nghĩa của một sắc
thuế thu nhập cá nhân. Thêm vào đó, trải qua sự biến đổi của tình hình chính trị, kinh
tế xã hội, thuế thân bị bãi bỏ và đến năm 1990, văn bản quy phạm pháp luật về thuế

thu nhập cá nhân đầu tiên được ban hành. Đó là Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với
người có thu nhập cao vào ngày 27/12/1990 và chính thức có hiệu lực vào ngày
01/4/1991.
Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao tại thời điểm được
ban hành đã góp phần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế, bởi
từ năm 1990 trở về trước, trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế chỉ có
những văn bản quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp (với tên gọi Luật Thuế doanh
thu, Luật Thuế lợi tức. Thuế Doanh thu điều chỉnh đối với: “Tổ chức, cá nhân thuộc
các thành phần kinh tế có hoạt động sản xuất, xây dựng, vận tải, thương nghiệp, ăn
uống, dịch vụ và các hoạt động kinh doanh khác (gọi chung là cơ sở kinh doanh) có
doanh thu đều phải nộp thuế doanh thu”2. Thuế Lợi tức điều chỉnh đối với: “Tổ chức,
cá nhân thuộc các thành phần kinh tế có lợi tức từ các hoạt động sản xuất, xây dựng,
vận tải, thương nghiệp, ăn uống, dịch vụ và hoạt động kinh doanh khác trên lãnh thổ
Việt Nam (gọi chung là cơ sở kinh doanh) đều phải nộp thuế lợi tức theo quy định
của Luật này”3.), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hóa mậu
dịch, thuế tài ngun, thuế nơng nghiệp…mà khơng có văn bản nào quy định về việc
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2019), Giáo trình Luật Thuế (tái bản có bổ sung), Nxb. Hồng
Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr. 326.
2
Xem Điều 1 Luật Thuế Doanh thu, số: 270B-NQ/HĐNN8 ngày 30/6/1990.
3
Xem Điều 1 Luật Thuế Lợi tức, số: 270b-NQ/HĐNN8 ngày 30/6/1990.
1

6


thu thuế đối với thu nhập cá nhân. Từ lúc được ban hành, Pháp lệnh về thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung để phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trước sự phát triển của kinh

tế - xã hội và nhu cầu điều chỉnh thuế thu nhập trong điều kiện Việt Nam là thành
viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), đến năm 2007, Luật Thuế thu nhập cá
nhân ra đời, thay thế Pháp lệnh trên. Luật Thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12
ban hành ngày 21/11/2007 có hiệu lực vào ngày 01/01/2009 và lần lượt được sửa đổi,
bổ sung năm 2012 và năm 2014 để phù hợp hơn với thực tế.
Với quá trình hình thành và phát triển pháp luật thuế thu nhập cá nhân nêu trên,
ta thấy rằng việc hình thành luật thuế về thu nhập cá nhân của Việt Nam manh nha từ
những năm 90 của thế kỷ XX, thể hiện bằng Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người
có thu nhập cao. Sau một khoản thời gian áp dụng, Pháp lệnh này bộc lộ nhiều bất
cập, đồng thời để đáp ứng tình hình và điều kiện xã hội, thuế thu nhập cá nhân chính
thức được quy định dưới dạng một văn bản luật vào năm 2007. Qua đó có thể thấy
đây là một sắc thuế ra đời muộn có lịch sử hình thành khá non trẻ. So với các nước
khác thì pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam áp dụng khá muộn trong
khi sắc thuế này được áp dụng từ sớm tại các nước châu Á khác, như: Thái lan bắt
đầu áp dụng năm 1939, Philippines năm 1945, Hàn quốc năm 1948, Indonesia năm
1949, Trung quốc năm 1984; các nước Đông Âu mới áp dụng như Rumani năm 1990,
Nga năm 1991, Ba lan năm 19924.
Nhìn chung, các Luật Thuế trong hệ thống pháp luật thuế hiện nay được cải
cách, hoàn thiện từ những văn bản trước đó được Quốc hội khố VIII và Hội đồng
nhà nước đã cho ban hành trong năm 1990. Như vậy, không chỉ thuế thu nhập cá nhân
mà các sắc thuế khác có lịch sử hình thành, phát triển còn non trẻ và đang trong giai
đoạn cải cách hồn thiện. Từ đó tiến tới xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ
cấu bền vững, phù hợp với thơng lệ quốc tế và có khả năng huy động đầy đủ, chủ
động, hợp lý nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Riêng đối với Luật Thuế Thu nhập
cá nhân, từ lúc ban hành vào năm 2007 đến chính thức thực thi trên thực tế vào năm
2009 và trải qua hai lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2012 và 2014 bởi đã vướng phải
những bất cập trong quy định. Trải qua 8 năm thi hành từ lần sửa đổi cuối cùng, Luật
Thuế TNCN cơ bản hoàn thiện trong quy định. Song, đến nay bên cạnh thể hiện vai
trị trong việc góp phần tăng thu ngân sách nhà nước, điều tiết thu nhập của các tầng
lớp dân cư thì Luật Thuế TNCN cũng cịn tồn tại một vài điểm chưa phù hợp với điều

Thuế
thu
nhập

nhân

nước,
truy
cập ngày 01/6/2021.
4

7


kiện kinh tế xã hội hiện tại, điển hình như: thuế suất, mức giảm trừ gia cảnh5. Do vậy,
cần sớm có những thay đổi tích cực trong quy định của Luật Thuế TNCN để phù hợp
với thu nhập của người nộp thuế, tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.
Quá trình phát triển của quy định giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá
nhân qua các văn bản quy phạm pháp luật và khái niệm giảm trừ gia cảnh
Việc ban hành Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao là
bước tiến trong q trình hồn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thuế.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh rất hạn chế. Theo
quy định của pháp lệnh, thu nhập tính thuế gồm thu nhập thường xun và thu nhập
khơng thường xun, trong đó, thu nhập thường xuyên là thu nhập từ tiền lương, tiền
cơng, các khoản phụ cấp và tiền thưởng có tính chất tiền lương, tiền công từ trên
500.000 đồng/tháng/người đối với người Việt Nam6 . Mức thu nhập từ nhóm này từ
500.000 đồng trở lên thì người nộp thuế mới phát sinh nghĩa vụ đóng thuế. So với
tình hình kinh tế lúc bấy giờ, thu nhập bình quân mỗi người 1 tháng đã tăng từ 92,1
nghìn đồng năm 1992 lên 206,1 nghìn đồng năm 1995 và 295,0 nghìn đồng năm
19997, dân số nằm trong khoảng 60-80 triệu người, như vậy cho thấy, pháp lệnh thuế

này chỉ tác động đến một phạm vi nhỏ là những người có thu nhập cao so với mặt
bằng chung.
Mức thu nhập phát sinh nghĩa vụ thuế cũng có sự thay đổi trong những lần sửa
đổi, bổ sung Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Cụ thể: Pháp
lệnh số 35/2001/PL-UBTVQH10 ngày 19/5/2001 đã nâng mức thu nhập phát sinh
nghĩa vụ thuế lên 3.000.000 đồng. Pháp lệnh số 14/2004/PL-UBTVQH11 ngày
24/3/2004 đã nâng mức này từ 3.000.000 đồng lên 5.000.000 đồng. Theo Tổng cục
Thống kê, trong năm 2001-2002, thu nhập bình quân 01 người 01 tháng theo giá thực
tế đã đạt 356,8 nghìn đồng, trong đó khu vực thành thị đạt 625,9 nghìn đồng, khu vực
nơng thơn đạt 274,9 nghìn đồng; chi tiêu hàng ngày cho đời sống bình quân 01 người
01 tháng là 268,4 nghìn đồng, trong đó khu vực nơng thơn 210 nghìn đồng8. Trong
Thơng cáo báo chí về kết quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004 của
Tổng cục Thống kê có nêu, thu nhập bình qn 1 người 1 tháng chung cả nước theo

Hiện nay, mức giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân được thực hiện theo Nghị quyết số
954/2020/UBTVQH14 ngày 02/6/2020 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh
của thuế thu nhập cá nhân.
6
Xem khoản 1 Điều 2 Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao năm 1990, có hiệu lực ngày
01/04/1991.
7
Tổng cục Thống kê, Tình hình kinh tế – xã hội 10 năm 1991-2000, truy cập ngày 01/6/2021.
8
Tổng cục Thống kê, “Kinh tế - xã hội Việt nam 3 năm 2001 – 2003”, truy cập ngày 01/7/2021.
5

8


giá hiện hành đạt 484 nghìn đồng9. Như vậy, mức thu nhập phát sinh nghĩa vụ thuế

cao hơn rất nhiều so với thu nhập bình quân lúc bấy giờ.
Trong giai đoạn này, nội dung giảm trừ gia cảnh cũng chưa được quan tâm, cụ
thể những quy định về giảm trừ gia cảnh chưa được đề cập đến trong pháp lệnh. Tại
Điều 20 của Pháp lệnh có quy định về những trường hợp được miễn thuế, giảm thuế,
cụ thể: “Trong trường hợp bị thiên tai, địch hoạ, tai nạn ảnh hưởng đến đời sống của
người nộp thuế và trong một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định”. Tuy
nhiên, bản chất của việc miễn thuế, giảm thuế tại điều này không phải là giảm trừ gia
cảnh mà đây là những khoản miễn giảm trong điều kiện nhất định, chỉ khi rơi vào
những trường hợp theo luật định, người nộp thuế mới được hưởng những lợi ích đó.
Qua đó cho thấy, quy định về giảm trừ gia cảnh chưa được quy định trong
Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Thay vào đó, việc quy định
mức thu nhập phát sinh nghĩa vụ thuế cũng đã gián tiếp thể hiện yếu tố giảm trừ gia
cảnh10.
Đến năm 2007, Luật Thuế thu nhập cá nhân được ban hành thay thế Pháp lệnh
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã có thể bao quát hết các dạng thu nhập
của cá nhân, điều chỉnh phù hợp hơn với các loại thu nhập mà cá nhân có được11. Một
sự thay đổi lớn của Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007 so với Pháp lệnh thuế thu nhập
đối với người có thu nhập cao là đã có quy định về giảm trừ gia cảnh. Theo đó, tại
khoản 1 Điều 19 Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007, được sửa đổi bổ sung vào năm
2012, 2014 có đưa ra định nghĩa về giảm trừ gia cảnh: “Giảm trừ gia cảnh là số tiền
được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương,
tiền cơng của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú”. Như vậy, khái niệm về giảm trừ
gia cảnh được đưa ra không thể hiện hết mục tiêu của giảm trừ gia cảnh mà chỉ đơn
thuần dựa trên cách tính thuế.
Trong pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của các quốc gia khác trên thế giới,
giảm trừ gia cảnh cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng, điều chỉnh
chính sách về thuế. Giảm trừ gia cảnh hay chiết trừ gia cảnh, với các tên gọi khác
nhau nhưng những thuật ngữ này đều chỉ chung một khoản tiền, đó là số tiền được
trừ vào thu nhập chịu thuế trước kỳ tính thuế của đối tượng nộp thuế.


Tổng cục Thống kê, “Thơng cáo báo chí về kết quả sơ bộ khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2004”,
truy cập ngày 01/7/2021.
10
Đặng Thị Phụng (2009), “Quy định về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân”, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 41.
11
Trường đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2019), tlđd (1), tr. 328.
9

9


Giảm trừ gia cảnh là lợi ích của người nộp thuế bên cạnh nghĩa vụ mà họ phải
thực hiện là nộp thuế cho Nhà nước. Có thể thấy rằng, giảm trừ gia cảnh giúp cân
bằng cán cân quyền lợi và nghĩa vụ của người nộp thuế. Theo nghĩa hẹp, giảm trừ gia
cảnh được hiểu như là một thuật ngữ của thuế thu nhập cá nhân và được định nghĩa
theo quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân dựa theo cách thức tính thuế: Giảm
trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu
nhập từ, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Theo nghĩa
rộng, giảm trừ gia cảnh cịn được tìm hiểu như một chế định pháp luật trong pháp luật
thuế thu nhập cá nhân. Pháp luật giảm trừ gia cảnh bao gồm nhiều nội dung liên quan,
trong đó có nội dung mức giảm trừ gia cảnh thể hiện “giảm trừ gia cảnh là số tiền
được trừ”.
Trong khóa luận này, “giảm trừ gia cảnh” sẽ được tìm hiểu với vai trị là chế
định pháp luật giảm trừ gia cảnh trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân, từ đó phân
tích các nội dung liên quan, đánh giá tính hợp lý của các quy định về giảm trừ gia
cảnh hiện hành. Do vậy, để có thể thực hiện tốt nhất mục tiêu đề tài nghiên cứu, “giảm
trừ gia cảnh” không chỉ được hiểu là “số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước
khi tính thuế đối với thu nhập từ, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá
nhân cư trú” theo quy định của pháp luật mà còn cần được hiểu như một chế định

pháp luật. Do đó, dựa trên kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Võ Đại Minh trong
Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân luật “Áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong
thuế thu nhập cá nhân” năm 2015, tác giả kế thừa khái niệm chế định pháp luật giảm
trừ gia cảnh. “Chế định pháp luật giảm trừ gia cảnh là tổng hợp toàn bộ những quy
định pháp luật có liên quan điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong việc thực
hiện giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế”12.
1.2. Tác động của quy định giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
đối với Nhà nước, người nộp thuế và xã hội
Mục tiêu chính của Thuế thu nhập cá nhân là nhằm điều tiết thu nhập các thể
nhân, đảm bảo sự công bằng trong phân phối thu nhập xã hội13 và giảm trừ gia cảnh
là một trong những quy định nhằm thực hiện mục tiêu đó. Giảm trừ gia cảnh là một
quy định quan trọng trong việc đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế với
nhà nước và phân phối thu nhập xã hội, dựa trên hoàn cảnh cụ thể, người nộp thuế có
thu nhập khác nhau, gia cảnh khác nhau sẽ được giảm trừ gia cảnh khác nhau từ đó

Nguyễn Võ Đại Minh (2015), “Áp dụng pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân”, Khóa
luận tốt nghiệp Cử nhân Luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 9.
13
Nguyễn Hồng (2013), Hồn thiện quản lý nhà nước đối với thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam, Luận án
tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, tr. 24.
12

10


mức thuế đóng cũng khác nhau. Chính vì vậy, quy định giảm trừ gia cảnh có ý nghĩa,
tác động rất lớn đối với quyền lợi, nghĩa vụ người nộp thuế (số tiền thuế người nộp
thuế phải đóng) và lợi ích của Nhà nước (số tiền thuế thu vào cho ngân sách nhà
nước).
Đối với lợi ích của Nhà nước trong cán cân lợi ích với người nộp thuế, quy

định giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân mang lại ý nghĩa kinh tế lớn cho
người nộp thuế, đồng thời cũng tác động không nhỏ đến nguồn thu ngân sách nhà
nước.
Đối với Nhà nước, thuế nói chung, thuế thu nhập cá nhân nói riêng là cơng cụ
chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước, là công cụ điều tiết vĩ mô trong
nền kinh tế thị trường; là cơng cụ điều hịa thu nhập, thực hiện cơng bằng trong phân
phối14. Số tiền thuế thu nhập cá nhân càng cao lợi ích của Nhà nước càng lớn. Nhưng
mối quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế về lợi ích cần được cân bằng để đảm
bảo sự công bằng. Vì thế, quy định giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
được xem là sự chia sẻ lợi ích của Nhà nước đối với người nộp thuế, đảm bảo hài hịa
lợi ích giữa hai bên.
Như đã biết, giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế khi
tính thuế, vì thế, khi số tiền này càng cao thì thu nhập tính thuế sẽ giảm đồng nghĩa
với số tiền thuế nộp vào ngân sách nhà nước sẽ giảm đi. Theo quy định tại khoản 1
Điều 21 Luật Thuế TNCN: “Thu nhập tính thuế đối với thu nhập từ tiền lương, tiền
công là tổng thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 10 và Điều 11 của Luật này, trừ
các khoản đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp đối với một số ngành, nghề phải tham gia bảo hiểm bắt
buộc, quỹ hưu trí tự nguyện, các khoản giảm trừ quy định tại Điều 19 và Điều 20 của
Luật này”, có thể hiểu ngắn gọn quy định này như sau:
Thu nhập tính thuế = Tổng thu nhập chịu thuế - Các khoản được trừ (trong đó
có giảm trừ gia cảnh)
Như vậy, nếu tổng mức thu nhập chịu thuế không thay đổi và mức giảm trừ
gia cảnh tăng lên thì thu nhập tính thuế sẽ giảm. Đồng nghĩa với số tiền thuế phải
đóng sẽ giảm, nguồn thu ngân sách nhà nước từ thuế thu nhập cá nhân từ đó cũng có
thể giảm đi đáng kể. Lý giải cho điều này, khi tăng mức giảm trừ gia cảnh, sẽ có
những người nộp thuế đang thuộc diện chịu thuế sẽ không phát sinh số thuế thu nhập
cá nhân phải nộp, đó là người nộp thuế thu nhập cá nhân ở bậc 1. Người nộp thuế thu
Huỳnh Văn Diện (2016), Pháp luật Thuế thu nhập cá nhân từ thực tiễn Thành phố Cần Thơ, Luận án tiến sĩ
luật học, Học viện Khoa học xã hội, tr. 30.

14

11


nhập cá nhân ở bậc một là người có phần thu nhập tính thuế dưới mức 5 triệu đồng.
Khi tăng mức giảm trừ gia cảnh lên thì những người có phần thu nhập chịu thuế bằng
hoặc nhỏ hơn khoản giảm trừ gia cảnh sẽ khơng phải nộp thuế.
Ví dụ: Ơng Nguyễn Văn S có thu nhập từ tiền lương là 15 triệu đồng, có một
người phụ thuộc. Như vậy, thu nhập tính thuế của ơng S là thu nhập sau khi trừ các
khoản giảm trừ:
- Giảm trừ cho người nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng
- Giảm trừ cho người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng.
Tổng mức giảm trừ là 12,6 triệu đồng. Thu nhập tính thuế bằng 15 triệu – 12,6
triệu là 2,4 triệu. Vậy ông S là người nộp thuế ở bậc 1 với mức thuế phải nộp là 120
nghìn đồng.
Giả sử, mức giảm trừ cho người nộp thuế tăng từ 9 lên 11 triệu đồng/tháng và
mức giảm trừ cho người phụ thuộc tăng từ 3,6 lên 4,4 triệu đồng/tháng. Vậy, thu nhập
tính thuế của ơng S là 0 đồng (do mức giảm trừ gia cảnh của ông S là 15,4 triệu đồng,
lớn hơn thu nhập chịu thuế) và ông S không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Đối với cá nhân người nộp thuế, quy định giảm trừ gia cảnh thể hiện rõ lợi ích
kinh tế mà chủ thể này được hưởng. Đặt Nhà nước và người nộp thuế lên “cán cân
lợi ích”, khi một bên tạo điều kiện để tăng quyền lợi cho bên cịn lại thì phần cân đó
sẽ tăng phần lợi ích hoặc trở về vị trí cân bằng. Khi pháp luật quy định mức giảm trừ
gia cảnh phù hợp nghĩa là đang tạo điều kiện để người nộp thuế giảm bớt nghĩa vụ
đóng thuế, từ đó cân bằng lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và người nộp thuế. Lợi ích
kinh kế này thể hiện thông qua mức giảm trừ gia cảnh mà luật quy định. Khi áp dụng
mức giảm trừ gia cảnh mới cao hơn thì sẽ có một bộ phận người nộp thuế thuộc diện
nộp thuế theo mức giảm trừ cũ không phát sinh việc nộp thuế. Như vậy, người nộp
thuế sẽ có điều kiện về kinh tế hơn để phục vụ cuộc sống của mình và gia đình.

Về mặt lý luận, thuế thu nhập chủ yếu đánh vào thu nhập mới sáng tạo ra trong
quá trình vận động15. Do vậy, để xác định thu nhập chịu thuế với từng cá nhân người
ta đều phải tính đến việc trừ đi những khoản chi phí mà người nộp thuế đã bỏ ra khi
xúc tiến hoạt động tìm kiếm thu nhập. Giảm trừ gia cảnh chính là phần bù đắp lại chi
phí mà người nộp thuế đã bỏ ra đó, cũng là nhằm tái tạo lại sức lao động, tạo điều
kiện cho người nộp thuế phát triển sau khi đã thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Khi đạt
được lợi ích về kinh tế, người nộp thuế không phải lo lắng về những vấn đề cơ bản
của cuộc sống, các chi phí tất yếu phục vụ nhu cầu cấp thiết được đảm bảo, họ sẽ có
15

Huỳnh Văn Diện, tlđd (14), tr. 47-48.

12


năng lượng, tâm trí tập trung vào làm việc, lao động tạo ra giá trị cho xã hội, nâng
cao năng suất làm việc. Như vậy, việc đáp ứng lợi ích kinh tế cho người nộp thuế
cũng là gián tiếp tạo ra lợi ích kinh tế cho Nhà nước.
Về mặt xã hội, giảm trừ gia cảnh là một quy định mang tính nhân đạo cao, thể
hiện tinh thần đồn kết, tương trợ lẫn nhau, đồng thời tạo điều kiện cho người nộp
thuế thực nghĩa vụ vật chất mang tính đạo đức đối với người thân trong gia đình.
Thơng qua đó thấy được sự tác động của quy định giảm trừ gia cảnh đến lợi ích của
người nộp thuế.
Tinh thần đồn kết, tương trợ lẫn nhau là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt.
Khi xã hội phát triển, hoạt động lập pháp phát triển, tinh thần nhân đạo vẫn là một
trong những nguyên tắc cơ bản khi xây dựng một văn bản quy phạm pháp luật, chế
định pháp luật, quy phạm pháp luật. Quy định giảm trừ gia cảnh là minh chứng cho
điều đó.
Trong từ điển Tiếng Việt, “gia cảnh” là chỉ tình cảnh gia đình giàu hay nghèo.
“Gia cảnh” trong luật thuế thu nhập cá nhân có thể được hiểu như hồn cảnh gia đình

của người nộp thuế. Theo khoản 2 điều 3 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014, “Gia
đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc
quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau”. Chính
vì vậy, các thành viên trong gia đình ln có sự gắn bó mật thiết, u thương, chăm
sóc, ni dưỡng lẫn nhau. Cha mẹ có nghĩa vụ u thương chăm sóc ni dưỡng con
cái, con cái có bổn phận u q, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ,
các thành viên khác trong gia đình cũng có chia sẻ với nhau cả về tinh thần lẫn vật
chất. Xuất phát từ bản chất đó, pháp luật thuế thu nhập cá nhập có quy định về giảm
trừ gia cảnh là phù hợp bởi đây là khoản tiền được trừ trước khi tính thuế, là phần
tiền đảm bảo duy cuộc sống của bản thân người nộp thuế và giúp người nộp thuế chia
sẻ với các thành viên trong gia đình. Khoản giảm trừ gia cảnh là cơ sở thể hiện nghĩa
vụ mang tính đạo đức của người nộp thuế đối với người phụ thuộc.
Không chỉ vậy, quy định giảm trừ gia cảnh giúp giảm áp lực lên hệ thống phúc
lợi xã hội của chính phủ. Do được hưởng khoản giảm trừ gia cảnh dành cho người
phụ thuộc, người nộp thuế sẽ có điều kiện hơn trong việc ni dưỡng, chăm sóc những
người phụ thuộc. Khi những người phụ thuộc được chăm sóc tốt, duy trì cuộc sống
lành mạnh thì Nhà nước sẽ bớt đi nỗi lo lắng trong việc làm sao chăm lo cho người
thiếu may mắn trong cuộc sống (đó là những người khuyết tật, người già neo đơn,…),
hệ thống phúc lợi của Chính phủ sẽ có điều kiện hơn để chăm lo cho đời sống nhiều
người khó khăn khác.
13


Quy định giảm trừ gia cảnh còn thể hiện tinh thần dân tộc sâu sắc. Điều này
có thể được lý giải thông qua việc mỗi người nộp thuế sẽ nộp một mức thuế khác
nhau, phụ thuộc vào mức thu nhập và gia cảnh của từng người. Một người có mức
thu nhập cao sẽ có mức thuế suất khác với người có thu nhập thấp. Một người có
hồn cảnh gia đình với nhiều người phụ thuộc mức giảm trừ sẽ cao hơn với người
khơng có hoặc chỉ có một người phụ thuộc. Mỗi cơng dân dân khi có nghĩa vụ đóng
thuế đều phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng mức độ thực hiện sẽ tùy thuộc vào

từng trường hợp hoàn cảnh cụ thể, không cào bằng, đánh đồng tất cả. Từ đó có thể
thấy được tinh thần Việt Nam qua quy định pháp luật, tinh thần chia sẻ, tương thân
tương ái của dân tộc Việt Nam.
1.3. Nội dung của giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân
Bên cạnh các khoản giảm trừ do đóng góp từ thiện, nhân đạo, giảm trừ gia
cảnh là khoản giảm trừ cơ bản được quy định tại Luật Thuế TNCN để đảm bảo quyền
và lợi ích của người nộp thuế. Vì thế cho nên thuế thu nhập cá nhân cần được quy
định rõ ràng, cụ thể các nội dung liên quan đến giảm trừ gia cảnh, trong đó cần phải
xác định được các nội dung cơ bản sau: thu nhập tính giảm trừ gia cảnh, đối tượng
được giảm trừ gia cảnh, mức giảm trừ gia cảnh và điều kiện để được giảm trừ gia
cảnh. Bên cạnh đó, nội dung về quản lý thuế đối với giảm trừ gia cảnh cũng cần được
chú trọng.
Thứ nhất, nội dung về thu nhập tính giảm trừ gia cảnh.
Thu nhập là khoản của cải được tính thành tiền mà một cá nhân nhận được
trong một khoảng thời gian nhất định từ công việc, dịch vụ hoặc hoạt động nào đó.
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân là các loại thu nhập chịu sự điều chỉnh của Luật
Thuế thu nhập cá nhân, được quy định cụ thể trong Luật này. Mỗi cá nhân có thu
nhập từ nhiều nguồn khác nhau, trong những thu nhập này có loại là thu nhập chịu
thuế thu nhập cá nhân. Thông thường, thu nhập của cá nhân sẽ được chia làm hai
nhóm: thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên. Thu nhập thường
xun là các thu nhập có tính ổn định, lặp đi lặp lại theo thời gian và thu nhập khơng
thường xun là các thu nhập khơng có tính ổn định, mang tính đột xuất trong một
khoảng thời gian nhất định. Thu nhập thường xuyên thường bao gồm tiền lương, tiền
công; là loại thu nhập giúp cá nhân tiêu dùng các hoạt động sống, chăm sóc bản thân
và gia đình; là động lực lao động và tái sản xuất sức lao động. Trong khi đó, những
loại thu nhập khơng thường xuyên như thu nhập từ chuyển nhượng vốn, từ chuyển
nhượng bất động sản, từ trúng thưởng không thể là nguồn thu nhập giúp cá nhân thỏa
mãn nhu cầu tiêu dùng và ổn định cuộc sống lâu dài bởi tính nhất thời của nó.
14



Giảm trừ gia cảnh là khoản tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế, là lợi ích của
người nộp thuế. Tuy nhiên, để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa người nộp thuế và Nhà
nước, khoản tiền giảm trừ gia cảnh cần được trừ vào nguồn thu nhập hợp lý. Dựa trên
bản chất của các loại thu nhập, giảm trừ gia cảnh cần được chiết trừ vào thu nhập chịu
thuế là thu nhập thường xuyên. Bởi lẽ đây là nguồn thu nhập cốt yếu đảm bảo và duy
trì cuộc sống của cá nhân người nộp thuế và gia đình của họ. Hơn nữa, khoản tiền
giảm trừ gia cảnh là số tiền mà người nộp thuế được hưởng để đảm bảo cuộc sống
của họ. Chính vì vậy, thu nhập để tính giảm trừ gia cảnh nên là thu nhập chịu thuế từ
thu nhập thường xuyên.
Thứ hai, nội dung về đối tượng được giảm trừ gia cảnh.
Nội dung về đối tượng được giảm trừ gia cảnh sẽ trả lời cho câu hỏi ai là người
được hưởng giảm trừ gia cảnh. Quan điểm chính thức trong việc soạn thảo Luật thuế
thu nhập là để bảo đảm: (i) động viên hợp lý thu nhập dân cư, khuyến khích … lao
động, sản xuất kinh doanh, … làm giàu chính đáng; (ii) đảm bảo cơng bằng … của
các tầng lớp dân cư…. góp phần hạn chế khoảng cách về thu nhập; (iii) phù hợp với
tình hình nước ta và thông lệ quốc tế…; (iv) huy động nguồn lực để Nhà nước giải
quyết tốt hơn các vấn đề xã hội16. Có thể thấy, mục tiêu của thuế thu nhập cá nhân là
điều tiết thu nhập, hạn chế khoảng cách giàu nghèo. Thế nên, phần thu nhập mà người
nộp thuế sử dụng để nuôi sống bản thân họ và những người họ có trách nhiệm ni
dưỡng khơng tạo ra khoảng cách giàu nghèo. Vì thế cho nên, phần tiền này phải được
trừ trước khi tính thuế. Do đó, đối tượng được giảm trừ gia cảnh bao gồm bản thân
người nộp thuế và người phụ thuộc của họ.
Giảm trừ cho người nộp thuế là khoản giảm trừ luôn luôn có trong quy định
về giảm trừ gia cảnh. Trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân của hầu hết các quốc gia
khác trên thế giới, dù quy định về giảm trừ gia cảnh phức tạp hay đơn giản thì khoản
giảm trừ cho bản thân người nộp thuế bắt buộc phải có. Vì đây là khoản giảm trừ
quan trọng thể hiện quyền và lợi ích của người nộp thuế. Tuy nhiên, phụ thuộc vào
tình hình kinh tế - xã hội nên mức giảm trừ cho người nộp thuế ở mỗi quốc gia khác
nhau thì khơng giống nhau.


Nguyễn Thành Long, “Cần xác định đúng mục tiêu của Thuế Thu nhập cá nhân”,
/>er=false&showHeader=false&dDocName=CNTHWEBAP01162525162&rightWidth=0%25¢erWidth=1
00%25&_afrLoop=26916584454609224#%40%3F_afrLoop%3D26916584454609224%26centerWidth%3D
100%2525%26dDocName%3DCNTHWEBAP01162525162%26leftWidth%3D0%2525%26rightWidth%3D
0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl-state%3Dya9edeiah_9, truy cập
ngày 30/6/2021.
16

15


Luật Thuế thu nhập cá nhân ở Nhật Bản quy định mức giảm trừ đối với đối
tượng nộp thuế là cá nhân cư trú có phân biệt theo mức thu nhập và loại thu nhập.
Các khoản chiết khấu khác áp dụng cho cả nhân viên và các cá nhân khác bao gồm:
Tổn thất do thiên tai, chi phí y tế, các khoản chi phí bảo hiểm xã hội; các khoản chi
phí bảo hiểm nhân thọ…17 Luật Thuế thu nhập cá nhân của Hoa Kỳ quy định những
khoản khấu trừ cho cá nhân với mục đích để hệ thống thuế cân bằng hơn, khuyến
khích các hoạt động mà xã hội mong muốn. Theo quy định của Luật thì có 5 loại chi
tiêu quan trọng được phép khấu trừ: Chi phí y tế, lãi thế chấp, các loại thuế cấp bang
và địa phương trừ thuế bán hàng, đóng góp vào các quỹ từ thiện và mất mát đột xuất.18
Trong Luật Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam, giảm trừ gia cảnh cho bản
thân người nộp thuế áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ, tiền lương, tiền
cơng. Mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế là như nhau đối với mọi
người, người có thu nhập cao hay thu nhập thấp, người ở thành thị hay người ở nơng
thơn, người có nhu cầu tiêu dùng cao hay người có nhu cầu tiêu dùng thấp thì đều
hưởng một mức giảm trừ như nhau. Vấn đề này sẽ được tác giả bàn luận, phân tích
cụ thể hơn tại Chương 2.
Giảm trừ cho người phụ thuộc là khoản giảm trừ áp dụng cho những đối tượng
mà người nộp thuế phải ni dưỡng. Như đã phân tích về mối quan hệ giữa người

nộp thuế với người phụ thuộc – thành viên gia đình thì khoản giảm trừ cho người phụ
thuộc là khoản giảm trừ hợp tình hợp lý. Tuy nhiên để đảm bảo sự chia sẻ lợi ích này
đạt hiệu quả, đảm bảo cơng bằng thì giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc cần
phải thực hiện theo nguyên tắc mỗi một người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một
lần vào một người nộp thuế19. Đồng thời, thành viên trong gia đình được xem là người
phụ thuộc của người nộp thuế cần đáp ứng những điều kiện nhất định theo luật định.
Tương tự như mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế, mức giảm trừ gia cảnh cho
người phụ thuộc là một mức cố định cho tất cả người phụ thuộc. Đối với khoản giảm
trừ cho người phụ thuộc, công tác thi hành trên thực tế gặp khó khăn, khơng đảm bảo
tính chính xác. Điều này đặt ra những vấn đề sau đây: Điều kiện để được xem là
người phụ thuộc, mức giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc, quản lý thuế đối với
giảm trừ cho người phụ thuộc,… Những vấn đề này cũng sẽ được tác giả phân tích
cụ thể tại Chương 2.
Thứ ba, nội dung về mức giảm trừ gia cảnh.

Huỳnh Văn Diện, tlđd (14), tr. 50.
Huỳnh Văn Diện, tlđd (14), tr. 50.
19
Xem khoản 2 Điều 19 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007, được sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014.
17
18

16


Quy định pháp luật về mức giảm trừ gia cảnh tác động rất lớn đến người nộp
thuế bởi đây là số tiền được trừ trực tiếp vào thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế.
Mức giảm trừ này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của người nộp thuế, do đó, quy
định về mức giảm trừ gia cảnh ln được chú trọng xem xét kỹ lưỡng trước khi thông
qua. Mức giảm trừ gia cảnh được áp dụng tương ứng với đối tượng được giảm trừ gia

cảnh. Đối với người nộp thuế là người có thu nhập, có nghĩa vụ nộp thuế thì cần có
một mức giảm trừ cao hơn so với mức giảm trừ dành cho người phụ thuộc.
Thứ tư, nội dung về điều kiện để được giảm trừ gia cảnh.
Điều kiện giảm trừ gia cảnh được xác định bằng các tiêu chí liên quan đến đối
tượng được giảm trừ gia cảnh. Đối với người nộp thuế, để được giảm trừ gia cảnh họ
phải là cá nhân cư trú. Đối với người phụ thuộc, họ cần đáp ứng những tiêu chí về độ
tuổi, tình trạng sức khỏe và thu nhập.
Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế
trong và ngồi lãnh thổ Việt Nam và cá nhân khơng cư trú có thu nhập chịu thuế trong
lãnh thổ Việt Nam. Trong đó, giảm trừ gia cảnh chỉ áp dụng cho người nộp thuế là cá
nhân cư trú. Vì giảm trừ gia cảnh là quyền lợi của người nộp thuế được hưởng và
cũng là sự chia sẻ lợi ích của Nhà nước, thế nên sự chia sẻ này cần đặt đúng đối tượng.
Bên cạnh điều kiện đối với người nộp thuế thì việc quy định điều kiện đối với
người phụ thuộc để được giảm trừ gia cảnh là vô cùng quan trọng. Đặt ra những điều
kiện đối với người phụ thuộc giúp giới hạn phạm vi những đối tượng có khả năng trở
thành người phụ thuộc, giúp cơ quan nhà nước dễ quản lý, tránh tình trạng “người
phụ thuộc ảo”.
1.4. Yêu cầu đối với pháp luật về giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập
cá nhân
Một văn bản pháp luật, một chế định pháp luật khi được ban hành đều có
những mục tiêu chung riêng nhằm góp phần phát triển hệ thống pháp luật. Pháp luật
thuế thu nhập cá nhân cũng vậy, khi được ban hành, Luật Thuế thu nhập cá nhân đã
góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý về thuế đối với cá nhân có thu nhập trong xã
hội. Nhằm đảm bảo tính hợp lý, cơng bằng, khả thi của sắc thuế này, các nội dung
liên quan đến phạm vi điều chỉnh như đối tượng nộp thuế, thu nhập chịu thuế, thu
nhập được miễn thuế, giảm thuế và căn cứ tính thuế được nghiên cứu kỹ càng trước
khi được ban hành thực thi, đi vào đời sống xã hội. Trong đó, với vai trò là một chế
định quan trọng trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân, pháp luật về giảm trừ gia cảnh
là một nội dung quan trọng trong việc đạt được mục tiêu chung góp phần hồn thiện
sắc thuế và pháp luật thuế. Chính vì vậy, pháp luật về giảm trừ gia cảnh phải đáp ứng

17


các yêu cầu nhất định trong xây dựng ban hành và thực thi để hiện thực những mục
tiêu đó.
1.4.1. Đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập giữa những người nộp
thuế
Thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu, điều tiết trực tiếp vào thu nhập
nhận được của cá nhân trong một kỳ tính thuế nhất định; thuế thu nhập cá nhân có
phạm vi điều tiết rất rộng, tác động trực tiếp đến thu nhập của người dân. Chính vì
vậy, việc đảm bảo cơng bằng trong điều tiết thu nhập giữa những người nộp thuế
trong thuế thu nhập cá nhân là điều vô cùng cần thiết.
Theo từ điển tiếng việt, công bằng là không thiên vị, là nêu ra sự tương quan
giữa một số hiện tượng theo quan điểm phân phối phúc và họa, lợi và hại giữa người
với người; cơng bằng địi hỏi sự tương xứng giữa vai trò của những cá nhân với địa
vị xã hội của họ, giữa hành vi với sự đền bù, giữa quyền và nghĩa vụ. Về khía cạnh
lý luận, cơng bằng là một khái niệm căn bản của triết học pháp quyền, triết học xã hội
cũng như của đời sống chính trị, xã hội, tôn giáo và pháp luật; là một phạm trù khoa
học được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau 20 . Còn thời kỳ sau
Immanuel Kant (1724 – 1804), đặc biệt trong chủ nghĩa thực chứng (Positivism),
công bằng được định nghĩa là: đối xử như nhau đối với những cái giống nhau và
không như nhau đối với những cái khơng giống nhau21. Dưới góc độ pháp lý, sự công
bằng được thể hiện thông qua sự “bình đẳng”. Bình đẳng là ngang nhau, khơng phân
biệt đối xử về chủng tộc, màu da, giới tính, độ tuổi, tơn giáo, ngơn ngữ… Ngồi ra
cịn nhiều quan điểm, khái niệm về công bằng nhưng tựu trung lại, qua những quan
điểm, khái niệm trên thì chưa thể hiện hết ý nghĩa của công bằng trong điều tiết thu
nhập trong thuế thu nhập cá nhân.
Công bằng trong điều tiết thu nhập trong thuế thu nhập cá nhân là công bằng
xã hội. Tức là trong quá trình xây dựng pháp luật, nhà lập pháp đảm bảo công bằng
bằng cách tiếp cận vấn đề, đưa ra cái nhìn tồn diện đúng đắn, khơng thiên lệch các

mối quan hệ xã hội, cụ thể trong phạm vi yêu cầu này là về nghĩa vụ nộp thuế của
những người nộp thuế. Nếu khơng có cái nhìn toàn diện, đánh giá đúng đắn các mối
quan hệ xã hội thì khả năng nghĩa vụ nộp thuế của mỗi người nộp thuế là như nhau,
dù đó là người có thu nhập cao hay là người có thu nhập thấp. Công bằng xã hội trong
điều tiết thu nhập cá nhân phải dựa trên tình hình kinh tế, xã hội của từng giai đoạn,
Nguyễn Thị Thủy (Đại học Luật Hà Nội), “Công bằng và ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc cơng bằng trong
tố tụng hành chính”, truy cập ngày 20/5/2021.
21
Nguyễn Thị Thủy, tlđd (20).
20

18


từng thời kỳ phát triển của đất nước, dựa trên khả năng thu nhập của cá nhân trong
xã hội. Nếu không căn cứ vào những yếu tố trên để điều tiết thu nhập thì yếu tố cơng
bằng sẽ khơng được đảm bảo.
“Điều tiết thu nhập” hay “điều tiết kinh tế” là một phương thức quản lý kinh
tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Việc điều tiết thu nhập được thực
hiện bằng một số cách như tăng thuế suất, tăng mức giảm trừ gia cảnh, giới hạn hoặc
mở rộng các loại thu nhập chịu thuế, thu nhập không chịu thuế,… Bằng việc quy định
mức giảm trừ gia cảnh, nhà nước cũng đã sử dụng quy định này như một công cụ để
điều tiết thu nhập. Mặc dù, việc điều tiết thu nhập này được thực hiện chủ yếu dựa
vào thuế suất thuế thu nhập cá nhân nhưng mức giảm trừ gia cảnh cũng góp phần
quan trọng trong quá trình điều tiết kinh tế này. Khi tăng mức giảm trừ gia cảnh, thu
nhập thực tế của người nộp thuế tăng, họ có điều kiện kinh tế hơn để đáp ứng nhiều
hơn nhu cầu của bản thân và người thân trong gia đình bao gồm cả người phụ thuộc.
Chính vì giữ vai trị quan trọng, tác động ít nhiều đến điều tiết thu nhập trong
thuế thu nhập cá nhân nên pháp luật về giảm trừ gia cảnh phải được quy định chặt
chẽ để đảm bảo công bằng. Như đã phân tích, cơng bằng xã hội trong điều tiết thu

nhập phải dựa trên tình hình kinh tế, xã hội và thu nhập của người nộp thuế. Theo đó,
để đảm bảo công bằng, vấn đề về giảm trừ gia cảnh phải được quy định dựa trên tình
hình kinh tế xã hội và thu nhập của người nộp thuế. Xét về tình hình kinh tế xã hội:
trong cùng một điều kiện, hồn cảnh, khơng phân biệt nguồn thu nhập thì người có
mức thu nhập như nhau thì nộp mức thuế như nhau. Ví dụ: Ơng A và Ơng B đều có
gia đình, có con nhỏ (người phụ thuộc), cả hai đều có mức thu nhập là X triệu đồng.
Trong cùng điều kiện, với cùng mức thu nhập là X nên ông A và ông B có mức thuế
phải nộp là như nhau. Xét về mức thu nhập của người nộp thuế: với cùng một mức
thu nhập, người có hồn cảnh khác nhau thì nộp mức thuế khác nhau. Ví dụ: Ơng A
và ơng B đều có mức thu nhập là Y triệu đồng, ơng A khơng có người phụ thuộc
nhưng ơng B có gia đình, phải chăm lo cho hai con nhỏ. Khi đó, mức thuế phải nộp
của hai người là khác nhau. Để đảm bảo công bằng xã hội pháp luật phải quy định
dựa trên cơ sở tổng hòa hai khía cạnh trên. Pháp luật về giảm trừ gia cảnh đảm bảo
những người có cùng điều kiện hồn cảnh, cùng mức thu nhập sẽ có nghĩa vụ thuế
giống nhau và ngược lại.
Để đánh giá đúng về điều kiện hoàn cảnh của người nộp thuế, pháp luật giảm
trừ gia cảnh cần xây dựng quy định về người phụ thuộc một cách rõ ràng, chặt chẽ,
hợp lý. Bởi vì quy định về người phụ thuộc sẽ thể hiện được tình trạng của người nộp
thuế, mối quan hệ của người nộp thuế với gia đình và những người liên quan thơng
qua hồ sơ đăng ký người phụ thuộc. Nếu một người có nhiều người phụ thuộc thì
19


gánh nặng trong việc chăm sóc gia đình, đảm bảo cuộc sống cho người thân của mình
càng lớn. Trong những trường hợp này, nhà nước cần chia sẻ gánh nặng với họ thông
qua giảm trừ gia cảnh để giảm bớt gánh nặng về thuế.
Bên cạnh việc đánh giá đúng điều kiện hồn cảnh thì yếu tố cơng bằng phải đi
đơi với việc xác định mức thu nhập chịu thuế của người nộp thuế. Với cùng một mức
thu nhập, người nộp thuế khơng có người phụ thuộc sẽ đóng mức thuế phải cao hơn
do không được hưởng khoản giảm trừ cho người phụ thuộc. Với mức thu nhập khác

nhau, điều kiện hồn cảnh khác nhau thì đương nhiên mức thuế phải nộp là khác nhau.
Yếu tố công bằng thể hiện qua nhiều lăng kính để đảm bảo việc nộp thuế khơng bị
cào bằng, tránh tình trạng người có thu nhập thấp lại nộp mức thuế giống như người
có thu nhập cao, người có hồn cảnh khó khăn lại nộp thuế giống như người gia cảnh
ổn định.
Hơn nữa, khi quy định pháp luật giảm trừ gia cảnh đảm bảo được nguyên tắc
công bằng trong điều tiết thu nhập cá nhân thì sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của sắc
thuế là hạn chế khoảng cách giàu nghèo. Người nộp thuế sẽ có nghĩa vụ nộp thuế
khác nhau tùy theo điều kiện hoàn cảnh và mức thu nhập của mình. Người khơng có
người phụ thuộc chỉ được giảm trừ cho bản thân. Người nộp thuế có nhiều người phụ
thuộc nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn bằng khoản giảm trừ cho bản thân và cho người
phụ thuộc.
Trong một nền kinh tế, mỗi cá nhân có một năng lực tài chính khác nhau, có
hồn cảnh gia đình khác nhau nên việc xây dựng một quy định pháp luật không thể
nào đáp ứng một cách trọn vẹn yêu cầu của tất cả cá nhân trong xã hội. Thế nên, yêu
cầu đảm bảo công bằng trong điều tiết thu nhập của những người nộp thuế trong thuế
thu nhập cá nhân chỉ mang tính tương đối, đáp ứng cơ bản yêu cầu của một quy phạm
pháp luật được áp dụng trong phạm vi toàn quốc và tiệm cận với thơng lệ quốc tế.
1.4.2. Dung hịa lợi ích của Nhà nước và người nộp thuế
Giảm trừ gia cảnh trong thuế thu nhập cá nhân là quy định gắn liền với lợi ích
của người nộp thuế và khoản thu thuế thu nhập cá nhân lại gắn liền với lợi ích của
nhà nước. Khoản thu thuế thu nhập cá nhân này bị ảnh hưởng bởi khoản giảm trừ gia
cảnh. Vì vậy, việc quy định về giảm trừ gia cảnh (mức giảm trừ gia cảnh) cần đáp
ứng yêu cầu về dung hịa lợi ích hai bên. Pháp luật quy định giảm trừ gia cảnh bảo
đảm lợi ích của người nộp thuế, song song đó, vẫn phải đảm bảo lợi ích của nhà nước
thể hiện qua nguồn thuế thu vào ngân sách nhà nước.
Lợi ích của người nộp thuế khi được hưởng giảm trừ gia cảnh thể hiện cụ thể
qua thu nhập thực tế của họ. Các khoản tiền từ tiền công, tiền lương thường là các
20



khoản thu nhập chính yếu của người nộp thuế và cũng chỉ có những khoản thu nhập
này mới được giảm trừ gia cảnh. Khi tính thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản
tiền này, người nộp thuế được hưởng các khoản giảm trừ (bao gồm giảm trừ gia cảnh
và giảm trừ các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo), các khoản giảm trừ này được trừ
vào thu nhập chịu thuế. Vì vậy, khi hưởng giảm trừ, thu nhập tính thuế thu nhập cá
nhân sẽ giảm đi, từ đó, số tiền thuế phải đóng cũng giảm đáng kể so với khi không
được hưởng giảm trừ. Giảm trừ gia cảnh càng cao, số tiền thuế phải nộp càng ít, thu
nhập thực tế càng cao. Mặc dù mối quan hệ này chỉ mang tính tương đối bởi vì cịn
phụ thuộc vào tổng thu nhập chịu thuế từ tiền công, tiền lương nhưng về cơ bản, khi
áp dụng giảm trừ gia cảnh sẽ làm giảm đáng kể áp lực kinh tế cho người nộp thuế, đó
là nguồn động lực để người nộp thuế tái tạo ra giá trị cho xã hội. Đây chính là lợi ích
về kinh tế và cả lợi ích về tinh thần mà người nộp thuế được hưởng khi áp dụng quy
định về giảm trừ gia cảnh.
Bên cạnh lợi ích của người nộp thuế, lợi ích của nhà nước cũng cần được chú
trọng. Lợi ích này thể hiện thơng qua số thuế thu vào ngân sách nhà nước. Theo quy
định tại khoản 14 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015, ngân sách nhà nước
là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để bảo
đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Ngân sách nhà nước đóng vai
trị quan trọng trong việc thực hiện các hoạt động mang tầm cỡ quốc gia, dùng để chi
cho một số hoạt động sau đây: Chi đầu tư phát triển, chi dự trữ quốc gia, chi thường
xuyên, chi trả nợ lãi, chi viện trợ và các khoản chi khác. Ngân sách nhà nước bao
gồm nhiều khoản thu nhưng phụ thuộc nhiều nhất là vào các khoản thu từ thuế, lệ phí.
Vì vậy việc đảm bảo nguồn thu của ngân sách nhà nước cũng là đảm bảo cho việc
thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Trong bài viết “Tỉ trọng thu thuế trong tổng thu ngân sách của Việt Nam duy
trì ổn định” của tác giả Minh Phương đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
có đề cập đến tỷ trọng thuế trực thu đóng góp vào ngân sách nhà nước. Theo đó, tỷ
trọng thuế trực thu giảm trong giai đoạn 2012-2017 nhưng tăng trở lại trong giai đoạn

2018-2019, ước tính đạt 38,9% vào năm 201922. Tác giả bài viết cũng nêu lên tỉ trọng
thuế thu nhập cá nhân đã tăng trưởng mạnh nhưng vẫn đóng góp khiêm tốn vào ngân
sách nhà nước. Thuế Thu nhập cá nhân tăng từ 5 nghìn tỷ đồng (2006) lên mức 109,4

Minh Phương, “Tỉ trọng thu thuế trong tổng thu ngân sách của Việt Nam duy trì ổn định”,
truy cập ngày 20/5/2021.
22

21


×