Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Triết học về nguyên tắc tôn trọng tính khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.49 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
TÀI CHÍNH - MARKETING
MẪU PHIẾU LÀM BÀI TỰ LUẬN
HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Câu 1. Anh/Chị hãy cho biết dựa vào cơ sở lý luận nào mà triết học Mác - Lênin
rút ra nguyên tắc phương pháp luận là tơn trọng tính khách quan kết hợp với phát
huy tính năng động chủ quan? Anh/Chị hãy phân tích khái quát cơ sở lý luận
đó(2.5 điểm). Hãy vận dụng ý nghĩa phương pháp luận này vào việc lập kế hoạch
học tập một khóa học/một học phần/ chuyên ngành của bản thân.(2.5 điểm)
Bài làm
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống quan điểm lý luận chung
nhất về thế giới, về vị trí và vai trị của con người trong thế giới đó, là khoa học
của mọi khoa học nghiên cứu những vấn đề chung nhất của thế giới tự nhiên, xã
hội và tư duy. Trong triết học, tư tưởng quan điểm của triết học Mác – Lenin đóng
vai trị quan trọng trong khoa học và đời sống hiện nay, là công cụ tư duy sắc bén
và hiệu quả để con người nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác – Lenin là
hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về tự nhiên, xã hội và tư duy – thế giới
quan và phương pháp luận khoa học, về các nguyên tắc trong việc giải quyết vấn
đề cơ bản của triết học, luận giải mối quan hệ khách quan và chủ quan trong thực
tiễn của con người. Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm của triết học
Mác – Lenin về mối quan hệ cơ bản trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, giúp cho
các chủ thể không những tránh được chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí mà cịn biết
cách phát huy tính năng động chủ quan trong thực tiễn. Qua đây, tơi xin phép
được phân tích về cơ sở lý luận mà triết học Mác – Lenin rút ra nguyên tắc phương
pháp luận: “Tơn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ
quan” qua đó vận dụng ý nghĩa phương pháp luận này vào việc lập kế hoạch học
tập của bản thân.

Trang 1



Cơ sở lý luận của ngun tắc “Tơn trọng tính khách quan kết hợp với
phát huy tính năng động chủ quan”.
Cơ sở lý luận chung của nguyên tắc “Tôn trọng tính khách quan kết hợp với phát
huy tính năng động chủ quan” là quan điểm của chủ nghĩa duy vật khoa học về
mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.
Định nghĩa vật chất theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán,
V.I. Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau: “Vật chất là một phạm trù
triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm
giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ
thuộc vào cả giác” (V.I. Lênin: Toàn tập, Sđđ, t.18, tr.171, 151.). Đây được xem
là một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến nay các nhà khoa học hiện
đại coi là một định nghĩa kinh điển. Qua định nghĩa trên, Lênin cho ta thấy được
các nội dung bao hàm sau đây:
• Thứ nhất, vật chất là thực tại khách quan, các tồn tại hiện thực bên ngoài ý
thức và không lệ thuộc ý thức. Vật chất là hiện thực chứ không phải là hư
vô và hiện thực ở đây mang tính khách quan chứ khơng phải hiện thực chủ
quan.
• Thứ hai, vật chất là cái mà khi tác động vào các giác quan con người thì
đem lại cho con người cảm giác.
• Thứ ba, vật chất là cái mà ý thức chẳng qua chỉ là sự phản ánh của nó.
Định nghĩa vật chất của V.I Lênin đã giải quyết hai mặt vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, cung cấp nguyên tắc
thế giới quan và phương pháp luận khoa học, đòi hỏi con người trong nhận thức
và thực tiễn phải biết quán triệt nguyên tắc khách quan, xuất phát từ hiện thực
khách quan đồng thời phải tôn trọng khách quan, nhận thức và vận dụng đúng đắn
quy luật khách quan.
Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Trang 2



Ph.Ăngghen cho rằng vật chất chỉ có thể tồn tại trong vận động, bằng cách
vận động, khơng thể có vật chất khơng vận động, cũng như khơng thể có vận động
ngoài vật chất. Vận động của vật chất là tự thân vận động và sự tồn tại của vật
chất luôn gắn liền với vận động. Các thuộc tính của vật chất chỉ biểu hiện thông
qua vận động. Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình, Ph. Ăngghen
đã phân vận động thành năm hình thức vận động cơ bản từ thấp đến cao: vận động
cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và cao nhất là vận động xã hội.
Hình thức vận động cao bao hàm các hình thức vận động thấp hơn nhưng
không được lẫn lộn giữa các hình thức vận động, khơng quy định hình thức vận
động cao về hình thức vận động thấp và mỗi sự vật, hiện tượng nào bao giờ cũng
được đặc trưng bởi một hình thức vận động tiêu biểu, cao nhất của nó.
Vận động là tuyệt đối trong khi đó đứng im là tương đối, tạm thời là trạng
thái đặc biệt của vận động, đó là lúc vận động trong thế cân bằng và ổn định, chưa
là thay đổi cơ bản bản về chất, hình dáng hay kết cấu sự vật.
Định nghĩa ý thức theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
C. Mác đã chỉ ra quan điểm duy vật biện chứng về ý thức: “ý niệm chẳng
qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải biến
đi ở trong đó.” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđđ, t.23, tr.35). Chủ nghĩa
duy vật biện chứng quan niệm bản chất của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào bộ óc của con người một cách năng động sáng tạo thơng qua các hoạt
động thực tiễn cho nên nó là tinh thần, là hình ảnh tinh thần của hiện thực khách
quan, do đó nó là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”.
Như vậy, ý thức được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Hơn hết, để có thể hiểu được bản chất của ý thức chúng ta cần thừa nhận
rằng cả hai vật chất và ý thức đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại nhưng chúng
lại mang tính đối lập. Ý thức là sự phản ảnh, là cái phản ảnh thì vật chất là cái
được phản ảnh. Vật chất thì tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với cái phản
ảnh, tức là ý thức. Ý thức là hiện thực chủ quan, lấy khách quan làm tiền đề, bị
Trang 3



khách quan quy định. Khi nói đến cái phản ánh tức ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giới khách quan. Ý thức là của con người, được hình thành qua quá trình
con người hoạt động cải tạo thế giới, cho nên ý thức con người mang tính năng
động, sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức - cơ sở lí luận chung của
nguyên tắc “Tơn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động
chủ quan”.
Trong chủ nghĩa duy vật biện chứng, vật chất là phạm trù cùng cặp với
phạm trù ý thức, thuộc phạm vi vấn đề cơ bản của triết học, chúng có quan hệ biện
chứng chặt chẽ với nhau, trong đó vai trị quyết định thuộc về vật chất, mặc khác
ý thức không thụ động mà tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động thực
tiễn của con người.
Vật chất có vai trị quyết định ý thức, thơng qua các mặt sau:
• Thứ nhất, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức,
quyết định sự hình thành của ý thức.
• Thứ hai, nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất do ý thức của
chúng ta là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
• Thứ ba, vật chất quyết định sự biến đổi, phát triển của ý thức vì bản chất
của ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan trong điều kiện tự nhiên
thay đổi, quan hệ vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi.
• Thứ tư, vật chất là điều kiện để thực hiện hóa ý thức.
Ý thức không thụ động mà tác động trở lại vật chất thông qua các hoạt động
thực tiễn con người theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu con người
nhận thức đúng, có tri thức, có nghị lực, … thì hành động của con người phù hợp
với các quy luật khách quan, có năng lực vượt qua những thử thách, thực hiện
được mục đích của bản thân, thế giới được cải tạo, đó là sự tác động tích cực của
ý thức. Ngược lại nếu ý thức con người phản ánh không đúng hiện thực khách

Trang 4


quan, hướng con người đi ngược lại các quy luật khách quan thì hành động ấy có
tác động tiêu cực đối với hoạt động thực tiễn cũng như hiện thực khách quan như
mang tính chủ quan, duy ý chí, …
Tính khách quan và tính năng động chủ quan trong nguyên tắc “Tơn trọng
tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan”.
Phạm trù “khách quan” dùng để chỉ tất cả những thứ tồn tại không phụ
thuộc vào một chủ thể xác định, thường xuyên tác động đến việc xác định mục
tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của chủ thể đó. Vật chất là nguồn gốc
khách quan sảnh sinh ra ý thức còn ý thức chỉ là sản phẩm ảnh ánh thế giới khách
quan, vì vậy trong hoạt động thực tiễn phải luôn xuất phát từ thực tế khác quan,
tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Phạm trù “chủ quan” dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và
năng lực của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trò của chủ thể ấy đối với những
hoàn cảnh hiện thực khách quan trong hoạt động nhận thức và cải tạo khách thể.
Tính năng động chủ quan là phát huy tính tích cực sáng tạo của ý thức trong quá
trình phản ánh sự vật, hiện tượng đẻ tìm ra bản chất quy luật của nó va fđè ra
đường lối, biện pháp cải biến nó phục vụ lợi ích con người.
Như vậy, phạm trù khách quan và chủ quan không đồng nhất với phạm trù
vật chất và ý thức. Bởi vì, phạm trù vật chất và ý thức dùng để khái quát bản chất
và mối quan hệ giữa hai hiện tượng chung nhất của thế giới. Trong khi đó, phạm
trù khách quan và chủ quan dùng để khái quát bản chất mối quan hệ giữa thế giới
bên ngoài hiện thực với sức mạnh bên trong của một chủ thể xác định trong toàn
bộ hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới đó. Do đó, khách quan và chủ quan chỉ
là nói trong những quan hệ xác định, ngồi quan hệ đó ra, sự phân biệt khách
quan, chủ quan chỉ có ý nghĩa tương đối. Có hiện tượng trong quan hệ này thì
thuộc về khách quan, nhưng trong quan hệ khác lại thuộc phạm trù chủ quan và
ngược lại. Tuy nhiên, nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của triết học MácLênin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vẫn là cơ sở khoa

học để vận dụng vào việc giải quyết mối quan hệ khách quan và chủ quan.
Trang 5


Ý nghĩa phương pháp luận
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong triết học Mác – Lênin, rút ra
nguyên tắc phương tắc phương pháp luận là tôn trọng tính khách quan kết hợp với
phát huy tính năng động chủ quan.
Tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất, của các
quy luật tự nhiên và xã hội. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, mọi chủ
trương, kế hoạch, mục tiêu đều phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ những
điều kiện, tiền đề vật chất hiện có, khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình
làm chính sách, khơng được lấy ý muốn chủ quan của mình cho chiến lược. Phải
tơn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nếu không sẽ gây ra những hậu
quả tai hại khôn lường. Nhận thức sự vật, hiện tượng phải chân thực, đúng đắn,
tránh tô hông hay bôi đen đối tượng, không được gán cho đối tượng cái mà nó
khơng có. Nhìn chung, nhận thức, cải tạo sự vật, hiện tượng, phải xuất phát từ
chính bản thân sự vật, hiện tượng đó với những thuộc tính, mối liên hệ bên trong
vốn có của nó. Cần phải tránh chủ nghĩa duy vật tầm thường, chủ nghĩa thực dụng,
chủ nghĩa khách quan. Nếu ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn thì con người phải phát huy tính năng động chủ quan.
Phải phát huy tính năng động chủ quan, phát huy vai trò của nhân tố con
người, vai trò tích cực của ý thức. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực
phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực
tiễn. Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất
quy luật khác quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn
mục tiêu, phương hướng đề ra. Chống tư tưởng, thái độ thụ động, ỷ lại, ngồi chờ,
bảo thủ, trì trệ, thiếu sáng tạo trong các hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phải coi
trọng vai trị của ý thức , coi trọng cơng tác tư tưởng, coi trọng giáo dục lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự vận dụng ý nghĩa phương pháp luận ngun tắc “Tơn trọng tính khách
quan kết hợp với phát huy tính năng động chủ quan” vào việc lập kế hoạch
hợp tập cho bản thân.
Trang 6


Tơn trọng khách quan là tơn trọng tính khách quan của vật chất, của các
quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này địi hỏi tơi các hoạt động nhận thức và trong
hoạt động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan và phải lấy thực tế khách
quan để làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin đã nhiều lần nhấn
mạnh rằng: “Không được lấy chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất
phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho
hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí”.
Tơi đã vận dụng ngun tắc này vào trong việc lập kế hoạch học tập để bản
thân để đạt được kết quả cao trong học tập với mục tiêu, định hướng là nhận học
bổng khuyến khích học tập của trường.
Trước hết, tơi phải nhận thực đúng đắn, trung thực với mục tiêu tôi hướng
đến, không lấy ý kiến chủ quan, định kiến của bản thân áp đặt lên nó. Tơi cần biết
rằng để có thể đặt mục tiêu như thế thì phải tơn trọng thực tế khách quan là các
môn học phải từ B+ trở nên và không được rớt các học phần phụ như các học
phần giáo dục thể chất hay các học phần kĩ năng mềm và cần phải tích cực tham
gia hoạt động do cac tổ chức Đoàn, hội, hay khoa tổ chức.
Cần chấp hành nghiêm chỉnh các nội quy nhà trường vì các quy định trong
đó là tiêu chuẩn đánh giá đạo đức, tác phong mà bạn sinh viên cũng cần phải có
và khơng nên áp đặt tư tưởng của bản thân rằng việc tuân theo nôi quy trường là
rườm rà, ảnh hưởng đến việc học của bản thân cũng như thời gian của mình, nếu
như tơi cũng như mọi bạn sinh viên mà đi theo chiều hướng như vậy sẽ dẫn đến
hậu quả không tốt, không những không thể đạt được học bổng mà cịn có thể ảnh
hưởng đến kết quả học tập, ảnh hưởng đến mục tiêu phương hướng của bản thân.

Bởi vì, thực tế khách quan chúng là một phần khơng thể thiếu trong q trình học
của mình, đó là điểm rèn luyện, nếu điểm rèn luyện khơng thể trên 90 điểm thì
mục tiêu của mình sẽ khơng đạt được. Bên cạnh đó, tơi cần phải lấy hiện thực
khách quan làm cơ sở để đưa ra kế hoạch và mục tiêu phù hợp.
Trang 7


Hiện thực khách quan cho tôi thấy rằng việc học online kết hợp với offline
tại trường là phương pháp hiệu quả nhất trong thời buổi dịch Covid đã đi vào đời
sống của mọi người. Nó phù hợp với sức khỏe và tâm lý của bản thân các sinh
viên, tôi vừa có thể học online, mở rộng kiến thức được sâu hơn thông qua các
phương tiện truyền thông, kĩ thuật số bên cạch đó việc học offline ở trường có thể
giúp tôi trao đổi những vấn đề chưa thể lý giải thông qua việc giao tiếp trực tiếp
với giảng viên hay bạn bè thay vì gián tiếp qua màn hình máy tính, điện thoại. Và
một điều khơng thể thiếu là khơng nên bắt chước, rập khuôn phương pháp học tập
của bạn bè lên bản thân mình vì điều đó sẽ mang lại kêt quả không mong muốn.
Nếu tôi tuân thủ các điều này, chúng sẽ đem lại hiểu quả cao trong việc tiếp thu
kiến thức của tôi.
Và khi lập kế hoạch học tập, tôi sẽ phải xem xét đến các điều kiện thực tế
như: Thời gian, sức khỏe, tài chính…để đưa ra một kế hoạch phù hợp, có khả
năng thực hiện. Ví dụ muốn nâng cao trình độ tiếng Anh, tơi cần xét thời gian nào
phù hợp để học, trung tâm nào có chi phí phù hợp với tài chính của bản thân cũng
như phù hợp với khả năng đi lại của mình nữa, nếu học quá xa nơi sinh sống cũng
không hiệu quả,…Tôi cần phải đánh giá đúng khả năng của bản thân có thể phấn
đấu mục tiêu đó khơng để tránh gây ra tâm lý chán nản cho mình.
Ngồi ra, tôi phải biết sử dụng lực lượng vật chất để thực hiện mục tiêu, kế
hoạch của bản thân bởi vì vật chất là cơ sở để hiện thực hóa ý thức ví dụ như học
các học phần phải đóng tiền học phí đúng hạn, khi nghiên cứu học tập cần có tài
liệu, sách vở, các thiết bị hỗ trợ, phương tiện đi lại,… cũng như phải đáp ứng các
nhu cầu cơ bản trong cuộc sống như: ăn mặc, nhà ở,…

Việc vận dụng ngun tắc tơn trọng tính khách quan thì cần phải kết hợp
tính năng động, sáng tạo chủ quan. Tôi cần phải trau dồi, làm giàu thêm kho tàng
tri thức của bản thân thông qua các hoạt động nghiên cứu, học tập. Phải học từ
nền tảng kiến thức, các môn khoa học cơ bản rồi mới bắt đầu nâng cao lên các tri
thức chuyên ngành vì khoa học cơ bản là tiền đề, cơ sở để có thể tiếp thu được
kiến thức chuyên ngành hiệu quả hơn. Tham gia các cuộc thi do các cơ sở tổ chứ
Trang 8


để mở mang tầm hiểu biết, kích thích óc sáng tạo của bản thân và có thể vận dụng
nó vào trong đời sống thực tiễn.
Trong q trình học tập, tơi cần phải phát huy tích cực hơn về tính năng
động chủ quan, chủ động trong mọi hoạt động, thể hiện được khả năng linh động
của bản thân, tu dưỡng đạo đức, tự tin tránh thái độ thụ động chủ quan, trơng chờ
hồn cảnh khác quan mà hạ thấp tính sáng tạo linh động của bản thân thì hoạt
động học tập sẽ hiệu quả hơn, mang lại kết quả cao và thực hiện được mục đích
kế hoạch có hoc bổng trong tương lai.
Tóm lại, ngun tắc “Tơn trọng tính khách quan kết hợp với phát huy tính năng
động chủ quan” đã giúp ta hiểu được mối quan hệ biện giữa khách quan (vật chất)
và chủ quan (ý thức) để có thể vận dụng vào trong đời sống thực tiễn, thay đổi
nhận thức, tạo cho ta những phương hướng, kế hoạch với mục đích hồn thiện
khả năng bản thân và thực hiện được ý niệm của mình theo chiều hướng tốt đẹp
và hiệu quả. Điều này sẽ giúp tơi có thể đi trên con đường đại học một cách dễ
dàng hơn.
Câu 2. C. Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người
có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ”(C. Mác và Ph. Ăngghen:
Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.13, tr.14-15):
a) Anh/Chị hãy phân tích nhận định trên(1.5 điểm)

b) Anh/Chị hãy cho biết hiện nay Đảng ta đã và đang vận dụng lý luận trên
vào chủ trương nào trong thực tiễn cách mạng Việt Nam như thế nào?
Anh/Chị có thể làm gì để góp phần vào việc thực hiện thắng lợi chủ trương
đó? (3.5 điểm)
Bài làm
Để nền kinh tế của một đất nước phát triển thật sự, nó được chi phối bởi rất
nhiều yếu tố, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
Trang 9


độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là một quy luật hết sức phổ biến và đóng
vai trị quan trọng trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia. C. Mác
đã từng viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những
quan hệ nhất định, tất yếu, khơng tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan
hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của
các lực lượng sản xuất vật chất của họ”(C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.13, tr.14-15). Sự thống nhất mối quan hệ giữa
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng phát
triển, và kéo theo đó là một quan hệ sản xuất tiến bộ. Tôi xin phép được phân tích
nhận định trên và thơng qua chủ trương trong thực tiễn cách mạng Việt Nam đang
vận dụng lý luận trên và cũng như hành động của bản thân trong việc góp phần
vào việc thực hiện thắng lợi chủ trương đó.
Cơ sở lý luận được C. Mác đã đề cập trong: “Trong sự sản xuất xã hội ra
đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy
thuộc vào ý muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù
hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của
họ” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002,
t.13, tr.14-15) chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
nhất định của lực lượng sản xuất.
Các khái niệm cơ bản

• Sản xuất vật chất là gì?
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên
để tạo ra của cải xã hội, nhằm thỏa mãn nhu cầu tồn tại và phát triển – nhu cầu
phong phú và vô tận của con người. Hoạt động sản xuất vật chất là cơ sở của sự
tồn tại và phát triển của xã hội. Tức sản xuất vật chất là con người đã lao động để
thỏa mãn những nhu cầu từ cấp độ tối thiểu đến cấp độ thưởng thức, dường như
sản xuất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội, bất cứ xã hội nào cũng
Trang 10


không thể tồn tại, phát triển nếu không tiến hành sản xuất vật chất. Nó cịn là cơ
sở cho sự tiến bộ xã hội, là cơ sở hình thành nên tất cả các hình thức của quan hệ
xã hội. Hoạt động ra của cải vật chất cho xã hội còn là động lực thúc đẩy sự phát
triển của xã hội, tiêu chuẩn khách quan khẳng định trình độ chinh phục tự nhiên
của con người và sự phát triển xã hội.
• Vậy lực lượng sản xuất là gì?
Để tiến hành sản xuất thì con người phải sử dùng các yếu tố vật chất nhất
định, tổng thể các nhân tố đó là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất biểu hiện
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, trong quá trình thực hiện sản xuất xã
hội con người chinh phục tự nhiên bằng các sức mạnh hiện thực của mình. Trình
độ lực lượng sản xuất biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người trong quá trình sản xuất tạo
nên của cải cho xã hội đảm bảo sự phát triển của con người.
• Cịn quan hệ sản xuất được quan niệm như thế nào?
Để tiến hành q trình sản xuất nhất định con người phải có mối quan hệ
với nhau. Tổng thể những mối quan hệ này gọi là quan hệ sản xuất. Nói cách khác
quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất. Trong sự sản
xuất ra đời sống xã hội của mình con người dù muốn hay khơng cũng buộc phải
duy trì những quan hệ nhất định với nhau để trao đổi hoạt động sản xuất cũng như

kết quả lao động những quan hệ sản xuất này mang tính tất yếu. Với tính chất là
những quan hệ kinh tế khách quan không phụ thuộc vào ý muốn của con người,
quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất của đời sống xã hội. Quan
hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống xã
hội. Nhìn tổng thể quan hệ sản xuất gồm 3 mặt:
▪ Quan hệ sở hữu về tư liêu sản xuất tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản
xuất. Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất – biểu hiện thành chế độ sở hữu. Trong hệ

Trang 11


thống các quan hệ sản xuất thì quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có vai trị
quyết định đối với các quan hệ xã hội khác.
▪ Quan hệ tổ chức và quản lý kinh doanh sản xuất tức là quan hệ giữa người
với người trong sản xuất và trong trao đổi vật chất của cải như phân công,
chuyên mơn hóa và hợp tác hóa lao động quan hệ giữa người quản lý với
công nhân.
▪ Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức quản lý,trong hệ thống quan hệ sản
xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản xuất, sản phẩm lao động cũng là
những nhân tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vận động của toàn bộ
nền kinh tế. Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sản
xuất nhưng ngược lại nó có khả năng kìm hãm sản xuất kìm hãn sự phát
triển của xã hội.
Qua đây, ta có thể nhìn nhận được quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Chúng ta đều biết, quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là hai mặt song
trùng của phương thức sản xuất, chúng có tác động qua lại nhau, hợp thành một
mâu thuẫn biện chứng. Trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất ở cả tính chất và trình độ quyết định quan hệ

sản xuất. Quan hệ sản xuất phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được
đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của lực
lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì yêu cầu quan hệ sản xuất phải phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này tạo điều kiện
sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất để
lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hồn thiện. Sự phát triển của lực lượng
Trang 12


sản xuất đến một mức nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở
thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này dẫn đến
quan hệ sản xuất kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển và yêu cầu khách quan tất
yếu là phải thay thế quan hệ sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất
cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Quan hệ sản xuất quyết định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ
của con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội,
đến phát triển và ứng dụng khoa học cơng nghệ… do đó tác động đến sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đến đâu thì
quyết định quan hệ sản xuất đến đó. Quan hệ sản xuất phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát
triển của lực lượng sản xuất, ngược lại sẽ kìm hãm. Và khi quan hệ sản xuất kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thì theo quy luật chung, quan hệ sản xuất
cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Lý luận được C. Mác đã đề cập trong: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống

của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý
muốn của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một
trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ” (C. Mác
và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.13, tr.14-15)
càng nhấn mạnh thêm rằng lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất hay
nói cách khác quan hệ sản xuất phù thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.
Vận dụng của Đảng ta trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nước ta
Đảng ta đã vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, thực
hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa được xem xét từ tư duy triết học là thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất
trong mối quan hệ biện chứng của phương thức sản xuất. Muốn cơng nghiệp hóa
Trang 13


– hiện đại hóa đất nước cần phải có tiềm lực về kinh tế, con người, trong đó lực
lượng sản xuất là yếu tố vơ cùng quan trọng. Ngồi ra phải có sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Với tiềm năng lao động lớn nhưng công cụ lao động lại hết sức thơ sơ lạc
hậu, cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đứng trước khó khăn lớn cần nhanh chóng
khắc phục. Đảng ta đã thực hiện một cơ cấu sở hữu hợp quy luật, gắn liền với một
cơ cấu thành phần kinh tế hợp lí và trong thời cơ cũng như thách thức to lớn hiện
nay, đất nước ta đang có rất nhiều tiềm năng phát triển, mà cốt lõi của sự phát
triển ấy vẫn là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
Đại hội VI (1986), Đại hội VII (1990), Đại hội IX (2001) đã tiếp tục khẳng
định bổ sung và hồn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế - xã hội:
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế, đổi
mới cơ chế quản lý, đổi mới về công cụ lao động và chính sách quản lý kinh tếxã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, cải thiện đời sống vật chất

và tinh thần của nhân dân.Tại đại hội VI (1986), Đảng ta khẳng định: “Xây dựng
và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất". Từ đó, Đảng ta đã quyết định, chuyển nền kinh
tế từ mơ hình, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất sang thừa nhận sự tồn
tại khách quan của nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và thay đổi cơ chế
quản lý, cơ chế phân phối. Đến đại hội VII (1990), Đảng ta chủ trương đưa nước
ta vào thời kì mới, thời kì cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, quan hệ sản xuất tiến
bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đến đại hội IX (2001)
thì Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội
chủ nghĩa, phấn đấu đến năm 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Đại hội X (2006), chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hóa hiện đại
hóa gắn liền với nền kinh tế tri thức. Cho đến nay Đại hội XIII (2021), chủ trương
phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Trang 14


Về bản thân em, là một công dân của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
để góp phần vào việc thực hiện thắng lợi chủ trương mà Đảng đã đề ra ở các kì
đại hội, em nghĩ em có một vai trị quan trọng. Việc đầu tiên em có thể làm và đã
làm đó là khơng ngừng học tập, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ để có
thể đáp ứng được u cầu sự nghiệp cơng nghệ hố – hiện đại hố đất nước. Cịn
về xa hơn trong tương lai thì em sẽ chủ động đi tìm kiếm việc làm để gia tăng thu
nhập cho kinh tế nước nhà và giảm đi gánh nặng cho xã hội, ngồi ra thì sẽ tham
gia vào thành phần kinh tế... Bên cạnh đó, em cịn ứng dụng các trang bị, thành
tựu của khoa học công nghệ của nước nhà.
HẾT

Tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình triết học Mác – Lênin (dành cho bậc đại học khơng chun lý

luận chính trị)
2. />3. />4. />5. />Trang 15



×