Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.59 KB, 5 trang )
Cây hến biển – Biện pháp
phục hồi môi trường ao
nuôi tôm
Hến biển, có tên khoa học là Scirpus littoralis Schrab (theo sách
phân loại của Phạm Hoàng Hộ, quyển III, tập 2, trang 633, NXB
Mekong, 1993) nông dân huyện Đông Hải, Giá Rai (Bạc Liêu) gọi
là Cỏ Năng Tượng.
Đây là cây họ Lác (Cyperaceae), thân hình trụ tròn, cao đến một mét
hay hơn, khi khô có màu vàng rơm.
Cây mọc tự nhiên bằng hạt trôi theo nước hoặc từ gốc mùa trước. Có
khả năng chịu được độ mặn trong nước lên đến 20 phần ngàn và ngập
sâu đến 0.5 m.
Ở ĐBSCL, hến biển tìm thấy dọc theo vùng duyên hải, từ Cần Giờ
(TP. HCM) đến tận Hà Tiên (Kiên Giang). Trong hệ sinh thái tự nhiên
của đầm lầy ven biển, hến biển là cây tiên phong phát triển trên nền
bùn nhão.
Trong hệ sinh thái ruộng nuôi tôm, cây hến biển giúp ổn định nhiệt độ
nước và làm giảm các chất ô nhiễm do thức ăn tôm dư thừa gây ra, do
đó làm tăng nồng độ khí oxy. Hến biển là nhóm cây tích lũy
(accumulator) nên có thể dùng để cải thiện độ mặn trong đất (vì có thể
hấp thu được muối và tích lũy trong thân).
Tôm sú lớn lên chúng ăn các rễ non của cây hến. Kinh nghiệm của
nông dân là nên giữ cây hến biển khoảng 30% diện tích nuôi sẽ làm
tôm lớn nhanh và ít bị rủi ro. Khảo sát từ năm 2003 cho thấy là các ao
nuôi có cây hến biển chịu rủi ro ít hơn các ao nuôi khác, đặc biệt là
trong đợt nắng nóng và tôm chết hàng loạt năm 2004, sự chênh lệch
này là càng cao.