Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Kỹ thuật làm vaccine cho gia cầm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.03 KB, 9 trang )

Kỹ thuật làm vaccine cho gia cầm, gia súc – theo trang web Đại học Nông nghiệp Hà
Nội – Khoa Nội chẩn – dược
Hiện nay vấn đề lựa chọn vaccine và cách cấp vaccine cho gia súc, gia cầm ở trại chăn
nuôi chưa được thực hiện theo đúng yêu cầu kỹ thuật. Điều này đã gây thiệt hại rất nhiều
trong công tác phòng chống dịch bệnh…
Vì vậy bài viết sau đây hy vọng sẽ giới thiệu khái quát về cách thức cấp vaccine cho gia
súc, gia cầm nhằm đạt được hiệu quả cao trong công tác phòng chống dịch bệnh cho trại
chăn nuôi.
I. Khái quát về vaccine:
- Vaccine là chế phẩm sinh học dùng để phòng bệnh được chế từ chính mầm bệnh
gây ra bệnh cần phòng. Trong vaccine có 2 thành phần:
+ Kháng nguyên (là thành phần chủ yếu): gồm có một hoặc một số mầm bệnh đã bị
giết chết hoặc làm yếu đi.
+ Chất bổ trợ: gồm hóa chất để giết mầm bệnh và hóa chất để giữ kháng nguyên ổn
định hoặc tồn tại lâu trong cơ thể, tăng hiệu lực và thời gian miễn dịch ở vật nuôi.
Thường dùng là keo phèn (gọi là vaccine keo phèn), dầu khoáng, dầu thực vật (gọi là
vaccine nhũ hóa).
II. Phân loại vaccine
1. Vaccine nhược độc (vaccine sống nhược độc)
- Là loại vaccine được chế từ vi khuẩn hoặc virus đã được làm yếu đi đến mức
không gây nguy hiểm cho cơ thể nhưng vẫn đáp ứng miễn dịch tốt, hoặc từ những chủng
vi sinh vật vốn có tính gây bệnh thấp đối với động vật được tuyển chọn từ tự nhiên.
- Có nhiều cách để làm giảm độc lực của vi khuẩn hoặc virus
+ Nuôi cấy trong những điều kiện bất lợi (nuôi vi khuẩn nhiệt thán ở nhiệt độ 42°C hoặc
trong môi trường CO2, nuôi vi khuẩn lao trong môi trường có mật bò)
+ Làm khô môi trường sống của vi khuẩn hoặc virus (vaccine dại Pasteur)
+ Để cho vi khuẩn già đi (vaccine tụ huyết trùng của Pasteur)
+ Tiếp đời liên tục qua một loại động vật không cảm thụ tự nhiên (vaccine nhược độc
dịch tả trâu bò qua thỏ hoặc qua lợn, vaccine nhược độc dịch tả lợn qua thỏ hoặc qua bê)
1
+ Tiếp đời qua thai, trứng (vaccine Newcastle, vaccine dịch tả vịt, vaccine đậu gà)


+ Ngoài ra còn có một số vaccine được chế từ các chủng mầm bệnh nhược độc tự nhiên
(vaccine Newcastle V4 chịu nhiệt, vaccine bệnh Marek)
- Các vaccine nhược độc có khả năng gây miễn dịch tốt hơn vaccine vô hoạt.
Vaccine virus nhược độc thường gây miễn dịch sớm (3 - 4 ngày sau khi tiêm, thời gian
miễn dịch tương đối dài. Nhưng những loại vaccine này khi dùng dễ gây phản ứng, đòi
hỏi nhiệt độ bảo quản thấp, có thể lây bệnh không điển hình hoặc làm trỗi dậy các bệnh
khác sau khi tiêm.
2. Vaccine vô hoạt (hay còn gọi là vaccine chết)
- Là loại vaccine được chế từ vi khuẩn, virus đã bị giết chết. Đây là loại vaccine an
toàn, ổn định và dễ sử dụng, nhưng hiệu lực thường kém và thời gian sử dụng ngắn.
- Sử dụng các tác nhân vật lý để giết chết vi khuẩn hoặc virus (tia cực tím, các chất
hóa học như axit phenic, formol, crystal violet, )
- Gồm các loại vaccine tụ huyết trùng trâu bò, tụ huyết trùng lợn, vaccine ung khí
thán
3. Giải độc tố (toxoid):
- Là chế phẩm sinh học được chế từ độc tố của vi khuẩn đã được giải độc. Giải độc
tố mất độc tính nhưng còn tính sinh miễn dịch. Khác với vaccine gây miễn dịch các bệnh
do vi khuẩn, giải độc tố chỉ gây miễn dịch với độc tố của vi khuẩn.
- Giải độc bằng các dung dịch formol hoặc phenol (Giải độc tố uốn ván)
* Lưu ý: Giải độc tố thường an toàn và ít gây phản ứng phụ. Tuy nhiên, cần phải
dùng với liều tiêm khá lớn do trong vaccine phải có chất bổ trợ để duy trì kháng nguyên
kéo dài trong cơ thể nên việc sử dụng gặp nhiều phiền toái và chất bổ trợ cũng có thể gây
kích thích dẫn đến những phản ứng phụ bất lợi. Sau khi tiêm trung bình từ 2 - 3 tuần lễ
thì cơ thể mới có miễn dịch. Độ dài miễn dịch thường ngắn (3 - 6 tháng) vì vậy có loại
phải tiêm nhiều lần trong năm (điều này cũng giống đối với vaccine vô hoạt).
III. Nguyên tắc dùng vaccine khi tiêm phòng:
Dùng vaccine chủ yếu là phòng bệnh và sau khi tiêm vaccine một thời gian nhất
định heo mới có khả năng tự miễn dịch, vì vậy khi tiêm vaccine cần phải thực hiện theo
đúng những nguyên tắc sau:
- Đối tượng tiêm phòng:

+ Thực hiện tiêm phòng hàng năm đối với những vùng có ổ dịch cũ, vùng có nhiều
bệnh truyền nhiễm phát sinh theo mùa.
+ Ở nơi bệnh đang phát thì không được tiêm vaccine đối với những heo đã mắc
bệnh mà phải dùng kháng huyết thanh hoặc kháng sinh thích hợp để điều trị (vì nếu tiêm
cho động vật đã nhiễm bệnh thì bệnh sẽ phát sớm hơn, nặng hơn). Đối với những con còn
khỏe nhưng do tiếp xúc với những con bệnh nên dễ bị lây nhiễm, vì vậy có thể tiêm
kháng huyết thanh cùng lúc với vaccine (nhưng ở vị trí khác nhau trên cơ thể).
+ Ở những nơi chưa có dịch chỉ nên dùng vaccine chết.
2
+ Nên tiêm phòng cho heo trước 15 – 20 ngày trong trường hợp vận chuyển heo đi
xa và sau 20 – 30 ngày trong trường hợp nhập heo từ nơi khác về.
+ Vaccine phòng bệnh nào thì thường chỉ phòng được loại bệnh đó, không phòng
được bệnh khác.
- Hiệu lực của vaccine:
+ Tình trạng sức khỏe sẽ ảnh hưởng tới hiệu lực của vaccine. Chỉ tiêm phòng khi
heo có thể trạng khỏe mạnh vì lúc đó heo mới có khả năng đáp ứng miễn dịch cao.
Không tiêm vaccine cho những con đang nung bệnh, những con quá gầy yếu, quá non,
con mẹ mới đẻ, những con đang gặp stress (mới thiến chưa lành vết thương, dời chuồng,
xổ giun, thay đổi khẩu phần thức ăn). Cũng không nên tiêm vaccine virus nhược độc cho
heo mang thai ở thời kỳ thai sớm (1/3 kỳ thai đầu tiên).
+ Một số trường hợp khi tiêm vaccine cho những con có thể trạng tốt nhưng khả
năng đáp ứng miễn dịch của những con đó vẫn kém. Điều này có thể do điều kiện ngoại
cảnh đã tác động làm giảm khả năng đáp ứng miễn dịch của cơ thể, từ đó mầm bệnh vẫn
có thể xâm nhiễm và gây bệnh cho vật nuôi.
- Thời gian vaccine tác dụng:
Sau khi tiêm vaccine, cơ thể sẽ tạo được miễn dịch sau 2 – 3 tuần. Trong thời gian
đó, động vật chưa có miễn dịch đầy đủ nên vẫn có thể mắc bệnh và phát bệnh. Hiện
tượng này có thể dẫn đến những nhận định sai lầm vì cho rằng vaccine không có hiệu lực,
vaccine gây ra phản ứng hoặc vaccine gây bệnh.
- Liều sử dụng vaccine:

Cần sử dụng vaccine (cho uống, nhỏ mắt hoặc tiêm) đúng theo chỉ định của nhà
sản xuất. Nếu thấp hơn liều quy định sẽ làm giảm hiệu lực của vaccine, nếu tiêm liều cao
hơn có thể làm tê liệt miễn dịch hoặc gây ra phản ứng phụ. Đối với vaccine virus nhược
độc thường dùng liều giống nhau cho các lứa tuổi ở động vật, còn đối với vaccine vi
khuẩn phải dùng theo thể trọng hay theo tuổi mà cho các liều khác nhau.
- Số lần dùng vaccine:
Một số vaccine cần được tiêm nhắc lại do có trường hợp dùng lần đầu cho nên
kháng thể tạo ra chưa nhiều và bị giảm đi rất nhanh hoặc trường hợp sau khi tiêm một
thời gian thì kháng thể được tạo thường suy giảm đến mức hết hiệu lực cho nên cần tiêm
lần 2 cách lần thứ nhất là 3 – 4 tuần.
Như vậy đợt tiêm đầu tiên cho động vật nên gồm 2 mũi tiêm cách nhau 3 – 4 tuần
(thường gọi là đợt tiêm sơ chủng), sau đó để duy trì đáp ứng miễn dịch và nâng cao sức
kháng bệnh cần thực hiện tiêm nhắc sau 4 – 12 tháng (tùy theo vaccine, tùy theo động vật
và tình hình dịch tễ).
- Kết hợp vaccine:
Một số vaccine có thể dùng kết hợp, bằng cách tiêm cùng lúc ở các vị trí khác nhau
với những liều quy định. Như vậy động vật sẽ tạo được miễn dịch với nhiều bệnh trong
cùng một thời điểm mà không gây những phản ứng ảnh hưởng đến sức khỏe. Một số
vaccine chết không được dùng chung bơm tiêm với các loại vaccine sống nhược độc.
3
- Kiểm tra lọ vaccine trước khi sử dụng:
Trước khi sử dụng bất cứ lọ vaccine nào cũng cần phải kiểm tra những chi tiết sau:
+ Thông tin trên nhãn: (Những chi tiết này cần ghi vào sổ để theo dõi nếu gặp sự
cố khi sử dụng.
> Tên vaccine (có đúng với nhu cầu sử dụng không)
> Số lô, số liều sử dụng
> Ngày sản xuất, số kiểm nghiệm xuất xưởng
> Thời hạn sử dụng, quy cách bảo quản
+ Những hư hỏng trong lọ vaccine:
> Nút: chặt hay lỏng, nguyên vẹn hay bị rách, tình trạng lớp sáp phủ bên ngoài.

> Lọ thủy tinh có bị rạn nứt không
> Tình trạng thuốc trong lọ: màu sắc có bình thường không, vaccine có bị vón
không, có vật lạ trong lọ không (bụi than, côn trùng, sợi bông…), khi lắc lọ vaccine có
tạo thành một dung dịch đồng nhất hay vẫn chia thành 2 lớp (nếu vaccine nhũ hóa hay
vaccine keo phèn vẫn chia thành 2 lớp khi lắc là vaccine đã bị hư hỏng không sử dụng
được).
- Thao tác khi sử dụng vaccine:
+ Khử trùng các dụng cụ dùng để pha chế vaccine bằng cách hấp hoặc luộc, sau đó
rửa bằng nước sạch (nước đã sôi để nguội). Không được rửa bằng thuốc sát trùng.
+ Sát trùng bằng cồn 70
o
C: tay người thực hiện, vùng da được tiêm, nút cao su của
lọ chứa vaccine.
+ Trong lúc tiêm phòng cần tránh ánh nắng mặt trời vì có thể làm hư hỏng vaccine
(nhất là vaccine sống nhược độc).
IV. Những đường cấp vaccine:
- Tiêm dưới da (SQ): vaccine Newcatle (thế hệ I), vaccine dịch tả vịt, vaccine tụ
huyết trùng keo phèn.
- Tiêm bắp thịt (IM): Thuốc được chích vào trong cơ thường được hấp thu vào
trong máu nhanh hơn so với chích dưới da. Để tránh trào thuốc ra ngoài từ vị trí chích,
nên kéo da qua một bên trước khi đâm kim, sau đó đâm thẳng kim vào và bơm thuốc. Khi
rút kim ra thì da sẽ bật trở lại vị trí cũ để bao phủ vết chích trong cơ và giữ toàn bộ thuốc
ở trong cơ thể. Vị trí chích trên gia súc thường là bắp thịt ở đùi, trên gia cầm là cơ ức.
- Phun sương, nhỏ mắt, nhỏ mũi, nhúng mỏ: vaccine Laxota phòng bệnh Newcatle
cho gà.
V. Bảo quản vaccine:
- Vaccine phải được bảo quản đúng kỹ thuật: để ở chỗ tối, râm mát, nhiệt độ bảo
quản thích hợp là 20 - 25°C. Vaccine nhược độc được điều chế từ virus phải bảo quản ở
nhiệt độ thấp (-15°C) trong quá trình tích trữ và vận chuyển, nhưng nếu ở trạng thái đông
khô thì cần được bảo quản lạnh ở 1 - 4°C.

4
- Phải hủy bỏ vaccine quá hạn dùng, đối với vaccine còn thừa nên tiêu hủy ở những
nơi quy định, không vất bỏ bừa bãi, nhất là vaccine sống, để không tạo ra biến chủng
phức tạp cho việc phòng bệnh sau này.
VI. Phản ứng sau khi tiêm vaccine:
- Sau khi tiêm vaccine, vật nuôi có thể bị phản ứng do: các chất phụ trong vaccine,
tiêm vào cơ thể đang nung bệnh hoặc tiêm sâu vào bắp thịt. Phản ứng cục bộ tại chỗ tiêm
là sưng, nóng, đau… nhưng sau một thời gian phản ứng này sẽ mất. Khi có phản ứng cục
bộ cần xử lý bằng cách chườm nước nóng tại vị trí tiêm. Trường hợp nơi tiêm bị nhiễm
trùng gây apxe mủ thì phải điều trị bằng kháng sinh.
- Tiêm vaccine còn có thể gây phản ứng dị ứng (phản ứng xảy ra nhanh sau khi
tiêm). Vật nuôi thể hiện: sốt, run rẩy, nôn mửa, thở gấp, nổi mẫn trên mặt da (thường gặp
ở heo). Nếu phản ứng ở mức độ nhẹ thì sau một thời gian sẽ hết, nếu phản ứng ở mức độ
nặng thì vật nuôi có thể bị chết. Để tránh phản ứng ở mức độ nặng thì sau khi tiêm ta cần
theo dõi cẩn thận trạng thái sức khỏe của đàn vật nuôi trong vài giờ liền. Khi có hiện
tượng dị ứng nên sử dụng các loại thuốc chống Histamin như: Dimadron, Epharin,
Phenergan, Adrenalin.
Một số điều cần chú ý khi sử dụng vaccine
Vaccine là thuốc thường được dùng để phòng bệnh cho động vật khoẻ, chưa mắc
bệnh. Nếu tiêm cho động vật đã nhiễm bệnh rồi thì bệnh có thể phát sớm hơn, nặng hơn.
Trường hợp ngoại lệ có thể dùng Vaccine khi mà động vật đã nhiễm mầm bệnh. Thí dụ:
sử dụng Vaccine chống bệnh dại cho người đã bị chó dại cắn. Trường hợp này Vaccine
đã tạo ra kháng thể chống Virus dại trước khi Virus lên não, gây bệnh và tiêu diệt Virus
dại.
- Vaccine phòng bệnh nào thì thường chỉ phòng được loại bệnh đó thôi, không phòng
được các bệnh khác. Thí dụ: Vaccine phòng bệnh dịch tả lợn thì chỉ phòng được bệnh
dịch tả lớn, không phòng được bệnh đậu lợn.
5
- Hiệu lực của Vaccine phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của động vật vì nó là kết
quả đáp ứng miễn dịch của động vật. Vì lẽ đó, chỉ dùng Vaccine cho động vật ở trạng

thái khoẻ mạnh, được chăm sóc nuôi dưỡng tốt, không mắc các bệnh truyền nhiễm và
mãn tính khác, để tạo được trạng thái đáp ứng miễn dịch tốt.
Trong các đợt tổ chức tiêm phòng chỉ chọn những động vật đủ tiêu chuẩn để tiêm
nên khó có thể đạt tỷ lệ tiêm phòng 100%.
Cũng cần chú ý thêm rằng trong số động vật đạt tiêu chuẩn được sử dụng Vaccine
không phải tất cả đều sinh miễn dịch tốt. Có một số động vật sau khi sử dụng Vaccine,
do điều kiện ngoại cảnh có thể sinh miễn dịch kém, không có khả năng chống được sự
xâm nhiễm của mầm bệnh và vẫn mắc bệnh. Tỷ lệ động vật tạo được miễn dịch chống
bệnh gọi là hiệu giá bảo hộ, đó chính là hiệu lực của Vaccine.
- Bình thường không nên dùng Vaccine cho động vật quá non và thận trọng đối với
động vật đang mang thai. Ở động vật non, các cơ quan đảm nhận chức năng miễn dịch
bảo vệ cơ thể chưa hoàn chỉnh nên đáp ứng miễn dịch đối với Vaccine còn yếu. Ngoài
ra, động vật non còn có một lượng kháng thể thụ động do mẹ truyền cho, những kháng
thể đó, có thể trung hoà kháng thể trong Vaccine, ngăn cản Vaccine tác dụng. Do đó, chỉ
sử dụng Vaccine cho động vật ở lứa tuổi nhất định khi mà lượng kháng thể mẹ truyền cho
đã phân huỷ gần hết. Nếu không có dịch đe doạ thì chỉ nên dùng Vaccine cho súc vật từ
2 - 7 tuần tuổi, dùng Vaccine càng muộn càng tốt.
Khi có đe doạ buộc phải tiêm Vaccine sớm cho động vật non. Nhưng sau đó cần
tiêm:
+ Vaccine bổ sung: ở động vật mang thai, trạng thái sinh lý có những thay đổi nên
dùng Vaccine dễ gây những phản ứng mạnh và làm sảy thai. Đặc biệt không nên dùng
Vaccine sống cho súc vật mang thai, nhất là các Vaccine Virus nhược độc.
- Thời gian tạo miễn dịch ở động vật: sau khi sử dụng Vaccine, động vật sẽ tạo
được miễn dịch sau 2 - 3 tuần. Trong thời gian 2 - 3 tuần đó, động vật chưa có miễn dịch
đầy đủ, vẫn có thể mắc bệnh và phát bệnh. Hiện tượng đó có thể đưa đến những nhận
định sai lầm, cho rằng Vaccine không có hiệu lực hoặc Vaccine gây ra phản ứng, Vaccine
gây ra bệnh. Cũng cần nói thêm: một số động vật đang mang trùng hoặc ủ bệnh, khi sử
dụng Vaccine thì sẽ phát ra nhanh hơn.
- Chất bổ trợ của Vaccine: một số Vaccine được cho thêm chất bổ trợ với mục đích
giữ lâu kháng nguyên trong cơ thể động vật, tăng sức miễn dịch và kéo dài thời gian miễn

dịch. Chất bổ trợ thường dùng là keo phèn và Vaccine có keo phèn gọi là Vaccine keo
phèn; một chất bổ trợ khác là dầu khoáng hoặc dầu thực vật trộn vào Vaccine tạo thành
nhũ và gọi là Vaccine nhũ hoá. Khi sử dụng Vaccine nhũ hoá phải lắc đều và tiêm vào
bắp thịt để ít gây ra phản ứng keo phèn hay Vaccine nhũ hoá khi tiêm có thể gây phản
ứng cục bộ tại chỗ tiêm: sưng, nóng, đau sau một thời gian phản ứng sẽ giảm đi.
Cần chú ý thao tác vô trùng khi dùng Vaccine để tránh nhiễm trùng cục bộ.
Khi có phản ứng cục bộ có thể chườm chỗ nóng ở nơi tiêm và tiêm Cafein để giảm
phản ứng mau hơn. Khi nơi tiêm bị nhiễm trùng gây apxe mủ thì phải trích và tiêm điều
6
trị bằng kháng sinh. Một số Vaccine có thể gây phản ứng dị ứng. Phản ứng xảy ra nhanh
sau khi tiêm. Động vật thể hiện: sốt, run rẩy, nôn mửa, thở gấp, nổi mẩn trên mặt da
(lợn). Phản ứng nhẹ thì sau thời gian ngắn sẽ hết phản ứng nặng có thể làm súc vật bị
chết thường gọi là phản ứng quá mẫn.
Nguyên nhân của dị ứng có thể do bản chất của động vật dễ bị dị ứng với chế phẩm
sinh vật lạ đưa vào cơ thể, cũng có thể động vật đã tiếp xúc hoặc sử dụng những chế
phẩm gây mẫn cảm tương tự hoặc bản chất của Vaccine.
Để tránh phản ứng nặng, điều cần quan tâm là sau khi tiêm Vaccine phải theo dõi
cẩn thận trạng thái sức khoẻ của đàn súc vật vài ba giờ liền. Nếu có hiện tượng dị ứng thì
phải xử trí ngay bằng các loại thuốc chống Histamin như: Dimêdron, Ephêdrin,
Phenergan, Adrenalin
- Liều sử dụng Vaccine: cần sử dụng Vaccine (cho uống, nhỏ mắt hay tiêm) đúng
theo liều chỉ định đã ghi trên nhãn của lọ thuốc. Nếu tiêm thấp hơn liều quy định có thể
làm giảm quá trình đáp ứng miễn dịch. Nếu tiêm liều cao hơn quy định có thể làm tê liệt
miễn dịch hoặc gây ra phản ứng. Đối với Vaccine Virus nhược độc thường dùng liều
giống nhau cho các lứa tuổi ở động vật. Còn Vaccine vi khuẩn phải dùng theo thể trọng
theo tuổi mà cho các liều khác nhau.
- Số lần dùng Vaccine: khi dùng Vaccine lần đầu thì động vật sớm nhất sau một
tuần mới có miễn dịch nhưng kháng thể hình thành chưa nhiều, và giảm đi rất nhanh. Để
tránh nhược điểm đó, phải sử dụng Vaccine lần thứ 2 cách lần thứ nhất 3 - 4 tuần. Đáp
ứng miễn dịch lần này sẽ mạnh hơn, chỉ sau 2 - 3 ngày lượng kháng thể đã tăng nhanh,

hàm lượng kháng thể sau 1 - 2 tuần đã cao gấp nhiều lần so với đáp ứng miễn dịch lần
đầu và kháng thể tồn tại lâu hơn.
Như vậy đợt tiêm đầu tiên cho động vật nên gồm hai mũi tiêm cách nhau 3 - 4
tuần, có thể gọi là đợt tiêm sơ chủng. Tiêm như vậy, ta có thể khắc phục được những
nhược điểm và miễn dịch kém ở động vật non.
Sau đó, để duy trì đáp ứng miễn dịch và nâng cao sức miễn dịch, cứ khoảng 4 - 12
tháng tiêm lại một lần cho động vật, tuỳ theo Vaccine, tuỳ theo động vật và tuỳ theo tình
hình dịch tễ.
- Kết hợp Vaccine: một số Vaccine có thể dùng kết hợp, không phải trộn lẫn với
nhau, mà tiêm cùng lúc ở các vị trí khác nhau, với những liều quy định, vẫn tạo được
miễn dịch cùng lúc chống được mấy bệnh tương ứng với Vaccine được sử dụng, không
gây ra phản ứng ảnh hưởng đến sức khoẻ động vật.
Thí dụ: Trong các đợt tiêm phòng cho lợn, người ta vẫn cùng lúc tiêm 3 loại
Vaccine: là Vaccine dịch tả lợn nhược độc Vaccine tụ huyết trùng keo phèn và Vaccine
đóng dấu lợn (VR2). ở các trại gà công nghiệp có thể dùng cùng một lúc Vaccine
Niucatxon và Vaccine Gumboro cho đàn gà.
- Vaccine đa giá: có một số Vaccine được dùng theo phương pháp hỗn hợp cùng
lúc vài loại Vaccine phòng vài bệnh, được gọi là Vaccine đa giá. Cách sử dụng hoàn toàn
giống các Vaccine khác. thí dụ: Vaccine tụ dấu dùng cho lợn là hỗn hợp 2 loại Vaccine
7
nhược độc phòng bệnh đóng dấu và phòng bệnh tụ huyết trùng cho lợn. Vaccine
Tetradog (do hãng Rhôn -Pulenc) sản xuất phòng cùng lúc 4 bệnh ở chó: bệnh Carê, bệnh
viêm gan do Virus, bệnh viêm ruột do Virus Parvo và bệnh xoắn trùng Lepto do trộn 4
loại Vaccine với nhau.
- Vaccine đông khô: Vaccine Virus nhược độc thường được đông khô để tạo điều
kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và bảo quản. Trong cùng điều kiện bảo quản như
nhau, Vaccine đông khô có thể giữ được lâu hơn Vaccine dạng tươi không đông
khô. Tuy nhiên, khi vận chuyển hoặc bảo quản vẫn phải giữ Vaccine đông khô ở nhiệt
độ từ 4
0

C đến 10
0
C. Không được để Vaxcin đông khô trong nhiệt độ thường.
Khi sử dụng phải pha Vaccine với nước cất vô trùng ở nhiệt độ thường, nước cất
phải trung tính, (pH:7 - 7,2) theo đúng liều lượng quy định cho mỗi Vaccine.
- Bảo quản Vaccine: phải trong các điều kiện quy định, là điều đặc biệt quan trọng
quyết định chất lượng và hiệu lực của Vaccine. Các điều kiện bảo quản chủ yếu:
+ Để trong tủ lạnh hay phòng lạnh với nhiệt độ: +4
0
C đến 10
0
C. Trong điều kiện
đó giữ được Vaccine đến hạn dùng được ghi trong nhãn của lọ hoặc ống Vaccine. Nếu
không bảo quản như vậy hạn dùng Vaccine sẽ rút ngắn hoặc mất hiệu lực ngay.
+ Không được để Vaccine ở chỗ nóng, có ánh sáng mặt trời, vì như vậy, Vaccine
sẽ mất hiệu lực. Vaccine đã rút từ lọ ra, đã được pha với nước cất không được cầm lâu
trong tay và chỉ còn hạn sử dụng không quá 1 - 2 giờ nghĩa là phải dùng ngay.
+ Không được giữ Vaccine ở độ lạnh âm, vì độ lạnh âm sẽ ảnh hưởng không tốt
đến chất lượng Vaccine, đặc biệt với nút cao su, làm cho không khí và ẩm độ thấm vào
các lọ Vaccine đông khô.
+ Không được dùng Vaccine đã quá hạn ghi trên nhãn mặc dù Vaccine có thể vẫn
được bảo quản tốt
- Kiểm tra lọ Vaccine: trước khi sử dụng bất cứ lọ Vaccine nào cũng phải kiểm tra
vật lý; màu sắc, độ trong hay đục, tuỳ theo loại Vaccine. Trước khi xuất xưởng, Vaccine
đã được kiểm tra vật lý, an toàn và hiệu lực. Nhưng quá trình vận chuyển, bảo quản tại
địa phương có thể có những thay đổi ảnh hưởng đến tính chất, độ an toàn và hiệu lực của
Vaccine. Thí dụ: do để Vaccine ở chỗ nóng và ẩm, nấm và vi sinh vật có hại sẽ mọc ở
bên ngoài nút cao su và lan vào trong lọ, gây ra những sợi nấm. Vaccine như vậy phải
huỷ bỏ.
Những chi tiết cần xác định cho từng lọ Vaccine phải ghi trên nhãn của lọ:

- Tên Vaccine có đúng với nhu cầu không.
- Số lô số liều liều sử dụng.
- Ngày sản xuất, số kiểm nghiệm xuất xưởng.
- Thời hạn sử dụng, quy cách bảo quản.
Những chi tiết này cần ghi vào sổ trước khi sử dụng để dễ tra cứu nếu như khi sử
dụng có sự cố. Cũng nên đánh số lọ để biết thuốc nào cần sử dụng cho động vật nào của
ai, ở đâu?
8
Những hư hỏng trong lọ Vaccine cần biết để loại trừ:
- Nút: chặt hay lỏng, nguyên vẹn hay bị rách, tình trạng lớp sáp phủ ngoài.
- Lọ thuỷ tinh có bị rạn nứt không.
- Tình trạng thuốc trong lọ: màu có bình thường không, Vaccine có bị vẩn hay bị vón
không, có vật lạ trong lọ thuốc (bụi than, côn trùng, sợi bông ), khi lắc lọ thuốc có thành
một dung dịch đồng nhất hay vẫn chia làm 2 lớp (nếu Vaccine nhũ hoá hoặc keo phèn
vẫn chia 2 lớp khi lắc là Vaccine đã hỏng, không dùng được). Khi kiểm tra thấy lọ thuốc
đã thay đổi so với bình thường thì phải loại bỏ, tuyệt đối không sử dụng.
- Thao tác và sử dụng Vaccine: Khi pha các loại Vaccine phải có dụng cụ: ống tiêm, kim,
lọ thuỷ tinh và nước cất đều đã tiệt trùng. Dụng cụ khi hấp hoặc luộc tiệt trùng phải để
nguội mới dùng. Trước khi pha thuốc, và dùng thuốc tay người cũng phải tiệt trùng bằng
cồn 70
0
. Nút cao su của lọ thuốc cũng phải sát trùng trườc khi đâm kim qua. Vị trí tiêm
trên thân động vật cũng phải sát trùng bằng cồn 70
0
. Đảm bảo tốt ít vô trùng không
những được nhiễm trùng nơi tiêm mà còn tạo được phản ứng miễn dịch cho động vật
được tốt.
Cần chú ý:
Đối với Vaccine sống, các dụng cụ để pha thuốc và dùng thuốc đều phải để nguội, không
được rửa bằng thuốc sát trùng: Khi dùng xong, dụng cụ phải tiệt trùng bằng đun nước sôi,

rồi rửa bằng nước sạch (đun sôi để nguội).
Đường cho thuốc vào cơ thể động vật mỗi loại Vaccine có quy định về đường cho
Vaccine và liều dùng nghiêm ngặt, đòi hỏi người sử dụng phải tuân thủ.
Các đường cho thuốc chủ yếu:
- Cho uống Vaccine hoặc nhỏ mắt mũi như: Vaccine Laxôta phòng bệnh Niucatxon cho
gà, gumbro…
- Tiêm dưới da như: Vaccine Niucatxon hệ I, Vaccine dịch tả vịt, Vaccine tụ huyết trùng
keo phèn.
- Tiêm sâu vào bắp thịt như: Vaccine nhũ hoá phòng bệnh tụ huyết trùng trâu bò.
9

×