Chương. 1.
Phần mở đầu
1.1 Đặt vấn đề
Ngày nay, thông tin là một công cụ rất quan trọng trong sản xuất kinh doanh.
Internet là phương tiện truyền tin nhanh với chi phí thấp hơn nhiều lần các
phương tiện truyền thơng cổ điển. Trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của
Internet, thương mại điện tử trở nên một phương thức kinh doanh mới với hiệu
quả cao nhờ các ưu điểm nổi bật của nó.
Cho đến giờ, các hãng lớn vẫn sử dụng thương mại điện tử để thực hiện các
giao dịch doanh nghiệp-doanh nghiệp của họ. Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
trên các mạng tư nhân đã bắt đầu từ những năm 1960, và hầu như cũng từ đó
các ngân hàng vẫn đang sử dụng một số mạng chuyên dùng cho việc chuyển
tiền điện tử (EFT). Gần đây, tuy nhiên với sự tăng trưởng mạnh mẽ và tính phổ
dụng của Internet, thương mại điện tử đã đi đến tới từng người tiêu dùng cũng
như các giới kinh doanh với tất cả các qui mơ khác nhau. Internet đã thay đổi
hồn tồn phương thức mà rất nhiều cơng ty thực hiện cơng việc kinh doanh
của họ. Do sự ảnh hưởng đó ngày càng mạnh, và ngày càng nhiều công ty sử
dụng Internet, những khả năng để thực hiện công việc thương mại doanh
nghiệp-doanh nghiệp trên Internet sẽ mở rộng vô cùng và trở nên một phần
thiết yếu của quá trình kinh doanh.
Thương mại điện tử xây dựng trên các ưu thế và cấu trúc của thương mại cổ
điển bằng cách thêm vào những khả năng linh hoạt của các mạng điện tử. Nhờ
việc điều khiển các thông tin ở dạng số trong các mạng điện tử, thương mại
điện tử đem lại cùng với nó những cơ hội để thực hiện các hoạt động thương
mại. Ví dụ, nhờ có sử dụng thơng tin ở dạng số cho các hoạt động thương mại,
thương mại điện tử làm cho những nhóm khác nhau có thể hợp tác được dễ
dàng hơn. Các nhóm có thể là các phịng/ban chia xe thơng tin trong một cơng
ty để lập kế hoạch cho một chiến dịch quảng cáo, các công ty làm việc cùng
với nhau để thiết kế và xây dựng các sản phẩm mới hoặc các dịch vụ mới hoặc
là các doanh nghiệp chia xẻ thông tin với các khách hàng của họ để cải thiện
mối quan hệ với khách hàng.
Thực hiện các hoạt động kinh doanh qua các mạng điện tử cũng loại bỏ được
những hạn chế mang tính chất vật chất. Ví dụ các hệ thống máy tính trên
Internet có thể được thiết lập để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ khách hàng 24
tiếng đồng hồ trong 1 ngày, 7 ngày trong 1 tuần. Các đơn đặt hàng cho sản
phẩm và dịch vụ của bạn cũng có thể được chấp nhận về cơ bản là bất kỳ lúc
nào và ở đâu.
Trang 1/32
1.2 Mục tiêu môn học
Môn học THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ giúp cho học viên có một số kiến thức cơ bản
về Internet, các dịch vụ của Internet, ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML,
thương mại điện tử và các phương pháp khai thác thông tin trên Internet.
1.3 Xu hướng tồn cầu hố và vai trị của xã hội thơng tin
Chúng ta thực sự đang ở trong một xã hội thông tin. Hơn bao giờ hết, việc
chuyển một lượng thông tin khổng lồ với tốc độ nhanh trên một khoảng cách
rất xa là một nhu cầu cấp thiết. Từ một thương gia nhỏ cho đến các hãng lớn
càng ngày càng nhiều người phát hiện ra rằng chỉ có một cách duy nhất để
thành công trong thế kỷ này là nhận thức được những tiến bộ của công nghệ
thông tin và do đó họ cần phải tiến kịp bước. Cũng như vậy, các nhà nghiên
cứu từ tất cả mọi nơi trên thế giới đều nhận thấy rằng công việc của họ liên
quan mật thiết với môi trường được nối mạng. Việc truy nhập trực tiếp vào các
thư viện ảo với hàng triệu đầu sách và hàng ngàn tài liệu cho phép họ thực
hiện các công việc tưởng chừng không thể thực hiện được. Các nhóm làm việc
có thể tiến hành các buổi họp mà không cần phải gặp mặt nhau … các khả
năng là vơ tận. Bạn có thể nói chuyện bình thường với một ai đó ở nửa bên kia
quả cầu, gửi một chuyện ngắn cho một nhóm bạn với một nút bấm, kiểm tra
xem các máy tính trong văn phịng của cơng ty mình nằm xa hàng ngàn dặm
có hoạt động không… mà không cần phải đi tới tận nơi… tất cả nhờ vào mạng
Internet.
Thương mại điện tử tạo ra một dạng mới của doanh nghiệp, và cũng là một
phương thức mới để kinh doanh. Ví dụ như : AMAZON.COM là một công ty bán
sách ở Seattle, Washington. Công ty này khơng hề có các kho hàng vật chất,
họ bán các cuốn sách của họ qua Internet, và liên kết với các hãng vận chuyển
trực tiếp với các nhà xuất bản do đó họ khơng cần phải duy trì một lượng hàng
tồn kho nào cả. Các công ty như là Kantara.net lại là một bước cao hơn. Do tất
cả các sản phẩm của họ (các gói phần mềm thương mại) là ở dạng điện tử, và
có thể được lưu trữ ở trên cùng một máy tính mà họ dùng để xử lý các đơn
hàng và các dịch vụ trên Internet, kho hàng của họ hoàn toàn là ở dạng số
hố. Một ví dụ khác là : AMP Inc. đang giới thiệu với các khách hàng của họ về
khả năng mua các đầu cắm điện và các bộ phận liên quan qua catalog trên
trang WEB, bỏ qua các loại đơn đặt hàng và xác định kiểm hàng trên cơ sở trao
đổi dữ liệu điện tử.
1.4 Bài thực hành số 1:
1. Lập danh sách lớp; Làm quen với IE
2. Tạo email account cho từng cá nhân -
Trang 2/32
Chương 2. Internet và nền kinh tế số hoá
1.5 Sơ lược về lịch sử của Internet
Internet ngày nay dựa trên cơ sở một hệ thống thương mại các mạng xương
sống (các đường dữ liệu tốc độ cao) mà trước đây đã được Bộ Quốc Phòng Mỹ
nghiên cứu trong những năm 1960. Cơ quan nghiên cứu các dự án quốc phòng
cao cấp (ARPA- The Advanced Research Projects Agency) đã tìm kiếm các công
nghệ truyền thông mà cho phép truyền thông liên tục thậm chí cả khi các
trung tâm điều khiển khơng hoạt động được. Điều này dẫn tới nghiên cứu các
công nghệ chuyển mạch gói. Tới năm 1977, hai giao thức chuyển mạch gói –
Giao thức điều khiển truyền thơng (TCP- Transmission Control Protocol) và
Giao thức Internet (IP- Internet Protocol) được phát minh và trở thành hai giao
thức cơ bản của Internet.
Chuyển mạch gói khác với chuyển mạch vịng là cơng nghệ vẫn được dùng
trong dịch vụ điện thoại. Một hệ thống chuyển mạch vòng mở một vòng trực
tiếp từ điểm tín hiệu gốc cho tới đích của nó. Ví dụ như một người gọi điện
thoại từ San Francisco đến New York nhận được một kết nối duy nhất qua
mạng lưới trong suốt cuộc gọi.
Trong hệ thống chuyển mạch gói, một thơng tin được tách ra thành nhiều
"gói". Mỗi gói được đặt địa chỉ khác nhau và được đặt ra lộ trình đi trên mạng
tới đích của nó và lại được ghép lại ngun vẹn. Các gói khơng tới được đích thì
tự động được gửi lại. Hệ thống chuyển mạch gói có khái niệm khá giống với
cơng việc dịch vụ bưu điện. Điều đó có nghĩa là mỗi bức thư hoặc bưu thiếp
được ghi địa chỉ riêng biệt và di chuyển từ điểm này qua điểm khác tới đích của
nó. Hai bưu thiếp được gửi từ một bưu điện ở San Francisco có thể đi các
đường khác nhau tới New York, nhưng khi chúng tới nơi, chúng được ghép lại
với bức thư kia và được chuyển đi. Mỗi gói giống như một bưu thiếp (trừ việc
một gói chỉ là một phần của thơng điệp và một bưu thiếp thường thì là một
thơng điệp hồn chỉnh) và mạng chuyển thơng tin giống như các điểm dừng
của chuyến thư trên đường. Trong một hệ thống chuyển mạch gói, các gói
được chuyển theo tuyến đường nên nó có thể được dẫn hướng để vượt qua các
điểm tắc hoặc bị lỗi trong mạng.
Một bước quan trọng trong cuộc cách mạng Internet là việc Trung tâm Khoa
học Quốc gia (NSF- National Science Foundation) thiết lập ra một số trung tâm
siêu máy tính quốc gia vào năm 1986. NSF lập quĩ để liên kết các siêu máy
tính và cho phép các mạng máy tính của khu vực và các trường đại học được
kết nối vào. Thêm nữa, để sử dụng mạng truy cập từ xa các siêu máy tính của
NSF, người ta đã phát triển các chương trình ứng dụng như là thư điện tử, giao
Trang 3/32
thức truyền tệp và các nhóm tin để thuận tiện hơn trong việc chia sẻ thông tin.
Liên kết của các trường đại học với mạng của NSF trước tiên để kết nối được
với các siêu máy tính chính là nguồn gốc của Internet ngày nay.
Sự phát triển của mạng cũng là sự mở rộng của Internet. Tuy nhiên chỉ khi có
sự phát triển của World Wide Web và sự ra đời của các trình duyệt web đồ hoạ
thì Internet mới bắt đầu thu hút những mối quan tâm của những người ở ngồi
cộng đồng giáo dục và chính phủ. Các giao thức World Wide Web để truyền các
siêu văn bản (một giao thức để tạo các liên kết động trong hoặc giữa các văn
bản) trên Internet bắt đầu được sử dụng vào năm 1989 ở Trung tâm Nghiên
cứu Particle Châu Âu ở Switzerland. Đầu những năm 1990, Trung tâm Quốc gia
về các ứng dụng siêu máy tính ở Trường đại học tổng hợp Illinois đã dùng
những giao thức này để phát triển một giao diện đồ hoạ "chỉ và bấm" gọi là
Mosaic. Mosaic – chương trình duyệt web đầu tiên đã giúp cho những người
bình thường sử dụng Internet dễ dàng hơn. Ngay sau những phát triển này,
Internet bắt đầu thời kỳ phát triển nhanh chóng và liên tục cho tới ngày nay.
Internet mang phạm vi quốc tế. Trong khi đó, Mỹ có cơ sở hạ tầng Internet
mạnh nhất, hầu hết các quốc gia đều có một vài kết nối. Cấp độ kết nối tuỳ
thuộc vào từng quốc gia, bắt đầu từ thư điện tử cho đến đầy đủ các dịch vụ
Internet. Nước Mỹ có số lượng máy chủ Internet nhiều nhất, tuy nhiên, tính
theo đầu người thì Phần lan, Ai sơ len và Đức lại có số lượng nhiều hơn. Tiếng
Anh là ngôn ngữ thống trị trên Internet và nó chiếm khoảng 47.5% số lượng
trang web trên tồn thế giới. />Hai nhân tố dùng để đo sự phát triển của Internet là số lượng máy chủ và tên
miền trên Internet. Một máy chủ là một máy tính nối với Internet và có một
địa chỉ IP (giao thức Internet) duy nhất. Một tên miền đại diện cho một bản ghi
trong hệ thống tên miền (Domain Name System), như là whitehouse.gov. Một
tên miền ở cấp độ cao nhất chỉ đến một phần cuối cùng của một địa chỉ
Internet như : com, gov, net, org, ...
Số lượng và sự phát triển của các máy chủ Internet và các tên miền cho chúng
ta một khái quát về qui mô tối thiểu và tỷ lệ tăng trưởng của nó. Số lượng máy
chủ Internet tăng từ 1,3 triệu máy vào tháng 1 năm 1993 cho đến 19,5 triệu
máy vào tháng 7 năm 1997. Cùng thời gian này, số lượng tên miền (đã đăng
ký với Hệ thống tên miền) cũng tăng từ 21.000 tới 1,3 triệu. (như bảng sau)
Bảng số 1: Máy chủ và tên miền đăng ký trên hệ thống tên miền
Thời gian
Máy chủ
Tên miền
Trang 4/32
Số lượng Tỷ
lệ Số
lượng Tỷ lệ tăng
(nghìn)
tăng (%)
(nghìn)
(%)
1-2001
109.574
560
35.746
2747
7-97
19.540
21
1.301
57
1-97
16.146
25
828
70
7-96
12.881
36
488
103
1-96
9.472
43
240
100
7-95
6.642
37
120
69
1-95
4.852
51
71
54
7-94
3.212
45
46
53
1-94
2.217
25
30
15
7-93
1.776
35
26
24
1-93
1.313
21
Nguồn : Network Wizard ()
Số lượng thống kê đăng ký tích luỹ đối với các tên miền cấp cao nhất (com, net
và org) cung cấp thêm các dấu hiệu rõ ràng cho sự tăng trưởng này. Network
Solutions báo cáo rằng số lượng đăng ký cho các tên miền loại này tăng từ
7.100 vào tháng 12 năm 1992 lên tới 1.5 triệu vào tháng 12 năm 1997
1.6 Nền kinh tế số hoá
Cuộc cách mạng công nghiệp bắt đầu năm 1712 với đầu máy hơi nước, và tiếp
theo đến năm 1831 người ta đã bắt đầu khai thác để sản xuất điện. Điều này
đã giúp tăng năng suất, thay thế lao động thủ công và lao động máy móc. Nó
cũng có nghĩa là nhà máy có thể đặt ở bất cứ chỗ nào, khơng nhất thiết là phải
đặt ở nơi có gió mạnh và có nguồn nước. Do nó địi hỏi phải có một mạng lưới
để truyền tải năng lượng, điện năng phải đợi tới 50 năm sau, năm 1882 mới có
một nhà máy sản xuất năng lượng đầu tiên ra đời. Và phải mất 50 năm nữa để
tới lúc mà 80% nhà máy và các gia đình trên tồn nước Mỹ được khai thác sử
dụng điện năng.
Trong khi đó, cuộc cách mạng số hố diễn ra nhanh hơn rất nhiều. Việc khai
thác truyền thông gần như tức thời và khả năng sử dụng những vi mạch để xử
lý là lưu trữ những khối lượng thông tin khổng lồ đã giúp cho nền kinh tế hiện
tại thay đổi hồn tồn.
Vào năm 1946, chiếc máy tính lập trình đầu tiên "the Electronic Numerical
Integrator and Computer (ENIAC)" cao 10 feet, trải rộng 150 feet, giá trị hàng
Trang 5/32
triệu đô la và thực hiện được tới 5000 phép tính trong một giây. 25 năm sau,
năm 1971, hãng Intel đã thu gọn một chiếc máy tính mạnh gấp 12 lần chiếc
ENIAC trên một con chip có kích thước 12mm với giá 200 đơ la.
Ngày nay, một chiếc máy tính cá nhân bình thường với bộ xử lý Pentium thực
hiện được hơn 400 triệu phép tính trong một giây. Với tốc độ phát triển như
thế này thì vào năm 2012, máy tính cá nhân có thể thực hiện được 100.000
triệu phép tính trong một giây.
Cuối năm 1980, các cuộc điện thoại chỉ thực hiện trên các dây cáp bằng đồng
có thể mang được chưa tới một trang giấy trong một giây. Ngày nay, một sợi
cáp quang mảnh như sợi tóc có thể chuyển một lượng thơng tin khổng lồ tương
đương với 90.000 quyển từ điển bách khoa trong một giây.
Một thế giới số hố nối mạng sử dụng cơng nghệ chuyển mạch gói kết hợp sức
mạnh của các cuộc cách mạng mới trong tính tốn và trong truyền thơng.
Internet sẽ nối sức mạnh tính tốn trên các bàn làm việc, trong các nhà máy
và trong các văn phịng trên tồn thế giới với một cơ sở hạ tầng truyền thông
tốc độ cao. Hơn 100 triệu người trên thế giới, những người mà 4 năm trước đây
chưa hề nghe đến Internet, ngày nay đã sử dụng nó để nghiên cứu, gửi thư
điện tử cho bạn bè, lấy thông tin về người cung cấp hàng và mua ô tô hoặc
mua sách.
Nhịp độ phát triển của Internet làm lu mờ tất cả các cơng nghệ đi trước nó.
Máy thu thanh phải mất 38 năm mới có được 50 triệu người nghe, vơ tuyến
mất 13 năm mới đạt được con số đó. Mười sáu năm sau khi chiếc máy tính cá
nhân ra đời, đã có 50 triệu người sử dụng. Internet đã vượt qua được cái
ngưỡng đó 4 năm sau khi ra đời.
Trong những năm gần đây, ngành công nghệ thông tin đã phát triển với tốc độ
nhanh như vũ bão. Khả năng tính tốn của máy vi tính cứ khoảng 18 tháng lại
tăng gấp đôi trong suốt 30 năm qua. Cùng thời gian đó, giá trung bình của một
transitor giảm xuống rất nhanh. Chỉ trong 6 năm, giá của bộ xử lý giảm từ 230
đô la Mỹ xuống 3.42 đô la trên một triệu lệnh trên một giây (MIPS- Million
Instructions Per Second). Không có bất cứ một mặt hàng nào có thể giảm giá
vừa nhanh vừa nhiều như vậy ...
Trong những năm 1960, các doanh nghiệp chi cho công nghệ thông tin chỉ
khoảng 3 phần trăm trong tổng số tiền đầu tư cho các thiết bị của doanh
nghiệp. Tới năm 1996, đầu tư cho công nghệ thông tin đã chiếm tới 45%. Đối
với một số ngành công nghiệp như là truyền thông, bảo hiểm và đầu tư chứng
khoán, các thiết bị tin học chiếm trên 3/4 tổng số vốn đầu tư. Sự ảnh hưởng
của công nghệ thông tin cũng phản ánh trong các công ty kinh doanh công
Trang 6/32
nghệ thơng tin điển hình : Microsoft, Intel, Compaq, Dell and Cisco. Những
cơng ty này đã có tổng giá trị lên tới 588 tỷ đô la Mỹ trong khi năm 1987 con
số này mới chỉ có 12 tỷ đơ la, tăng gần năm mươi lần trong mười năm.
Tuy vậy nhưng cuộc cách mạng số hoá chỉ mới bắt đầu. Trong những năm tới,
khơng chỉ có ngành cơng nghệ thơng tin sẽ phát triển mạnh mà tất cả các
ngành kinh tế khác cũng sẽ lớn mạnh khơng ngừng nhờ có số lượng người kết
nối với Internet tăng lên gấp bội và khả năng thương mại của nó phát triển rất
mạnh. Sự phát triển sẽ có xu hướng theo bốn hình thái hoạt động của nền kinh
tế :
Phát triển Internet : Trong năm 1994, có 3 triệu người, hầu hết là ở Mỹ sử
dụng Internet. Đến năm 1998, 100 triệu người trên toàn thế giới sử dụng
Internet. Một số chuyên gia cho rằng vào năm 2005 sẽ có khoảng 1 tỷ người
kết nối với Internet. Sự phát triển này dẫn đến sự tăng đột ngột về đầu tư máy
tính, phần mềm, dịch vụ và truyền thông.
Thương mại điện tử trong các doanh nghiệp : Các doanh nghiệp đã bắt
đầu sử dụng Internet để giao dịch thương mại với các bạn hàng từ hai năm
trước. Những người sử dụng sớm các giao dịch như thế này đã cho thấy sự
phát triển sâu sắc trong việc sử dụng mạng lưới điện tử để tạo ra, mua, phân
phối, bán và cung cấp các sản phẩm và các dịch vụ. Tới năm 2002, các giao
dịch trên Internet có thể mang giá trị tới trên 300 tỷ đơ la Mỹ.
Phân phối hàng hố và dịch vụ theo kiểu số hoá : Các phần mềm, báo và
đĩa CD âm nhạc rồi sẽ khơng cần thiết phải được đóng gói và phân phối tới các
kho hàng, các kiot bán hàng hoặc ở nhà nữa. Người ta có thể phân phối các
sản phẩm này qua Internet. Các vé máy bay và các giao dịch được bảo mật đã
được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Các ngành công nghiệp khác như dịch vụ
tư vấn, giải trí, ngân hàng và bảo hiểm, giáo dục và y tế có gặp một số khó
khăn nhưng cũng đang bắt đầu sử dụng Internet để thay đổi phương thức kinh
doanh của họ. Rồi đây, việc bán hàng và phân phối hàng hoá và dịch vụ mang
tính điện tử sẽ là phương thức chính và hiển nhiên trong nền kinh tế số hoá
mới.
Bán lẻ các loại hàng hố hữu hình : Internet cũng có thể sử dụng để đặt
mua các loại hàng hố hữu hình và các dịch vụ chính là các cơng đoạn sản
xuất, lưu trữ và phân phối các hàng hố đó. Mặc dù doanh số bán lẻ qua
Internet giờ đây mới chỉ chiếm ít hơn 1% của tổng doanh thu bán lẻ nhưng
việc bán các sản phẩm như máy tính, phần mềm, ơ tô, sách và hoa tươi cũng
đang phát triển rất nhanh chóng.
Trang 7/32
Tài liệu tham khảo
[1].
Chỉ thị số 58-CT/TW, ngày 17 tháng 10 năm 2000 của Bộ Chính trị Trung
ương Đảng về "Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố"
[2].
J. Becker - Đặng Ngọc Dinh, Internet ở Việt Nam và các nước đang phát
triển, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội -2000.
[3].
Nền kinh tế tri thức, Viện NCQLKT Trung ương, Hà Nội -2000.
[4].
Thương mại điện tử, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội -1999.
[5].
Thành công nhờ Internet, Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội - 2000.
[6].
Tri thức thông tin và phát triển, Viện thông tin KHXH-Trung tâm KHXH và
nhân văn Quốc gia, Hà Nội-2000.
[7].
/>
[8].
/>
[9].
[10]. />[11].
[12]. />[13].
[14]. />[15]. />[16].
[17]. />[18]. />[19]. />[20].
[21]. />[22].
[23].
[24].
[25].
[26]. />[27].
[28].
[29].
Trang 8/32
Chương. 3.
Các dịch vụ của Internet
3.1 Các khái niệm cơ bản về mạng
Tên miền
Nếu có ai đó hỏi địa chỉ nhà của bạn, họ có thể nghĩ ngay đến tên một dãy
phố, một khu chung cư, thành phố, bang, và cả mã bưu điện nữa. Đó chính là
những thơng tin mà bưu điện cần để chuyển thư đến cho bạn với một thời gian
hợp lý. Hơn nữa, các địa chỉ của máy tính cũng có cấu trúc rõ ràng. Hình thái
chung là:
Địa chỉ e-mail của một người trên một máy tính là:
Tên một máy tính là: somewhere.domain
Phần user thường dùng cho tên tài khoản của người sử dụng trên hệ thống.
Phần somewhere.domain nói cho bạn biết tên của một hệ thống hoặc một địa
điểm và tổ chức ấy là gì. Phần cuối của tên miền thường là một trong các
dạng:
com
là của một công ty hoặc một tổ chức thương mại như Compaq Computers
(compaq.com).
edu
là của một tổ chức giáo dục. ví dụ : New York University, named nyu.edu.
gov
là site của chính phủ; ví dụ, site của NASA là nasa.gov.
mil
là site của quân đội, ví dụ như Air Force (af.mil).
net
là mạng lớn và các máy quản trị trên mạng
org
tên miền này dành cho các tổ chức cá nhân không thuộc các loại kể trên. Ví
dụ như site của Electronic Frontier Foundation là eff.org.
Mỗi quốc gia cũng đều có tên miền cấp cao nhất của mình. Ví dụ như, tn miền
us là bao gồm từng bang trong số 50 bang của nước Mỹ. Các quốc gia khác thể
hiện tên miền cấp cao nhất kèm theo tên miền chính là:
au
Úc
ca
Trang 9/32
Canada
fr
Pháp
vn
Việt Nam
Một địa chỉ phù hợp với các tên miền kể trên (somewhere.domain) được gọi là
Tên miền Hợp lệ Hoàn tồn - Fully Qualified Domain Name (FQDN). Nó thường
được dùng để phân biệt rõ ràng tên của tổ chức … Ví dụ như Trường đại học
Massachusetts Institute of Technology sẽ có FQDN là mit.edu; cũng như vậy,
tên miền của Apple Computer là apple.com…
Địa chỉ Internet
Là một con số 32-bit nhưng thường được thể hiện dưới dạng một bộ bốn nhóm
số nối với nhau bằng dấu chấm (.), như là 147.31.254.130 (có tới
2^32=4.294.967.296 địa chỉ). Mỗi phần của một địa chỉ Internet như 192 được
gọi là ``octet,'' đại diện cho một trong bốn bộ số 8-bit. Hai hoặc ba nhóm đầu
của địa chỉ này (ví dụ. 192.55.239) chỉ cho biết nơi mà hệ thống được kết nối,
gọi là subnet-mạng con. Ví dụ như, tất cả các máy của Wesleyan University
nằm trong mạng con có địa chỉ là 129.133. Họ có thể có các con số địa chỉ từ
129.133.10.10, 129.133.230.19, tức là tới 65 ngàn địa chỉ khác nhau.
Tên miền và số
Các máy tính trên mạng có thể được tìm thấy với hoặc là FQDN hoặc địa chỉ
Internet. Làm thế nào để có thể nhớ được tất cả các máy này. Thực tế là
Internet được thiết kế để người ta cịn có thể sử dụng phương pháp khác. Do
con người cảm thấy việc nhớ địa chỉ bằng chữ dễ hơn bằng số nên mỗi FQDN
được chỉ đến một địa chỉ Internet. Mỗi tên miền được một máy tính trong mạng
đó phục vụ, nó sẽ cung cấo tất cả các thơng tin để có thể chuyển từ một tên
miền sang một địa chỉ IP và ngược lại. Ví vụ như khi người ta nói đến một địa
chỉ
foosun.bar.com,
máy
tính
tên
miền
biết
nó
phải
hỏi
hệ
thống
foovax.bar.com về các hệ thống con nằm trong bar.com. Nó có thể tìm hiểu
xem
địa
chỉ
Internet
foosun.bar.com
có
thơng
tin
gì;
nếu
mà
tên
foosun.bar.com thực sự tồn tại, foovax sẽ được gửi trở lại với các con số IP của
nó. Và tất cả các điều này được thực hiện một cách lặng lẽ.
3.2 E-mail
Thư điện tử (e-mail) là một công cụ đơn giản để trao đổi tin tức giữa các cá
nhân hoặc một nhóm người. Email là một dịch vụ phổ biến nhất trong các dịch
vụ của Internet, nó chuyển các thơng điệp qua các mạng thơng tin. Các thông
Trang 10/32
điệp có thể là các lời nhắn do bạn gõ từ bàn phím hoặc các tệp tin lưu trên đĩa.
Hầu hết các máy chủ lớn, các máy chủ mini và các mạng máy tính đều có hệ
thống thư điện tử. Một số hệ thống thư điện tử chỉ hoạt động trên một máy
tính hoặc một mạng máy, nhưng số khác lại có các cổng nối với các hệ thống
máy tính khác, cho phép người sử dụng có thể gửi thư điện tử đi khắp nơi trên
thế giới. Các công ty đang trang bị máy tính đồng bộ khai thác thư điện tử rất
triệt để vì nó rất nhanh, linh hoạt và tin cậy.
Các thông điệp đã gửi đi được lưu trữ ở trong các hộp thư điện tử cho đến khi
người nhận đến lấy nó về. Để xem bạn có thư hay khơng, bạn có thể phải kiểm
tra hộp thư của bạn thường xuyên, mặc dù có nhiều hệ thống có thể sẽ báo
cho bạn biết nếu bạn có thư mới. Sau khi đọc thư, bạn có thể lưu nó vào một
file văn bản, gửi cho người khác hoặc xoá nó. Bạn cũng có thể in ra giấy nếu
thấy cần phải có một bản sao bằng giấy.
Tất cả các dịch vụ trực tuyến và các nhà cung cấp dịch vụ đều cung cấp dịch
vụ thư điện tử và hầu hết cũng có các cổng nên bạn có thể trao đổi thư điện tử
với người sử dụng trên hệ thống khác. Thường thì mất khoảng một vài giây cho
đến vài phút để thư có thể tới đích. Đây là hiệu quả đặc biệt được sử dụng để
trao đổi trong một nhóm vì bạn có thể gửi một thư đến tất cả mọi người trong
nhóm.
Trong những năm gần đây, việc sử dụng thư điện tử tăng vọt lên. Theo dự
tính thì có khoảng 25 triệu người sử dụng gửi đi 15 tỷ thông điệp mỗi năm.
Địa chỉ thư điện tử
Thư điện tử được nhắc đến như là một địa chỉ; địa chỉ thư điện tử của bạn cung
cấp to bộ các thông tin cần thiết để người ta có thể gửi thư cho bạn từ bất cứ
nơi nào trên thế giới.
Thư điện tử thơng thường có dạng chứa ký tự @. Ví dụ, dể gửi thư cho Jim
Morrison
trên
hệ
thống
south.america.org,
một
địa
chỉ
Một thư điện tử có cấu trúc nhất định
From Sat May 25 17:06:01 1991
Received: from hq.mil by house.gov with SMTP id AA21901
(4.1/SMI for ); Sat, 25 May 91 17:05:56 -0400
Date: Sat, 25 May 91 17:05:56 -0400
From: The President
Message-Id: <>
To:
Trang 11/32
có
thể
là
Subject: Meeting
Hi Dan .. we have a meeting at 9:30 a.m. with the Joint Chiefs. Please
don't oversleep this time.
Khi một địa chỉ thư điện tử không đúng theo một cách nào đó (tên hệ thống
sai, tên mi khơng tồn tại …), thì thư sẽ được chuyển lại cho người gửi, giống
như khi Bưu điện gửi trả lại thư cho bạn khi bạn đề sai địa chỉ lên phong bì thư.
Thơng điệp khi trả lại sẽ nói rõ ngun nhân khơng đến được đích; lỗi thường
gặp là địa chỉ thư gửi đến một tài khoản không tồn tại.
From: Mail Delivery Subsystem
Date: Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400
To:
Cc:
Subject: Returned mail: User unknown
----- Transcript of session follows ----While talking to cs.widener.edu:
>>> RCPT To:
<<< 550 ... User unknown
550 lsimpson... User unknown
----- Unsent message follows ----Received: by cs.widener.edu id AA06528; Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400
Date: Sat, 25 May 91 16:45:14 -0400
From: Matt Groening
Message-Id: <>
To:
Subject: Scripting your future episodes
Reply-To:
... verbiage ...
Trang 12/32
Toàn bộ nội dung bức thư nhận lại nguyên vẹn, kể cả các tên máy chủ mà thư
đã đi qua.
Danh sách địa chỉ - Mailing list
Khi muốn gửi một thư cho nhiều địa chỉ người ta thường sử dụng một mailing
list. Mailing list là một địa chỉ đại diện cho nhiều địa chỉ thư điện tử. Khi người
ta muốn gửi thư cho một nhóm người với cùng một nội dung thì chỉ cần điền
vào phần người nhận (To) tên của mailing list, máy chủ thư sẽ tự động nhân
bản thư điện tử này theo danh sách mailing list đã được lập.
3.3 WWW và ngôn ngữ HTML
Một hệ thống các máy chủ Internet hỗ trợ một loại văn bản với khuôn dạng đặc
biệt. Các văn bản ở khuôn dạng đặc biệt này gọi là HTML (HyperText Markup
Language) nó hỗ trợ các liên kết đến các văn bản, hình ảnh, âm thanh, các file
video khác. Có nghĩa là ta có thể "nhảy" từ văn bản này sang văn bản khác chỉ
với việc bấm chuột lên các đường dẫn. Không phải tất cả các máy chủ Internet
đều thuộc vào World Wide Web. Có một số chương trình ứng dụng gọi là Web
browsers giúp cho việc truy cập World Wide Web dễ dàng hơn; Hai trong số
các chương trình phổ dụng nhất là Netscape Navigator and Microsoft Internet
Explorer.
Nói một cách đơn giản, World Wide Web là một phương thức để chia sẻ tài
nguyên của nhiều người trong cùng một khoảng thời gian. Thậm chí ở các
khoảng cách rất xa trên thế giới.
Bắt nguồn từ một công cụ để nghiên cứu, trở nên một công cụ tuyệt vời không
thể lường trước được, với sự ra đời của Mosaic và các chương trình duyệt web
đồ hoạ, web trở nên một công cụ truyền tin cho lực lượng đơng đảo vơ cùng.
Các trang web có thể chứa thông tin dạng văn bản, tranh ảnh, âm thanh,
video, các liên kết FTP cho việc tải xuống các phần mềm và nhiều hơn nữa…
Bạn có thể tạo ra các văn bản sống động, có thể được cập nhật hàng tuần,
hàng ngày hoặc thậm chí hàng giờ giúp cho những người xem trang web thu
được các thông tin khác nhau mỗi khi họ đến xem các trang web của bạn.
URL
URL - Uniform Resource Locator, là một địa chỉ trên web mà bạn đã xem. Nếu
có ai đó đưa cho bạn một địa chỉ của trang web của họ, họ có thể nói là
www.k42.com. Hầu hết các chương trình web browsers u cầu bạn phải thêm
http:// vào phần trước của địa chỉ URL và nhờ đó chương trình hiểu là bạn
đang muốn tới một trang web. Do đó, bạn phải ra lệnh cho web browser của
mở địa chỉ để có thể xem được trang web mà bạn
Trang 13/32
cần. Ghi nhớ là bạn cũng cần phải kết nối tới các site FTP sử dụng chương trình
browser, do đó bạn phải ghi rõ ftp:// đối với các site FTP.
Cần phải luôn nhớ là không phải mọi người mở các trang web giống nhau. Một
số người sử dụng Netscape, Internet Explorer, Mosaic hoặc các chương trình
browsers khác hỗ trợ đồ hoạ. Một số khác lại chỉ sử dụng chương trình lynx, chỉ
hỗ trợ văn bản và khơng có đồ hoạ. Nhiều thành viên của các nhóm trên
Internet chỉ lấy các thông tin trên web qua thư điện tử. Tốc độ modem và loại
kết nối cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến cách nhìn trang WWW của bạn.
3.4 Bài thực hành số 3
Chương. 4.
Thương mại điện tử
4.1 Khái niệm
Thương mại điện tử (e-commerce) là một sự kết hợp giữa các cơng nghệ và
dịch vụ tạo điều kiện cho q trình tự động hoá của các giao dịch thương mại
và các thông tin liên quan trong một công ty và giữa cơng ty với khách hàng và
nhà cung cấp của mình. Nói một cách đơn giản hơn, thương mại điện tử là việc
sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại; nói chính xác hơn,
thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương
tiện cơng nghệ điện tử, mà nói chung khơng cần phải in ra giấy trong bất cứ
công đoạn nào của tồn bộ q trình giao dịch.
Thương mại điện tử mở ra các hoạt động hiệu quả cho kết quả trong những
khoảng thời gian ngắn hơn, cải thiện sự phản hồi với khách hàng và làm giảm
chi phí điều hành. Hầu hết các công ty đang đầu tư vào thương mại điện tử
ngày nay mong muốn một hệ thống có thể quản lý được dòng các giao dịch
thương mại nội tại và qua các kênh phân phối. Một kênh phân phối có thể bao
gồm các tổ chức bán hàng và marketing, các nhà sản xuất, các nhà thầu phụ,
các nhà cung cấp nguyên vật liệu, những người bán lẻ, các nhà sản xuất thiết
bị đầu tiên và những người tiêu dùng. Trong kênh phân phối cịn có các cơ
quan chính phủ để kiểm soát thuế quan và các nhu cầu an ninh, các công ty
bảo hiểm để bảo vệ hàng tồn kho, các công ty phân phối và hậu cần để vận
chuyển hàng hoá và cuối cùng là các ngân hàng để cho q trình thanh tốn.
4.2 Các loại hình thương mại điện tử
Thương mại điện tử được chia thành bốn loại khác nhau :
Doanh nghiệp
– Doanh nghiệp
Doanh nghiệp
– Người tiêu dùng
Doanh nghiệp
– Chính quyền
Trang 14/32
Người tiêu dùng – Chính quyền
Mối liên hệ giữa bốn loại hình thương mại điện tử được thể hiện trên hình sau :
d o a n h n g h iƯ p
c h Ýn h q u y Ị n
n g − ê i t iª u d ï n g
d o a n h n g h iƯ p
Hình số 1: Các loại hình thương mại điện tử
Một ví dụ về loại hình "Doanh nghiệp – Doanh nghiệp" có thể là một công ty sử
dụng một mạng để đặt hàng từ người cung cấp của họ, nhận các hoá đơn bán
hàng và thanh tốn tiền. Loại hình thương mại điện tử này đã được hình thành
khá thành cơng từ vài năm nay, đặc biệt là sử dụng hệ thống trao đổi thông tin
điện tử qua các mạng tư nhân hoặc mạng giá trị gia tăng.
Loại hình "Doanh nghiệp – Người tiêu dùng" là loại kinh doanh bán lẻ trên cơ
sở mạng thương mại điện tử rộng rãi. Loại này đã phát triển rộng khắp cùng
với sự phát triển của mạng lưới Internet tồn cầu. Giờ đây có rất nhiều "sạp"
hàng trên khắp mạng Internet bày bán đủ các loại hàng tiêu dùng, từ bánh qui
và rượu vang cho đến máy vi tính hay ơ tơ.
Loại hình " Doanh nghiệp – Chính quyền" bao gồm tất cả các giao dịch giữa các
cơng ty và các tổ chức Chính phủ. Ví dụ như ở Mỹ, những khoản sắp mua của
Chính phủ được thông báo rộng rãi trên Internet và các công ty có thể đáp lại
bằng điện tử. Hiện nay, loại hình này vẫn cịn chưa phát triển, nhưng nó sẽ có
thể phát triển rất nhanh do các Chính phủ dùng ảnh hưởng của mình để
khuyến khích sự phát triển và phổ cập thương mại điện tử.
Loại hình "Người tiêu dùng – Chính quyền" vẫn chưa được hình thành. Tuy
nhiên, tiếp sau sự phát triển của cả loại hình Kinh doanh – Người tiêu dùng và
Kinh doanh – Chính quyền, các chính phủ có thể mở rộng ảnh hưởng của điện
tử tới các khu vực như là các khoản thanh toán phúc lợi xã hội và các khoản
thu về thuế thu nhập tự khai.
4.3 Các đặc điểm của thương mại điện tử (t-5)
Các mạng thương mại điện tử quản lý sự trao đổi các giao dịch, nó quản lý các
đơn đặt hàng, thơng báo chuyển hàng, các hố đơn bán hàng và tất cả các tài
liệu cần thiết cho công việc kinh doanh. Trong thương mại điện tử, các giao
Trang 15/32
dịch chuyển đi giữa các ứng dụng 24 giờ một ngày, bảy ngày trong một tuần
tuỳ theo các sự việc hoặc các lịch hẹn trước. Việc trao đổi bằng điện tử các
giao dịch này khơng có sự can thiệp của con người, làm giảm thời gian hồn
thành mỗi q trình trong kênh phân phối và cuối cùng là làm giảm chu kỳ
tổng thể. Giảm chu kỳ tổng thể có nghĩa là ta có thể sản xuất thêm được mà
khơng làm tăng tổng chi phí.
4.4 Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử. (t-5)
Trong q trình giao dịch, có nhiều loại phương tiện kỹ thuật đã tham gia, bao
gồm:
Điện thoại
Điện thoại là một phương tiện phổ thông, tiện dụng và tham gia rất phổ biến
trong các giao dịch thương mại. Tuy nhiên, nó đã bộc lộ những hạn chế như :
chỉ truyền tải được âm thanh, chi phí giao dịch đường dài vẫn còn cao, kết thúc
của các giao dịch vẫn cần giấy tờ ...
Máy điện báo (Telex) và máy Fax.
Máy Fax đã thay thế hẳn các phương thức chuyển giấy tờ truyền thống. Ngày
nay, người ta đã chấp nhận các bản hợp đồng chuyển qua máy Fax. Nhưng
máy Fax lại khơng thể truyền tải được âm thanh, hình ảnh ba chiều, chi phí
chuyển Fax qua điện thoại đường dài cũng rất cao.
Truyền hình.
Truyền hình đóng vai trị khá quan trọng trong thương mại. Cụ thể là quảng
cáo hàng hố trên truyền hình đã thu hút rất nhiều người xem truyền hình và
sau đó trở thành người mua hàng. Tuy nhiên truyền hình lại là một phương
tiện kỹ thuật một chiều, qua truyền hình, khách hàng khơng thể tìm kiếm được
các sản phẩm mình cần, khơng thể liên hệ, giao dịch với người bán về các điều
khoản cụ thể.
Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử.
Thanh toán là một khâu quan trọng mang tính chất mấu chốt của quá trình
thương mại. Ngày nay, thanh tốn tiền qua các phương tiện kỹ thuật điện tử
đã trở nên rất phổ biến. Việc chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác
được thực hiện một cách tự động thông qua mạng lưới các ngân hàng. Máy rút
tiền tự động, thẻ tín dụng các loại, thẻ mua hàng, thẻ thông minh đang được
sử dụng rộng rãi ngày nay chính là các phương tiện thanh toán điện tử.
Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ.
Mạng nội bộ là tồn bộ các máy tính của một tổ chức được kết nối với nhau
thông qua một hệ thống dây cáp và các thiết bị điều khiển. Liên mạng nội bộ
Trang 16/32
chính là các mạng nội bộ ở xa nhau được nối với nhau qua đường điện thoại
hay một loại cáp đặc biệt. Thơng qua mạng, người ta cũng có thể thực hiện
được các giao dịch thương mại trực tuyến như trao đổi thơng tin về hàng hố,
giá cả, rao mua, rao bán...
Internet và Web.
Internet được gọi là mạng toàn cầu hay "mạng của các mạng". Các máy tính
nối vào mạng Internet có thể trao đổi với nhau dữ liệu, thư điện tử ... trên cơ
sở các tiêu chuẩn truyền dẫn dữ liệu trong mơi trường Internet. Đó chính là
giao thức tiêu chuẩn TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol)
do Bộ Quốc Phòng Mỹ khởi thảo và phát triển. Tất cả các máy tính hay mạng
LAN muốn kết nối với Internet phải tuân theo giao thức tiêu chuẩn TCP/IP. Sau
đó, người ta đã phát triển thêm giao thức chuẩn quốc tế HTTP (HyperText
Transfer Protocol). Giao thức này truyền các siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ
HTML (HyperText Markup Language) tạo ra thêm rất nhiều dịch vụ khác nhau,
trong đó dịch vụ World Wide Web gọi tắt là Web sử dụng các siêu liên kết văn
bản tham chiếu tới nhiều văn bản khác nhau, cho phép người ta tự động truy
nhập được nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, với nhiều loại hình thơng tin khác
nhau : văn bản, hình ảnh, âm thanh ... Chính nhờ có Internet và dịch vụ Web,
việc trao đổi thông tin, quảng cáo sản phẩm, kinh doanh ... trên Internet trở
nên dễ dàng hơn bao giờ hết đối với tất cả mọi người. Internet cũng chính là
nhân tố quan trọng giúp cho q trình tồn cầu hố trở nên hiện thực. Trên
Internet khơng hề có giới hạn về địa lý, tất cả mọi người đều bình đẳng. Đây
chính là điều kiện rất thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tự
vươn mình cao hơn, xa hơn với chi phí nhỏ nhất.
4.5 Các lợi ích của thương mại điện tử
•
Tăng hiệu suất cơng việc
•
Tiết kiệm chi phí
•
Các q trình kinh doanh hợp lý hon
•
Dịch vụ khách hàng tốt hon
•
Các cơ hội cho các doanh nghiệp mới
4.6 Các vấn đề liên quan trong việc sử dụng mạng thương mại điện tử
a) Các vấn đề về tài chính
Thuế quan và hệ thống thuế
Chính phủ các nước đều nhận thấy rằng việc giảm thuế quan đem lại lợi ích
cho nền kinh tế và cơng dân của các nước có mậu dịch tự do. Do đó, Internet
Trang 17/32
thực sự là một phương tiện tồn cầu, nó mang rất ít ý nghĩa đối với việc áp
dụng thuế quan với hàng hoá và dịch vụ phát ra trên Internet.
Hơn nữa, trên Internet khơng có các địa giới rõ ràng và cố định của việc di
chuyển hàng hoá, trong khi nó vẫn có thể quản lý các thuế quan đối với các
sản phẩm được đặt hàng trên Internet nhưng cuối cùng lại được phân phối trên
mặt đất hoặc qua đường hàng không. Trong tương lai, Internet được tuyên bố
là một mơi trường phi thuế quan khi mà nó được sử dụng để phân phối sản
phẩm hoặc dịch vụ. Nguyên tắc này có thể được thiết lập nhanh chóng trước
khi các nước đánh các khoản thuế quan và trước khi các hình thái quyền lợi
được bảo đảm để bảo vệ các khoản thuế quan đó.
Thanh tốn điện tử
Khoa học cơng nghệ mới đã làm cho Internet có khả năng thanh tốn tiền
hàng và các dịch vụ qua mạng toàn cầu. Một số phương pháp có thể kết nối
với hệ thống ngân hàng và thanh toán điện tử hiện tại, kể cả hệ thống thẻ tín
dụng ... với các giao diện mới trên Internet.
Các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển như nước ta thường gặp bất lợi là
tình trạng viễn thơng khó khăn và phải chịu cước phí viễn thơng quá cao. Tỷ lệ
điện thoại cho đầu người thấp. Thâm nhập tới các mạng thơng tin truyền thống
rất khó và giá cao quá không kham nổi. Ngay thâm nhập vào Internet, một
phương tiện rẻ gần như cho không ở các nước phát triển, thì chi phí cũng vẫn
cao. Sự thiếu hụt khả năng thâm nhập dễ dàng với giá phải chăng vào các
mạng thông tin điện tử này là một chướng ngại to lớn đối với các doanh nghiệp
cần thông tin nhanh và chính xác về thị trường và về cơ hội kinh doanh.
Các vấn đề về pháp luật
i. "Luật thương mại thống nhất" cho thương mại điện tử
Nhìn chung, các bên đối tác đều có thể tiến hành kinh doanh với nhau qua
Internet với các điều kiện thoả thuận. Các bên tham gia thị trường cần phải
đưa ra các điều luật để chi phối thương mại điện tử.
Sau đây là một số nguyên tắc có thể làm cơ sở cho các dự thảo bộ luật sẽ chi
phối mạng thương mại điện tử toàn cầu :
Trang 18/32
Hình số 5 : Các nguyên tắc làm cơ sở cho bộ luật về thương mại điện tử
ii. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Về quyền sở hữu trí tuệ
Thương mại trên Internet sẽ thường liên quan tới việc bán hàng và cấp phép
cho các quyền sở hữu trí tuệ. Để khuyến khích q trình này, người bán phải
biết rằng quyền sở hữu trí tuệ của họ sẽ khơng bị đánh cắp và người mua cũng
phải biết rằng họ đang giữ các sản phẩm xác thực. Các thoả thuận quốc tế xác
nhận bản quyền tác giả, bằng sáng chế và bảo vệ nhãn hiệu thương mại là rõ
ràng và có hiệu lực do đó cần được bảo vệ tránh khỏi gian lận và sao chụp bất
hợp pháp.
Về quyền tác giả
Có một số hiệp ước xác định các qui tắc quốc tế về việc bảo vệ bản quyền tác
giả, các hiệp ước này liên kết gần như tất cả các nước thương mại chính và
cung cấp cho họ các cơng cụ để bảo vệ theo luật pháp của họ đối với mỗi bản
quyền tác phẩm và các băng ghi âm.
Bằng sáng chế
Sự phát triển của cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu phụ thuộc vào cuộc cách
mạng trong các lĩnh vực của cơng nghệ như phần mềm máy tính, phần cứng
và viễn thông. Một hệ thống sáng chế chức năng hiệu quả khuyến khích và bảo
vệ các cuộc cách mạng sáng chế trong các lĩnh vực này là rất quan trọng cho
sự thành cơng tồn diện của thương mại qua Internet.
Nhãn hiệu thương mại và các tên vùng
Các quyền về nhãn hiệu thương mại có phạm vi quốc gia và có thể có xung đột
khi xuất hiện các nhãn hiệu thương mại giống nhau cho cùng một loại hàng
hoặc dịch vụ thuộc về các bên đối tác khác nhau ở các đất nước khác nhau.
Các nước cũng có thể áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau để xác định sự vi
phạm nhãn hiệu.
Sự xung đột xuất hiện trên cơ sở hạ tầng thơng tin tồn cầu, nơi mà các bên
thứ ba đã đăng ký các tên vùng Internet giống hoặc tương tự như là nhãn hiệu
Trang 19/32
thương mại đã đăng ký theo luật pháp. Một tên vùng Internet đóng vai trị như
là một điểm để nhận biết trên Internet. Thơng thường thì các điểm nhận biết
như các địa chỉ không được bảo vệ về mặt bản quyền sở hữu trí tuệ.
iii. Sự bí mật
Các nguyên tắc về sự bí mật chỉ ra ba giá trị để có thể chi phối cách thu thập,
đưa ra và sử dụng trực tuyến các thông tin cá nhân là : thơng tin bí mật, thơng
tin ngun trạng và thơng tin chất lượng. Trước hết, sự mong đợi hợp lý của
một cá nhân về các bí mật liên quan tới việc truy nhập để sử dụng thông tin cá
nhân của anh ta cần phải được đảm bảo. Thứ hai, các thông tin cá nhân không
được thay đổi hoặc huỷ bỏ tuỳ tiện. Và thứ ba là các thông tin cá nhân cần
phải đảm bảo chính xác, đúng lúc, trọn vẹn và xác đáng cho các mục đích cung
cấp và sử dụng chúng. Theo các nguyên tắc này, người tiêu dùng có quyền
được bồi thường nếu họ bị thiệt hại do việc sử dụng tuỳ tiện các thông tin cá
nhân của họ hoặc khi mà các quyết định được đưa ra trên cơ sở các thơng tin
cá nhân khơng chính xác, q hạn, khơng trọn vẹn và khơng xác đáng.
iv. An tồn thơng tin
Cơ sở hạ tầng thơng tin tồn cầu cần phải được đảm bảo và đáng tin cậy. Nếu
những người dùng Internet khơng tin tưởng rằng các q trình truyền thông và
dữ liệu của họ không bị truy nhập hoặc sửa đổi trái phép, họ sẽ có thể khơng
sử dụng Internet làm cơng cụ cho q trình thương mại.
Các vấn đề về gia nhập thị trường
v. Cơ sở hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin
Thương mại điện tử tồn cầu phụ thuộc vào một mạng lưới viễn thơng tồn cầu
hiện đại và liên tục và các máy tính và các cơng cụ thơng tin kết nối với nó.
Đáng tiếc là ở nhiều quốc gia, các chính sách về viễn thông đang ngăn cản sự
phát triển của các mạng lưới số hoá tiên tiến. Các khách hàng thấy rằng các
dịch vụ viễn thông thường là quá đắt, hạn chế về đường truyền và các dịch vụ
thì khơng đầy đủ và không đáng tin cậy. Cũng như vậy, ở nhiều nước vẫn cịn
duy trì các rào chắn thương mại để nhập khẩu cơng nghệ thơng tin, gây khó
khăn cho cả người buôn bán và các khách hàng mua các máy tính và mạng mà
họ cần thiết để tham gia vào thương mại điện tử. Thị trường mở thực sự sẽ dẫn
tới tăng cạnh tranh, cải thiện cơ sở hạ tầng viễn thơng, khách hàng có nhiều
lựa chọn hơn, giá giảm và tăng cường đồng thời cải thiện các dịch vụ. Hơn nữa,
các nước có mức độ phát triển cơ sở hạ tầng viễn thơng khác nhau có thể ngăn
cản q trình tồn cầu hố và việc sử dụng một số dịch vụ của Internet.
vi. Nội dung
Có bốn điểm cần ưu tiêu:
Trang 20/32
Qui định về nội dung : Các công ty mong muốn kinh doanh qua Internet và
cung cấp dịch vụ truy nhập Internet quan tâm tới trách nhiệm pháp lý trên cơ
sở các chính sách khác nhau của mỗi đất nước mà thơng tin của họ có thể đưa
tới.
Nội dung của các phần nước ngoài : Một số nước hiện đang yêu cầu một tỷ lệ
nhất định về thời gian truyền tin dành cho các nội dung thực hiện trong nước.
Các quốc gia cũng quyết định điều chỉnh nội dung của Internet và đưa ra các
hạn chế dưới áp lực của Chính phủ hơn là dưới các kết cấu điều hồ phát tin.
Qui định về quảng cáo : Quảng cáo cho phép các phương tiện tương tác đưa ra
nhiều hơn các sản phẩm và dịch vụ với giá cả chấp nhận được cho một lượng
thính giả tồn cầu rộng rãi hơn.
Qui định về việc chống gian lận : Để nhận thấy được tiềm năng thương mại và
văn hoá của Internet, những người sử dụng phải tin tưởng rằng các dịch vụ và
hàng hoá chào mời là khá tiêu biểu, rằng họ sẽ nhận được cái mà họ đã trả
tiền, và rằng nếu khơng phải như vậy thì họ sẽ có chỗ trông cậy vào hoặc được
đền bù.
vii. Các tiêu chuẩn kỹ thuật :
Các tiêu chuẩn chính là yếu tố cản trở sự thành cơng về mặt lâu dài của
Internet vì chúng cho phép hoà trộn các sản phẩm và dịch vụ của các nhà cung
cấp khác nhau. Chúng cũng khuyến khích sự cạnh tranh và làm giảm tính chắc
chắn trong thị trường toàn cầu. Để đảm bảo cho sự phát triển của thương mại
điện tử toàn cầu trên Internet, các tiêu chuẩn cần phải chắc chắn về độ tin
cậy, khả năng điều khiển, dễ sử dụng và phù hợp với các qui mơ khác nhau
trong các lĩnh vực :
•
Thanh tốn điện tử
•
Bảo mật (tính tin cậy, độ chắc chắn, bảo tồn dữ liệu, điều khiển truy cập)
•
Bảo mật của các dịch vụ cơ sở hạ tầng
•
Hệ thống quản lý bản quyền điện tử
•
Cơng nghệ mạng tốc độ cao
•
Các đối tượng số và chuyển đổi dữ liệu
Chương. 5.
Thương mại điện tử
5.8 Những ưu điểm của thương mại điện tử
Sự lớn mạnh nhanh chóng của thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp thực
hiện được là nhờ : chi phí mua thấp hơn, giảm tồn kho, chu kỳ kinh doanh
Trang 21/32
ngắn hơn, dịch vụ khách hàng có hiệu quả hơn, chi phí bán hàng và chi phí tiếp
thị giảm, cơ hội bán hàng phong phú hơn.
Chi phí mua hàng thấp hơn :
Việc mua các vật tư hoặc dịch vụ ở một hãng có thể là một q trình có nhiều
thủ tục và tốn kém. Các cơng ty giảm chi phí mua hàng bằng cách hợp nhất
quá trình mua và tăng cường mối quan hệ với các nhà cung cấp để có thể
hưởng lợi nhờ giảm giá khi mua nhiều và kiểm tra sát sao quá trình sản xuất.
Họ tìm kiếm các nguồn cung cấp với giá rẻ, họ sử dụng trao đổi dữ liệu điện tử
qua các mạng riêng để giảm các chi phí nhân lực, in ấn và thư tín.
Internet có một khả năng tiềm tàng để giảm hơn nữa các chi phí mua hàng
bằng cách tự động hố các nghiệp vụ mà trước kia phải làm thủ công. Nó mở
ra cánh cửa để kinh doanh bằng điện tử cho các nhà cung cấp mới và cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp mà trước đó chỉ dùng các công
cụ truyền thống là máy fax và điện thoại trong giao tiếp kinh doanh. Những
khả năng giao tiếp thời gian thực và phạm vi toàn cầu đang dẫn tới sự ra đời
một thị trường trực tuyến cho các vật tư sản xuất và không sản xuất.
Các doanh nghiệp ở Mỹ đã chi khoảng 250 tỷ đôla mỗi năm cho các loại vật tư,
dịch vụ và không dùng đến trong q trình sản xuất. Việc mua các văn phịng
phẩm, thiết bị máy tính, các phụ tùng thay thế dành cho bảo trì, sửa chữa và
hoạt động của các thiết bị và một q trình thủ cơng điển hình và có thể là rất
tốn kém và kém hiệu quả.
Wiznet Purchasing Extranet kết nối những người mua từ trên 50.0000 catalo
công nghiệp của các nhà sản xuất, 5 triệu bản dữ liệu và các đặc điểm kỹ thuật
của sản phẩm từ 30.000 nhà cung cấp. Mỗi tuần, hệ thống Purchasing Extranet
tạo ra tới trên 130.000 yêu cầu thông tin sản phẩm và trên 14.000 thư điện tử
trao đổi giữa các nhà cung cấp và các nhà chun mơn tìm kiếm nguồn hàng.
Vào mùa thu năm 1997, ChemConnect Trading Exchange đã có trên 1500 nhà
sản xuất, nhà phân phối và thương gia sử dụng các dịch vụ của mình để quảng
cáo bán hố chất, thơng báo u cầu đặt giá và bán hàng ế, hoá chất kém
phẩm chất và các sản phẩm phụ. Trong tháng 9 năm 1997, các cuộc đấu giá
trên "Chemicals Wanted" có tổng giá trị lên đến 320 triệu đơ la
Giảm tồn kho
Đưa ra những dự báo chính xác hơn về những gì bán được và khơng bán được
có thể làm tăng vòng quay của hàng trong kho và giữ đúng loại hàng trong
kho. Internet và các mạng riêng có thể được sử dụng để đảm bảo rằng thơng
tin được mang lại cho người cần nó và đúng lúc người ta cần nó.
Trang 22/32
Khoảng 2 năm trước, công nghiệp hàng không mới bắt đầu chuyển các phụ
tùng thay thế trong kho chứa của họ trở lại cho các nhà cung cấp. Hãng Boeing
đã thấy lượng đặt hàng tăng rất nhanh, mà hầu hết là cho các đơn hàng "ưu
tiên" hoặc "gấp". (Các đơn hàng ưu tiên càng kéo dài thì các máy bay có thể bị
mắc cạn lâu hơn). Boeing phản ứng lại bằng cách đưa lượng tồn kho gần hơn
tới những khách hàng của mình, lưu hàng trong kho trên cơ sở những nhu cầu
của khách hàng từ trước đến giờ. Nó cũng giảm thời gian phản hồi đối với các
đơn hàng từ 10 ngày xuống cịn ngày hơm sau và từ trong ngày xuống còn 2
giờ đối với các đơn hàng ưu tiên.
Kinh nghiệm cho thấy lượng tồn kho hợp lý là chuyển hàng khi các cơng ty
hàng khơng cần nó nhất. Kết hợp giữa kinh nghiệm quá khứ với những thơng
tin tương tự trong tương lai có thể cịn có hiệu quả hơn trong việc đamr bảo
lượng tồn kho chính xác cho các phụ tùng cần thiết. Do việc tu sửa các máy
bay là khá thường xuyên nên rất nhiều nhu cầu tương lai có thể tiên liệu được,
nhưng các thơng tin đó nhất thiết phải được trao đổi giữa các công ty hàng
không và các nhà cung cấp.
Hãng Boeing hình dung ra một hệ thống trong đó các hãng hàng không kết
hợp chặt chẽ các nhu cầu cho quá trình sửa chữa theo lịch và các hoạt động
theo lịch trực tiếp vào trong quá trình xử lý việc đặt hàng các phụ tùng thay
thế của họ. Ví dụ như nếu cần một phụ tùng, hệ thống trước tiên có thể kiểm
tra cơ sở dữ liệu trong kho và nếu tìm thấy thì ấn định phụ tùng đó cho đơn
hàng sau này. Nếu phụ tùng cần thiết khơng tìm thấy, một đơn hàng sản xuất
có thể được lập ra và gửi cho nhà cung cấp trong khoảng thời gian hợp lý.
Tất cả các liên hệ trong chuỗi sẽ được phục vụ tốt hơn - các hãng hàng khơng
có thể có các phụ tùng khi cần (và cũng có thể theo dõi tình trạng của các phụ
tùng mà họ đã đặt hàng), Boeing có thể lập kế hoạch tồn kho của họ tốt hơn
(hiện giờ, khoảng 50% các đơn hàng của Boeing là ở mức độ ưu tiên cao - nếu
không tìm thấy phụ tùng trong tồn kho của mình, hãng Boeing cần phải đặt
hàng ngay, đôi khi điều này cũng có nghĩa là chi phí sản xuất và vận chuyển
cao hơn ảnh hưởng bất lợi đến lợi nhuận của hãng Boeing, và các nhà cung cấp
của hãng Boeing cũng có lợi trong việc đáp lại ít hơn các đơn hàng gấp.
Để cho chiến lược này thành công, liên lạc từ hãng hàng không với nhà sản
xuất máy bay rồi với nhà cung cấp là rất quan trọng. Với những tiềm năng của
Internet có thể tiếp cận với các thành viên với chi phí thấp, nó có thể đóng một
vai trị quan trọng trong việc thực hiện thành công chiến lược này.
Trên 75% máy tính cá nhân được bán thơng qua nhà phân phối thứ ba. Nhưng
những hãng bán hàng trực tiếp rẻ tiền, cụ thể là Dell và Gateway, đang mở
Trang 23/32
rộng thị phần. Compaq, Hewlett-Packard, IBM và các đại lý của họ cũng đang
đẩy mạnh các phản hồi của họ và thương mại điện tử đóng một vai trị quan
trọng.
Chỉ mới ra đời vào giữa những năm 80, tới những năm 90, cả hai công ty Dell
và Gateway 2000 đã trở thành các công ty với thị giá nhiều tỷ đô la nhờ việc
bán hàng trực tiếp tới các doanh nghiệp và các cá nhân thông qua catalô, điện
thoại và gần đây là qua Internet. Thêm nữa, họ còn đưa ra mơ hình "sản xuất
theo đơn hàng" khác hẳn với mơ hình cổ truyền "sản xuất theo kế hoạch tồn
kho". Trong mơ hình sản xuất theo đơn hàng, một máy tính được sản xuất chỉ
sau khi có khách hàng đặt hàng mua. Do giá cả của các mạch tích hợp và các
bộ phận chính của máy tính giảm liên tục nhờ có các tiến bộ cơng nghệ mới,
việc trì hỗn đặt hàng các linh kiện này có thể giảm đáng kể giá thành chung
của sản phẩm. Nhờ có những sáng kiến này, Dell và Gateway có lợi thế hơn
hẳn về vòng quay hàng tồn kho so với đối thủ của họ.
Mấy năm vừa rồi, hãng Compaq, IBM và HP đã bắt đầu sửa đổi phương pháp
bán hàng và tồn kho của họ theo hướng giảm chi phí và cùng đó đưa ra nhiều
giá trị hơn cho các khách hàng cuối. Internet đóng vai trị rất quan trọng trong
chiến lược của họ. Nó được sử dụng để xác định, mua các linh kiện, liên kết các
nhà cung cấp vào mơ hình tồn kho tính theo phút và thiết kế hệ thống thông
tin, cộng tác với các nhà cung cấp-đại lý trên cơ sở các dự báo và các kế hoạch
sản xuất xác đáng và linh hoạt hơn.
Hậu cần có hiệu quả hơn
Việc đáp ứng một đơn hàng cho một sản phẩm và chuyển cho khách hàng
trong khoảng thời gian đã hen trước với một chi phí thấp nhất có thể chính là
mục tiêu của hoạt động logistics của một công ty. Trong một số trường hợp,
điều này có thể liên quan đến việc sử dụng nhà kho và các yêu cầu quan trọng
khác (nơi mà các sản phẩm từ những nơi khác nhau trên thế giới được chất lên
xe tải hoặc công-ten-nơ cùng với các sản phẩm khác để chuyển đến cùng một
nơi). Một đơn vị logistics điển hình làm việc với các khách hàng đại lý và các
hãng vận tải, các cơng ty chuyển hàng và các cơng ty đóng gói. Tuỳ theo sản
phẩm từ đâu tới, nó được chuyển tới bằng đường thư chuyển nhanh, bằng xe
tải hay tàu thuỷ, một số sản phẩm có thể được chuyển từ điểm này sang điểm
khác trong vài giờ, số khác lại có thể mất vài tuần.
Khả năng theo dõi một sản phẩm qua từng công đoạn từ nhà máy cho tới tận
khách hàng cuối cùng làm cho việc khai thác ngoại các chức năng của khâu
logistics từ bên ngoài trở nên hiện thực hơn. Các đơn hàng đặt qua điện thoại,
fax hoặc Internet liên hệ bằng điện tử với hệ thống logistics nội bộ của công ty.
Trang 24/32
Nếu sản phẩm có trong kho, một lệnh xuất hàng tự động đưa ra, sản phẩm
được đưa lên xe tải hoặc gửi tới nhà khách hàng. Mỗi quá trình này đều được
ghi lại trong hệ thống để kiểm duyệt do đó bất cứ ai muốn xem q trình dịch
chuyển – dù là đại diện dịch vụ khách hàng ở bộ phận logistics của cơng ty hay
nhà sản xuất, hoặc chính bản thân khách hàng có thể biết được hàng đang ở
đâu và bao giờ thì tới nơi.
Internet khơng chỉ hỗ trợ hoạt động kinh doanh của khâu logistics trong công
ty mà nó cịn mang tới nhiều cơ hội kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp sử dụng
Internet, trong đó có L.L Bean, Insight Direct và các cơng ty khác tìm kiếm đối
tác để cung cấp và phân phối các sản phẩm của họ. Ngay cả việc bán lẻ các
hàng hố hữu hình trên Internet cũng đã có rất nhiều cơ hội cho các cơng ty
vận chuyển.
Chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị thấp hơn
Một người bán hàng riêng lẻ có thể theo dõi được số lượng khách hàng mà anh
ta có thể tới tận nơi thăng viếng hoặc gọi điện thoại. Càng có nhiều khách
hàng thì càng phải có lực lượng bán hàng mạnh. Thậm chí các cơng ty tiếp thị
trực tiếp, cũng phải tăng thêm nhân viên khi mà lượng đặt hàng tăng lên.
Đối lại, việc kinh doanh trên Web có thể thêm các khách hàng mới với chi phí
tăng thêm rất ít hoặc thậm chí khơng mất thêm gì. Ngun nhân là do chức
năng bán hàng của nó được đặt trong một máy chủ chứ không phải là một kho
chứa hàng hoặc những người bán hàng thực thụ. Nó chỉ bị giới hạn bởi năng
lực của máy chủ trả lời các yêu cầu và đơn hàng.
Hãng Boise Cascade - trị giá 2 tỷ đô la - chuyên phân phối các sản phẩm trên
Web từ năm 1997 đã có một catalơ điện tử với khoảng 10.000 hàng hố. Boise
chỉ trông đợi khoảng 1 hoặc 2 phần trăm khách hàng của họ đặt hàng qua
mạng trong năm đầu tiên. Thực tế là đã có tới 4% khách đặt hàng. Tới cuối
năm 1998, Boise tiên đốn rằng sẽ có khoảng 10% khách hàng sẽ đặt hàng
qua Web. Và vốn xây dựng site này đã được thu hồi. Boise đã chi khoảng dưới
100 ngàn đô la để xây dựng web site này. Sau 6 tháng hoạt động, nó đã tiết
kiệm được hơn 1 triệu đô la do việc giảm thời gian các đại diện phục vụ khách
hàng nhận đơn hàng qua điện thoại.
5.9 Tương lai
Các doanh nghiệp sử dụng Internet để mua, bán, phân phối và hỗ trợ sản
phẩm và các dịch vụ đã thực sự giảm được chi phí và tăng cơ hội bán hàng. Và
lợi ích chỉ tăng khi mạng lưới kinh doanh điều khiển sự tăng trưởng của thương
mại điện tử.
Trang 25/32