Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ Ý NGHĨA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.95 KB, 21 trang )

Tiểu luận triết học

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................1
Chương I: KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIA.........3
1. Sự ra đời của Triết học Nho gia...........................................................................3
2 - Những tư tưởng triết học chính trị Nho gia........................................................3
3. Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo:........................................................7
4 - Ý nghĩa phương pháp luận...............................................................................10
Chương II: TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
TIẾN TRÌNH NỀN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NƯỚC TA...................................13
1. Cải cách hành chính và thực trạng cải cách hành chính ở nước ta.................13
1.1 Sự cần thiết phải cải cách nền hành chính...................................................13
1.2 Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính..................................15
2. Ảnh hưởng của Tư tưởng triết học Nho gia đến tiến trình cải cách nền hành
chính nước ta.........................................................................................................15
3. Giải pháp thúc đẩy thực hiện cải cách nền hành chính nước ta.........................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................20


Tiểu luận triết học

A. MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi công cuộc đổi mới của nước ta đang bước vào giai đoạn
khẩn trương, tồn diện, thì lĩnh vực Hành chính – chiếm giữ vai trị trọng
trong điều hành, quản lí đất nước cần thiết phải đổi mới nhanh chóng, đi vào
chiều sâu góp phần tạo động lực cho q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước đạt nhiều thành tựu quan trọng hơn nữa. Một trong những quyết tâm
chính trị của Đảng, Nhà nước là “Xây dựng nền hành chính Nhà nước trong
sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu
quả”. Công tác cải cách hành chính được triển khai thực hiện trên 4 lĩnh vực:


Cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ máy hành chính và chế độ cơng vụ, xây
dựng kiện tồn bộ máy cán bộ công chức và cải cách tài chính cơng. Yếu tố
con người liên quan đến tất cả các khâu trong xây dựng nền hành chính hiệu
quả nên muốn cải hành chính, rất cần “cải cách con người”.
Tư tưởng về xây dựng con người của triết học Nho gia với những vấn
đề về luân lý, đạo đức, chính trị xã hội vẫn cịn có ý nghĩa sâu sắc cho đến
ngày nay và có ảnh hưởng rất lớn đến cải cách nền hành chính nước ta. Nho
Gia đặt vấn đề xây dựng con người một cách thiết thực. Nho Gia hướng con
người vào tu thân và thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất,
luôn đặt vào vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Trong điều kiện hiện nay, khi
mối quan hệ của con người với con người càng được mở rộng, khi xã hội
đang có những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức, tệ quan liêu, tham ô,
tham nhũng đang diễn biến phức tạp, thì tư tưởng về đạo làm người trong mối
quan hệ với xã hội của Nho gia lại càng có ý nghĩa, góp phần điều chỉnh hành
vi của mỗi người để xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Trong bài tiểu luận này, em nghiên cứu đề tài “Triết học Nho gia và ý
nghĩa của việc nghiên cứu trong tiến trình cải cách nền hành chính hiện nay”
nhằm mục đích tìm hiểu sơ qua về q trình hình thành, phát triển, nội dung,

1


Tiểu luận triết học

quan điểm chính trị xã hội của triết học Nho gia đặc biệt là nghiên cứu ý
nghĩa của nó đối với cơng cuộc cải cách hành chính hiện nay ở nước ta.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã nhiệt tình chỉ bảo để em có thể
hồn thành bài tiểu luận này. Bài tiểu luận khơng thể tránh khỏi những sai sót,
mong thầy giáo thơng cảm và góp ý.


2


Tiểu luận triết học

Chương I
KHÁI QUÁT SỰ RA ĐỜI VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC NHO GIA
1. Sự ra đời của Triết học Nho gia.
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời
Xuân Thu, người sáng lập là Khổng tử (1551 tr CN-479 trCN). Đến thời
Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển
theo hai xu hướng khác nhau; duy tâm và duy vật trong đó dịng Nho gia
Khổng- Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và
một số nước lân cận.
Kinh điển của Nho giáo thường kể tới là Tứ thư (Luận ngữ, Đại học,
Trung dung, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thư, Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu).
Những tư tưởng triết học bản thể luận và những tư tưởng biến dịch của
vũ trụ có thể xem Khổng Tử đứng trên quan điểm triết học của Kinh Dịch.
Theo tư tưởng của kinh này thì uyên nguyên của vũ trụ, của vạn vật là thái
cực. Thái cực chứa đựng một năng lực nội tại mà phân thành lưỡng nghi. Sự
tương tác giữa hai thế lực âm- dương mà sinh ra tứ tượng. Tứ tượng tương
thôi sinh ra bát quái và bát quái sinh ra vạn vật. Vậy là sự biến đổi có gốc rễ ở
sự biến đổi âm -dương.
Những tư tưởng triết học về chính trị- đạo đức của Nho gia được khảo
sát chủ yếu trong sách “luận ngữ”. Ngồi ra cịn có thể bổ cứu thêm trong
Ngũ kinh: “Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu” và các sách khác như “đại học”,
“Trung dung”
Qua hệ thống kinh điển có thể thấy hầu hết là các kinh, các sách viết về
xã hội, chính trị- đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho giáo.
2 - Những tư tưởng triết học chính trị Nho gia.

Quan điểm về chính trị- đạo đức của Nho gia được thể hiện ở những tư
tưởng chủ yếu sau:

3


Tiểu luận triết học

Thứ nhất: Xã hội là một tổng thể những quan hệ xã hội giữa con
người với con người nhưng Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là
những quan hệ nền tảng của xã hội, đề cao vai trò của những quan hệ ấy và
thâu tóm những quan hệ này vào ba rường mối chủ đạo (gọi là tam cương).
Trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua- tôi, cha- con và chồng- vợ. Nếu xếp
theo “tơn ty trên- dưới” thì vua ở vị trí cao nhất, cịn nếu xếp theo chiều ngang
của quan hệ thì vua- cha- chồng xếp ở hàng làm chủ. ”..Điều này phản ánh tư
tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Để giải quyết đúng đắn các quan hệ xã hội, mà trước hết là mối quan hệ
“tam cương”, Khổng Tử đã đề cao tư tưởng “chính danh”. Để thực hiện
chính danh, Khổng Tử đặc biệt coi trọng “Nhân trị” chứ không phải “pháp trị
Thứ hai: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong
kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh. Lý tưởng của
Nho gia là xây dựng một “xã hội đại đồng”. Đó là một xã hội có trật tự trên
dưới, có vua sáng- tơi hiền, cha từ- con thảo, trong ấm- ngoài êm; trên cơ sở
địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân.Có
thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc, thị tộc cũ cũng như của giai cấp
địa chủ phong kiến đang lớn lên.
Đối với quan hệ vua tôi, Khổng Tử chống việc duy trì ngơi vua theo
huyết thống và chủ trương “thượng hiền” không phân biệt đẳng cấp xuất thân
của người ấy. Trong việc chính trị vua phải biết “trọng dụng người hiền đức,
tài cán và rộng lượng với những kẻ cộng sự...”.

Trong việc trị nước cũng như tu thân, học đạo sửa mình để đạt được
đức nhân, “lế” được Khổng Tử rất mực chú trọng. Lễ ở đây là những quy
phạm ngun tắc đạo đức. Ơng cho rằng do vua khơng giữ đúng đạo vua, cha
không giữ đúng đạo cha, con không giữ đúng đạo con... nên thiên hạ vô đạo.
Phải dùng lễ để khơi phục lại chính danh.
Về đạo cha con, Khổng Tử cho rằng con đối với cha phải lấy chữ hiếu
làm đầu và cha đối với con phải lấy lòng tự ái làm trọng. Trong đạo hiếu của
4


Tiểu luận triết học

con đối với cha mẹ, dù rất nhiều mặt, nhưng cốt lõi phải ở tâm thành kính.
“Đời nay hễ thấy ai ni được cha mẹ thì người ta khen là có hiếu. Nhưng
lồi thú vật như chó, ngựa người ta cũng nuôi được vậy. Cho nên, nuôi cha
mẹ mà chẳng kính trọng thì có khác gì ni thú vật đâu.”
Cịn Mạnh Tử, ơng kịch liệt lên án những ông vua không lấy điều nhân
nghĩa làm gốc, chỉ vui thú lợi lộc riêng, tà dâm bạo ngược, dùng sức mạnh để
đàn áp dân; ơng gọi đó là “bá đạo” và thường tỏ thái độ khinh miệt: “kẻ hại
nhân là tặc, kẻ hại nghĩa là tàn”.Người tàn tặc là một kẻ thất phu. Nghe nói
giết tên Trụ, chứ chưa nghe nói giết vua Trụ.
Thứ ba: Nho giáo lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã
hội lý tưởng “đại đồng”. Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã
hội, cho nên, nền giáo dục dục Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo
đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
“Nhân”. Những chuẩn mực khác như: Lễ, nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu...đều là
những biểu hiện của Nhân. Chữ Nhân trong triết học Nho gia được Khổng Tử
đề cập với ý nghĩa sâu rộng nhất. Nó được coi là nguyên lý đạo đức cơ bản,
quy định bản tính con người và những quan hệ giữa người với người từ trong
gia tộc đến xã hội. Nó liên quan đến các phạm trù đạo đức chính trị khác như

một hệ thống triết lý chặt chẽ, nhất quán tạo thành bản săc riêng trong triết lý
nhân sinh của ông.
Theo ông, đạo sống của con người là phải “trung dung”, “trung thứ”
nghĩa là sống đúng với mình và sống phải với người. Xã hội thời xuân thu là
thời kỳ đang trải qua những biến động lịch sử sâu sắc, Khổng Tử đã chủ
trương dùng nhân đức để giáo hố con người, cải tạo xã hội. Người có đức
nhân là người làm được năm điều trong thiên hạ “cung, khoan, tín mẫu, huệ”.
Cung thì khơng khinh nhờn, khoan thì được lịng người, tín thì người tin cậy,
mẫu thì có cơng, huệ thì đủ khiếnđược người. Người có nhân theo Khổng Tử
là người “trước làm những điều khó, sau đó mới nghĩ tới thu hoạch hết quả”.

5


Tiểu luận triết học

Như vậy nhân là đức tính hồn thiện, là cái gốc đạo đức của con người,
nên “nhân” chính là đạo làm người. Đạo làm người hết sức phức tạp, phong
phú nhưng chung quy lại chỉ là những điều sống với mình và sống với người.
là “mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân, mình muốn mình thành
đạt thì cũng giúp người thành đạt” , “việc gì mình khơng muốn chớ đem cho
người”.
Người muốn đạt đức nhân phải là người có “trí” và “dũng”. Nhờ có trí,
con người mới có sự sáng suốt, minh mẫn để hiểu biết đạo lý, xét đoán được
sự việc, phân biệt được phải trái, thiện ác, để trau dồi đạo đức và hành động
hợp với “thiên lý”. Nhưng người muốn đạt “nhân” chỉ có “trí” thơi chưa đủ,
mà cần phải có dũng khí nữa. Người nhân có dũng phải là người có thể tỏ rõ
ý kiến của mình một cách cao minh, có thể hành động một cách thanh cao,
khi vận nước loạn lạc, khi người đời gặp phải hoạn lạn. Người nhân có dũng
mới tự chủ đựoc mình, mới quả cảm xả thân vì nhân nghĩa. Khi cơn thiếu

thốn cực khó khơng nao núng làm mất nhân cách của mình, khi đầy đủ sung
túc không ngả nghiêng xa rời đạo lý.
Thứ tư: Vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề
chính trị – xã hội địi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung
hoa thời cổ phải đặt ra và giả quyết vấn đề bản tính con người. Trong Nho gia
khơng có sự thống nhất quan điểm về vấn đề này nhưng nổi bật là quan điểm
của Mạnh Tử. Theo ơng “bản tính người vốn là thiện”. Thiện là tổng hợp
những đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh như, Nhân, Lễ, Nghĩa...
Mạnh Tử thần bí hố những giá trị chính trị- đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên. Do quan niệm bản tính con người là thiện nên Nho gia đề
cao sự giáo dục để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo
đức sẵn có.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
con người vốn là ác. Mặc dù bản thân con người ác, nhưng có thể giáo hố

6


Tiểu luận triết học

thành thiện. Xuất phát từ quan điểm đó về tính người, Tn tử đã chủ trương
đường lối trị nước kết hợp Nho gia với pháp gia.
So với các học thuyết khác, nho gia là học thuyết có nội dung phong
phú và mang tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa nó cịn là hệ tư tưởng chính
thống của giai cấp thống trị Trung Hoa suốt hai ngàn năm của xã hội phong
kiến.
Để trở thành tư tưởng chính thống, Nho Gia đã được bổ sung và hoàn
thiện qua nhiều giai đoạn lịch sử trung Đại; Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh
nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều đại hán và Tống, gắn liền với tên tuổi của
các bậc danh Nho như Đổng Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải,

Trình Hạo, Trình DI (thời Tống).
3. Những tác phẩm kinh điển của Nho giáo:
Các sách kinh điển của Nho giáo đều hình thành từ thời kỳ Nho giáo
nguyên thủy. Sách kinh điển gồm 2 bộ : Ngũ Kinh và Tứ Thư. Hệ thống kinh
điển đó hầu hết viết về xã hội, về những kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa, ít
viết về tự nhiên. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị, về đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia.
a- Tứ Thư : là bốn quyển sách kinh điển của văn học Trung Hoa được
Chu Hy thời nhà Tống lựa chọn làm nền tảng cho triết học Trung Hoa và
Khổng giáo. Chúng bao gồm : Đại học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
- Đại học : Sách Đại học dùng để dạy cho học trò từ 15 tuổi trở lên, khi
bước vào bậc đại học, dạy cho biết cách xử sự ở đời để lớn lên ra gánh vác
việc nước.
Theo các Nho gia, sách Đại Học do Tăng Tử làm ra để diễn giải các lời
nói của Khổng Tử.
Mục đích và tơn chỉ của sách này là nói về đạo quân tử, trước hết phải
sửa cái đức của mình cho sáng tỏ để mọi người noi theo, làm sao cho đến chổ
chí thiện. Muốn được vậy, phải sử dụng Bát điều mục (tám điều) : cánh vật,
trí tri, thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Cái gốc của
7


Tiểu luận triết học

đạo quân tử là sự “tu thân”. Cho nên trong sách Đại học có câu : “Tự thiên tữ
dĩ chí ư thứ nhân, nhứt thị giai dĩ tu thân vi bổn” (Nghĩa là : “từ vua cho đến
thường dân, ai ai cũng đều lấy sự sửa của mình làm gốc”).
- Trung Dung : Sách Trung Dung do Tử Tư làm ra. Tử Tư là học trò của
Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử.
Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khơng Tử nói về đạo

“trung dung”, tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm ln ln ở mức
trung hịa, khơng thái q, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.
Cả hai quyển sách Đại Học và Trung Dung trước đây là những thiên trong
Kinh Lễ, sau các Nho gia đời Tống tách riêng ra làm hai quyển để hợp với
sách Luận Ngữ và Mạnh Tử thành bộ Tứ Thư.
- Luận Ngữ : là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Không Tử và
những lời nói của người đương thời. Sách Luận Ngữ gồm 20 thiên, mỗi thiên
đều lấy chữ đầu mà đặt tên, và các thiên khơng có liên hệ với nhau. Đọc sách
này, người ta hiểu được phẩm chất tư cách và tính tình của Khổng Tử, nhất là
về giáo dục, ông tỏ ra là người thấu hiểu tâm lý của từng học trị, khéo đem
lời giảng dạy thích hợp với từng trình độ, từng hồn cảnh của mỗi người. Như
có khi cùng một câu hỏi mà ông trả lời cho mỗi người một cách.
Luận Ngữ dạy đạo quân tử một cách thực tiễn, miêu tả tính tình đức độ của
Khổng Tử để làm mẫu mực cho người đời sau noi theo.
- Mạnh Tử : Sách Mạnh Tử là bộ sách làm ra bởi Mạnh Tử và các môn
đệ của ông như : Nhạc Chính Khắc, Cơng Tơn Sửu, Vạn Chương… ghi chép
lại những điều đối đáp của Mạnh Tử với các vua chư hầu, giữa Mạnh Tử và
các học trò cùng với những lời phê bình của Mạnh Tử về các học thuyết khác
như : học thuyết của Mặc Tử, Dương Chu. Sách Mạnh Tử gồm 7 thiên, chia
làm 2 phần : Tâm học và Chính trị học.
- Tâm học : Mạnh Tử cho rằng mỗi người đều có tính thiện do Trời phú
cho. Sự giáo dục phải lấy tính thiện đó làm cơ bản, giữ cho nó khơng mờ tối,
8


Tiểu luận triết học

trau dồi nó để phát triển thành người lương thiện. Tâm là cái thần minh của
Trời ban cho người. Như vậy, tâm của ta với tâm của Trời đều cùng một thể.

Học là để giữ cái Tâm, ni cái Tính, biết rõ lẽ Trời mà theo chính mệnh.
Nhân và nghĩa vốn có sẳn trong lương tâm của người. Chỉ vì ta đắm đuối vào
vịng vật dục nên lương tâm bị mờ tối, thành ra bỏ mất nhân nghĩa. Mạnh Tử
đề cập đến khí Hạo nhiên, cho rằng nó là cái tinh thần của người đã hợp nhất
với Trời.
- Chính trị học : Mạnh Tử chủ trương : Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh. Đây là một tư tưởng rất mới và rất táo bạotrong thời quân chủ
chuyên chế đang thịnh hành. Mạnh Tử nhìn nhận chế độ qn chủ, nhưng vua
khơng có quyền lấy dân làm của riêng cho mình. Phải duy dân và vì dân.
Muốn vậy, phải có luật pháp cơng bằng, dẫu vua quan cũng khơng được vượt
ra ngồi pháp luật đó. Người trị dân, trị nước phải chăm lo việc dân việc
nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu
rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành. Chủ trương
về chính trị của Mạnh Tử vơ cùng mới mẽ và táo bạo, nhưng rất hợp lý, làm
cho những người chủ trương qn chủ thời đó khơng thể nào bắt bẻ được. Có
thể đây là lý thuyết khởi đầu để hình thành chế độ quân chủ lập hiến sau này.
b- Ngũ Kinh :
- Kinh Thi : sưu tập các bài thơ dân gian có từ trước Khổng Tử, nói nhiều
về tình u nam nữ. Khổng Tử san định thành 300 thiên nhằm giáo dục mọi
người tình cảm trong sáng lành mạnh và cách thức diễn đạt rõ ràng và trong
sáng. Một lần, Khổng Tử hỏi con trai "học Kinh Thi chưa?", người con trả lời
"chưa". Khổng Tử nói "Khơng học Kinh Thi thì khơng biết nói năng ra sao"
(sách Luận Ngữ).
- Kinh Thư : ghi lại các truyền thuyết, biến cố về các đời vua cổ có trước
Khổng Tử. Khổng Tử san định lại để các ông vua đời sau nên theo gương các
minh quân như Nghiêu, Thuấn chứ đừng tàn bạo như Kiệt, Trụ.

9



Tiểu luận triết học

- Kinh Lễ : ghi chép các lễ nghi thời trước. Khổng Tử hiệu đính lại mong
dùng làm phương tiện để duy trì và ổn định trật tự. Khổng Tử nói: "Khơng
học Kinh Lễ thì khơng biết đi đứng ở đời" (sách Luận Ngữ).
- Kinh Dịch : nói về các tư tưởng triết học của người Trung Hoa cổ đại
dựa trên các khái niệm âm dương, bát quái,... Đời Chu, Chu Văn Vương đặt
tên và giải thích các quẻ của bát quái gọi là Thoán từ. Chu Cơng Đán giải
thích chi tiết nghĩa của từng hào trong mỗi quẻ gọi là Hào từ. Kinh Dịch thời
Chu gọi là Chu Dịch. Khổng Tử giảng giải rộng thêm Hoán từ và Hào từ cho
dễ hiểu hơn và gọi là Thoán truyện và Hào truyện.
- Kinh Xuân Thu : ghi lại các biến cố xảy ra ở nước Lỗ, quê của Khổng
Tử. Khổng Tử không chỉ ghi chép như một sử gia mà theo đuổi mục đích trị
nước nên ơng chọn lọc các sự kiện, ghi kèm các lời bình, sáng tác thêm lời
thoại để giáo dục các bậc vua chúa. Ơng nói, "Thiên hạ biết đến ta bởi kinh
Xn Thu, thiên hạ trách ta cũng sẽ ở kinh Xuân Thu này". Đây là cuốn kinh
Khổng Tử tâm đắc nhất. (Xuân thu có nghĩa là mùa xuân và mùa thu, ý nói
những sự việc xảy ra.)
- Kinh Nhạc: do Khổng tử hiệu đính nhưng về sau bị thất lạc, chỉ cịn lại
một ít làm thành một thiên trong Kinh Lễ gọi là Nhạc ký. Như vậy lục kinh
chỉ còn lại ngũ kinh.
4 - Ý nghĩa phương pháp luận.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn năm qua,
nhà nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ
chức nhà nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho
giáo là dạy đức và dạy tài vẫn cịn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi
trọng cách làm người, coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho
giáo góp phần nâng cao văn hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết
học. Với phương châm “học nhi ưu tắc sĩ”, học để có thể tìm ra một nghề
nghiệp mới và nâng cao vị trí xã hội của bản thân là động lực hiếu học trong

nhân dân.
10


Tiểu luận triết học

- Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu
dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội
ngày càng phát triển văn minh hơn.
- Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt
hơn, có tơn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng
tới tầm mức quốc gia, ngồi ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình
bền chặt hơn, có tơn ty hơn… nhờ tn theo Ngũ Ln “Vua-tơi, cha-con,
chồng-vợ, anh-em, bạn-bè”.
- Nho giáo vốn đặt mối quan hệ vua tơi ở vị trí cao nhất trong năm quan
hệ giữa người với người. Các Nho sĩ Việt Nam cũng nhấn mạnh mối quan hệ
này, xây dựng tinh thần trung quân, ái quốc nhưng không mù quáng trung
quân mà vẫn đặt ái quốc lên hàng đầu. Họ đòi hỏi nhà vua trước hết phải
trung thành với tổ quốc và trung hậu với nhân dân.
Nho giáo - một học thuyết chính trị, đạo đức ra đời từ Trung Quốc, trải
qua hơn 25 thế kỷ tồn tại và phát triển nhưng vẫn cịn đó như sự thách thức
với thời gian. Nho giáo về sau đã khác nhiều so với lúc mới xuất hiện, nhưng
nó vẫn có điểm chung - đó là một học thuyết chính trị, đạo đức của giai cấp
phong kiến Trung Quốc, chủ trương dùng "lễ trị", "đức trị" để quản lý xã hội.
Những nguyên tắc đạo đức của Nho giáo như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín vừa là
chuẩn mực để điều chỉnh hành vi của con người, vừa là những biện pháp để
bảo đảm cho chính trị, nhân nghĩa được thực hiện. Bởi vậy, Nho giáo không
đưa ra định nghĩa nào về khái niệm "Đạo làm người", nhưng qua các tác
phẩm kinh điển, qua tư tưởng của các đại biểu Nho giáo có thể thấy, khái
niệm "Đạo làm người" đã được Nho giáo đi sâu khai thác.

Với Nho giáo, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín được đặt ra trong quan hệ của con
người với chính bản thân mình để tu thân, để trở thành người qn tử, cịn
chính danh là yêu cầu đạo đức được đặt ra trong quan hệ với người khác (với
xã hội) để mỗi người thực hiện đúng việc, đúng phận sự của mình làm cho xã

11


Tiểu luận triết học

hội ổn định, phát triển. Những quan niệm này của Nho giáo cho đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và có ý nghĩa thời sự của nó.
Dưới tác động của những quy luật kinh tế khách quan của kinh tế thị
trường, nhiều người vì chạy theo lợi nhuận mà đơi khi làm lợi cho mình
nhưng lại làm hại cho người khác, điều này là trái với những tư tưởng của đạo
Nho.
Trong kinh doanh, việc đạt chữ Tín lên đầu có ý nghĩa rất lớn nhất là
trong giai đoạn hiện nay, chúng ta mở cửa quan hệ với các nước trên trế giới,
với việc đầu tư của các nhà tư bản lớn trên thế giới thì một sự bất tín vạn sự
bất tin.
Về vấn đề đạo lý giữa cha mẹ và con cái trong gia đình thì những tư
tưởng của Nho gia sống mãi và có giá trị trong mọi thời đại.
Hiện nay, trong mối quan hệ thầy trò, mối quan hệ giữa người với
người trong xã hội, chữ “lễ”, chữ “nghĩa” đôi khi đã bị xem nhẹ. Do vậy, vận
dụng những tư tưởng đạo đức của Nho gia vào việc giáo dục con người là hết
sức có ý nghĩa.
Nguyên tắc chính trị là tư tưởng chỉ đạo việc trị quốc, bình thiên hạ,
phản ánh hệ tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Quy phạm đạo đức, luân lý
theo quan niệm của Nho gia chính là tam cương, ngũ thường, trung hiếu, tam
tòng, tứ đức,… Đạo làm người của Nho gia bao quát các mối quan hệ trong

xã hội ở một phạm vi rất rộng. Một người có đạo đức, có “đạo làm người” là
cơ sở để người đó thực hiện tốt mối quan hệ trong quan hệ với tự nhiên, trong
ứng xử xã hội, ứng xử với chính bản thân mình theo danh phận
Nho gia gọi con người đạt được các chuẩn mực đó là “người quân tử”,
“đấng trượng phu”. Với Khổng tử, người quân tử không thuần túy chỉ địa vị
xã hội của người đó, mà chủ yếu chỉ phẩm chất đạo đức mà người đó đạt
được.

12


Tiểu luận triết học

Chương II
TRIẾT HỌC NHO GIA VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU TIẾN TRÌNH NỀN CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NƯỚC TA
1. Cải cách hành chính và thực trạng cải cách hành chính ở nước
ta.
1.1 Sự cần thiết phải cải cách nền hành chính.
Hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước nhằm
hiện thực hóa đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hành chính nhà nước chính là nâng cao vai trị
lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội, là hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Cải cách nền hành chính nhà nước là một q trình liên tục mang tính
định nhằm làm cho hoạt động thực thi quyền hành pháp ngày càng thích ứng
hơn với yêu cầu của sự vận động và phát triển nền kinh tế, xã hội của mỗi
quốc gia. Cải cách hành chính nhà nước là một bộ phận của cải cách tổ chức
và hoạt động của hệ thống bộ máy nhà nước nói chung.
Bản thân nền hành chính nhà nước của Việt Nam đựơc hình thành và

vận hành qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau, tuy đã có nhiều đóng góp cho
việc quản lý đất nước, nhưng thực tế cũng cho thấy, khi bước vào thời kỳ hịa
bình xây dựng và trước địi hỏi quản lý nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường, nó ngày càng bộc lộ nhiều khuyết tật có tính cố hữu, ngày càng bộc lộ
sự xa dân, quan liêu. Đặc biệt bộ máy rất cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực
và hiệu quả, thủ tục điều hành rất nặng nề, gây phiền hà cho dân. Chế độ và
trách nhiệm công vụ không rõ ràng, thiếu minh bạch. Cán bộ, công chức có
nhiều người sách nhiễu dân, lãng phí và tham nhũng ngày càng nên phổ biến,
có tổ chức và trở thành quốc nạn. Như vậy, Việt Nam muốn phát triển không
thể nào không tiến hành cải cách để đổi mới nền hành chính nhà nước. Thật

13


Tiểu luận triết học

ra, trước khi đưa ra chiến lược cải cách hành chính, vào thời kỳ gian khó nhất
của đất nước sau ngày thống nhất, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh
một cách cơng khai trong tồn Đảng rằng, “Đảng phải thay đổi, phải đổi mới,
đất nước phải tiến hành cải cách nhiều mặt”.
Lý do khách quan
- Xu hướng phát triển chung của các nhà nước là phải thu hẹp phạm vi hoạt
động của bộ máy hành chính.
- Trình độ dân trí và tinh thần dân chủ ngày càng cao đã đặt ra những yêu cầu
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính và người dân càng
tham gia trực tiếp vào công việc của cơ quan hành chính;
- Xu thế tồn cầu hóa hố và hội nhập kinh tế đã đòi hỏi hoạt động hành chính
nhà nước phải thay đổi cả về hình thức, nội dung; phải tuân theo nhiều thông
lệ quốc tế trong hoạt động hành chính nhà nước.
- Khu vực phi chính phủ và kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, tạo cơ hội để

họ tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực hoạt động vốn do nhà nước độc
quyền.
Lý do chủ quan
Đó chính là những yếu kém, hạn chế, khơng phù hợp từ bên trong bộ
máy hành chính nhà nước. Kết quả phân tích cho thấy những hạn chế bên
trong nển hành chính như sau:
Một là, nền hành chính cơng truyền thống vốn có sức ì và trì trệ, nhất là
tồn tại trong cơ chế tập trung, quan liêu. Nay chuyển sang nền kinh tế thị
trường nhưng cơ chế xin- cho vẫn tồn tại trong hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước.
Hai là, hệ thống thể chế hành chính nhà nước, nhất là thể chế về kinh tế
rất chậm được đổi mới.
Ba là, tổ chức bộ máy quản chính nhà nước cồng kềnh, kém hiệu lực
cần phải được tổ chức lại cho phù hợp với hoàn cảnh mới.
Bốn là, phương thức tác động của chủ thể hành chính đến các đối tượng
quản lý cần được thay đổi theo yêu cầu quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội;
14


Tiểu luận triết học

Năm là, hành chính nhà nước có nhiều cơ hội lựa chọn phương thức
quản lý của mình do có sự trợ giúp của cơng nghệ mới.
1.2 Quan điểm, mục tiêu và yêu cầu cải cách hành chính
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ
trương về cải cách hành chính và ln xác định cải cách hành chính là một
khâu quan trọng để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước đã xây dựng và
tổ chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch về cải cách hành chính theo
các chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất là chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách

hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, cần quán triệt đầy đủ quan điểm,
mục tiêu và yêu cầu cơ bản sau:
- Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi
mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lanh đạo của Đảng, cải cách bộ
máy nhà nước nói chung.
- Cải cách hành chính phải đáp ứng u cầu hồn thiện nhanh và đồng
bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tạo thuận
lợi nhất cho cá nhân, tổ chức và góp phần tích cực chống quan liêu, phịng và
chống tham nhũng.
- Thơng qua cải cách, tiếp tục phối hợp chức năng, nhiệm vụ trách
nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân cơng, phân cấp và phối
hợp, phân định trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, giữa chính quyền đơ
thị chính quyền nơng thôn, giữa tập thể và người đứng đầu cơ quan hành
chính.
- Xây dựng một đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
- Cải cách phải hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại, ứng
dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học – công nghệ thông tin.
2. Ảnh hưởng của Tư tưởng triết học Nho gia đến tiến trình cải
cách nền hành chính nước ta.

15


Tiểu luận triết học

Quan điểm về đạo làm người được Nho Gia thể hiện qua thuyết chính
danh. Theo thuyết này tương ứng với từng danh, từng cặp danh là một hệ
thống những yêu cầu mà con người phải thực hiện.
Tư tưởng Nho gia xây dựng hệ thống nguyên tắc đạo đức rất điển hình:

Nhân, nghĩa, lễ, trí, dũng.
Phạm trù trung tâm là nhân: hết lòng tận tụy yêu thương con người, biết
cảm thông, biết thấu hiểu.
Lễ theo nghĩa rộng là là nghi thức, qui chế, kỷ cương, trật tự, tôn ti
của cuộc sống chung trong cộng đồng và cả lối xư sử hàng ngày. Với nghĩa
rộng này lễ là cơ sở của một xã hội có tổ chức, đảm bảo cho sự phân định trên
dưới rõ ràng. Mỗi cán bộ công chức đều tuân theo tôn ty trật tư, kỷ cương
phép tắc và ln có thái độ tơn trọng, hịa nhã trong khi cư xử với mọi người
sẽ góp phần việc thực hiện cải cách hành chính thành cơng.
+ Nghĩa: Cư xử với mọi người cơng bình theo lẽ phải.
+ Trí: Sự hiểu biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
+ Dũng: nói lên tinh thần hăng hái, gan dạ dám hy sinh, quyết tâm khắc
phục khó khăn. dũng biểu hiện sức mạnh và ý chí thực hiện mục địch của
mình Biết làm theo cái đúng, giữ đúng lời, đáng tin cậy.
Để cơng cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam có bước tiến mới về bề
sâu thì bên cạnh đổi mới tư duy, quan trọng hơn cả chính là “xây dựng con
người hành chính”.
Nhất là trong xã hội hiện nay vẫn tồn tại những tệ nạn, tiêu cực, thối
hóa biến chất của một số bộ phận cán bộ cơng chức. Người dưới khơng kính
trọng người trên, thế hệ sau không biết ơn thế hệ trước. Đội ngũ cán bộ cơng
chức cịn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực
chun mơn, kỹ năng hành chính, phong cách làm việc chậm đổi mới, tệ quan
liêu tham nhũng sách nhiễu nhân dân vẫn còn diễn ra. Những tư tưởng đạo
đức của Nho gia có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục lối sống cho cán bộ
công chức, loại bỏ dần tư tưởng tiêu cực trên để xây dựng nền hành chính
tương lai mạnh, trong sạch.
16


Tiểu luận triết học


Trong cải cách hành chính ngồi việc xây dựng đạo đức con người thì
việc đào tạo bồi dưỡng và sử dụng người tài là một yếu tố rất quan trọng trong
cải cách hành chính. Thuyết Thượng Hiền là một chính sách thiết thực và đem
lại nhiều hiệu quả trong cuộc sống. Tạo cho đất nước ngày một tốt đẹp hơn,
con người càng hồn thiện hơn, có khả năng và điều kiện để thể hiện tài năng
vốn có của mình. Tư tưởng Thượng Hiền này dần dần trở thành tư tưởng
chính cho những nhà lãnh đạo, để tuyển dụng những người hiền tài, đức độ
vào trong sự nghiệp xây dựng của mình. Cho cả sự nghiệp xây dựng đất nước.
Trong xã hội ngày nay, việc tuyển dụng nhân tài cũng không kém phần quan
trọng. Nhà nước đã chủ trương lấy việc giáo dục làm nền tảng cho sự phát
triển của đất nước. Trong mọi lĩnh vực của xã hội, những người có tài thường
được đề cao và đưa lên nắm giử những chức vị quan trọng. Người có tài về
quân sự thì tuyển chọn vào quân sự, người giỏi kinh doanh thì tuyển chọn vào
lĩnh vực kinh doanh bn bán, người có kiến thức và học vị thì tuyển chọn
vào làm giáo viên để truyền đạt kiến thức cho hậu thế. Những người giỏi hơn
thì tuyển chọn họ vào những cơng trình nghiên cứu để sáng tạo ra những sản
phẩm giá trị để lại cho đời. Tóm lại, mỗi người mỗi việc. Tùy theo khả năng
và năng lực của họ để mà tuyển chọn vào những công việc thích hợp, có như
vậy họ mới phát huy hết khả năng của họ. Nhờ vào tài năng của họ công việc
sẽ được tiến hành một cách thuận lợi và đạt được những kết quả tốt đẹp như
mong muốn.
Thế nên, trong xã hội ngày nay chính sách Thượng Hiền cũng được lấy
làm đầu để phát triển và xây dựng đất nước, con người trong mọi thời đại.
Đặc biệt là thời đại đất nước ta trong giai đoạn đang phát triển này, cần có
một lực lượng  nhân tài thật lớn để phát triển đất nước trong mọi lĩnh vực, đủ
khả năng để sánh vai với các đất nước khác trên thế giới.
  

 Mà những người khơng tài năng thì khơng thể lãnh đạo có hiệu quả


được. Nên cũng cần có nhân tài để đưa họ vào trong công cuộc xây dựng đất
nước. Nếu muốn đất nước mau phát triển và giàu mạnh thì đất nước đó cần
17


Tiểu luận triết học

phải có nhiều nhân tài. Khơng những vậy mà cịn đào tạo bồi dưỡng những
nhân tài đó, cho ra nước ngoài học tập… để đem kinh nghiệm về phục vụ, xây
dựng đất nước. Nhằm đổi mới và hồn thiện đường lối chính sách sao cho có
khả năng thúc đẩy sự phát triển  của xã hội về kinh tế lẫn chính trị, phản ánh
được nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân. Mặt khác, lựa chọn
những cán bộ ưu tú, thực sự có cơng tâm, vì dân vì nước, có năng lực, loại bỏ
những phần tử lợi dụng chức quyền cho cá nhân và gia đình mình, làm cho
đội ngũ cán bộ đương chức trong sạch và vững vàng. Tạo nên một Đất nước
giàu mạnh, hết lòng vì dân vì nước. Thế nên tuy là nhân tài cần được trong
dụng những mà cần phải thanh lọc cho được trong sạch, có vậy thì đất nước
mới phát triển một cách toàn vẹn và hiệu quả được.
          Với sự tuyển chọn người tài đức vào trong vai trò lãnh đạo của mọi lĩnh
vực của đất nước thì sẽ tạo nên một đất nước giàu mạnh.
3. Giải pháp thúc đẩy thực hiện cải cách nền hành chính nước ta.
Một trong những giải pháp để đẩy nhanh tiến trình cải cách nền hành chính
nước ta là xây dựng đội ngũ cán bộ công chức ở các cấp các ngành từ trung
ương đến địa phương phù hợp với yêu cầu quản lý hành chính hiện đại đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và tận tâm tận tụy phục vụ nhân dân.
Để xây dựng được đội ngũ cán bộ cơng chức có lập trường chính trị vững
vàng, trình độ chun mơn, ý thức và đạo đức nghề nghiệp cao, phù hợp với
nền hành chính hiện đại cần phải tiến hành các giải pháp sau:
Một là: Tiến hành ngay công tác tuyển chọn thu hút nhân tài; giảm biên

chế những cán bộ công chức không đáp ứng yêu cầu, cần đào tạo lại để
thường xuyên nâng cao trình độ về mọi mặt cho cán bộ cơng chức. Bố trí sắp
xếp lại cơng việc phù hợp với năng lực từng người. Thường xuyên có kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cả về lý luận chính trị và
chun mơn nghiệp vụ.

18


Tiểu luận triết học

Hai là: Làm chuyển biến, nâng cao ý thức và thái độ văn hóa hành chính
phục vụ nhân dân, tăng cường giám sát đội ngũ cán bộ cơng chức theo qui
định pháp luật.
Ba là: Phải chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhằm thúc đẩy cải
cách hành chính. Cán bộ cơng chức phải được đào tạo căn bản có hệ thống,
đủ trình độ kỹ năng thích hợp để giải quyết nhanh nhạy, khoa học vấn đề đáp
ứng u cầu cơng việc
Tóm lại, Những tư tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế kỷ VI
trước công nguyên, trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho gia đã để lại
cho đời những tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức chính trị – xã hội rất sâu
sắc và vô cùng quý giá đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình cải cách
hành chính nước ta. Chúng ta tìm hiểu về những tư tưởng của Nho Gia để tự
thân rèn luyện, hoàn thiện bản thân mình.

19




×