Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá hiệu quả điều trị ghép tế bào gốc đồng loài trên người bệnh suy tủy xương tại Bệnh viện Truyền máu Huyết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.12 KB, 8 trang )

của Shreenivas [10], Mahdi Jalili
[11]. Và thời gian sống không tái phát bệnh –
không GvHD (GRFS) sau 5 năm cũng cao
với tỷ lệ sống là 66.6%. Tỷ lệ sống sót trong
nghiên cứu của chúng tơi cao có lẽ do số
lượng bệnh nhân tương đối thấp nhưng được
lựa chọn để ghép rất kỹ lưỡng. Lucasciulli và
cộng sự (2007) đã cho thấy mối liên quan
giữa sự cải thiện sống còn với những yếu tố
như trẻ tuổi, ghép từ anh chị em trong gia
đình, thời gian trước ghép ngắn và khơng xạ
tồn thân [1].
Trong nghiên cứu chúng tôi, GvHD cấp
xảy ra ở 27.3% trường hợp, cao hơn nghiên
cứu Shreenivas và Hernandes Boluda. Điều
này có thể giải thích là trong nghiên cứu này,
tất cả nguồn tế bào gốc được thu thập từ máu
ngoại vi nên nguy cơ GvHD tăng lên. Trong
nghiên cứu của Eapen (2011) và Bacigalupo
(2012) đã so sánh hiệu quả điều trị ghép trên
bệnh nhân suy tuỷ xương từ nguồn tế bào
gốc tuỷ xương và máu ngoại vi cho thấy
GvHD cấp xảy ra nhiều hơn ở nhóm bệnh
nhân được ghép tế bào gốc máu ngoại vi [12,
13]. Nhiễm trùng nặng, tái hoạt CMV trong
100 ngày sau ghép chiếm 30.3% và 42.4%
trường hợp tương tự như trong nghiên cứu
của Shreenivas (2014) ở Ấn Độ, có lẽ do mơi
trường khí hậu nhiệt đới ở 2 quốc gia này
[10]. Trong nghiên cứu của chúng tôi thì có 1


trường hợp tử vong sau ghép do nhiễm trùng
nặng trong ghép và khơng có trường hợp nào
bị VOD. Tử vong sau ghép trong các nghiên
cứu khác chủ yếu là do nhiễm trùng.
Ghép tế bào gốc đồng loại là phương
pháp điều trị rất hiệu quả cho bệnh nhân suy
tuỷ xương trẻ tuổi có người cho phù hợp
HLA phù hợp hoàn toàn và đã cho kết quả
khá tốt với tỷ lệ mọc mảnh ghép 96.9%, tỷ lệ
sống sót khơng biến cố sau 5 năm là 90.5%
cao hơn hẳn so với phương pháp điều trị ức
chế miễn dịch là 77% như trong nghiên cứu
của Võ Thị Kim hoa năm 2016 [14]. Nghiên
cứu phân tích tổng hợp của Yangmin Zhu và
cộng sự (2020) cho thấy mặc dù ghép tế bào
gốc tạo máu cho thời gian sống lâu hơn điều
trị IST, tuy nhiên việc lựa chọn ghép ưu tiên
vần cần đánh giá người cho kỹ, tuổi bệnh
nhân, nguy cơ tái phát hay chuyển dòng sau
IST, khả năng sử dụng eltrombopag [15].
Một trong những vấn đề quan trọng sau ghép
cho những bệnh nhân bệnh suy tuỷ xương là
vấn đề thải ghép với tỷ lệ khoảng 15%. Tỷ lệ
thải ghép trong nghiên cứu chúng tôi là
9.1%. Một ca được ghép lần 2 với cùng
người cho sau khi thải ghép vào ngày 100 và
cho mọc mảnh ghép với chimerism là 100%.
Bệnh nhân này 38 tuổi đã được truyền máu
với số lượng nhiều trước đó (16 đơn vị HCL
và 95 đơn vị TCGT) được ghép tế bào gốc

máu ngoại vi với phác đồ điều kiện hoá Cy +
ATG và khơng có phát triển GvHD sau ghép.
Một nghiên cứu của Cesaro S và cộng sự
(2015) cho thấy ghép đồng loài lần 2 là lựa
chọn cứu vớt phù hợp sau thải ghép trong
điều trị bệnh suy tuỷ xương và cho kết quả
tốt với thời gian sống toàn bộ sau 5 năm là
60.7% [16]. Một ca thải ghép muộn sau hơn
5 năm với giảm 3 dòng tế bào máu và được
điều trị thành công với điều trị ức chế miễn
dịch phối hợp ATG ngựa với Cyclosporin A.
63


KỶ YẾU CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CHUN NGÀNH HUYẾT HỌC - TRUYỀN MÁU

Bệnh nhân này được điều trị với phác đồ
điều kiện hố Cy + ATG, có phát triển
GvHD cấp độ 2 sau ghép, có chimerism hỗn
hợp của cả người cho và người nhận (dựa
vào kỹ thuật FISH) sau ghép 5 năm.
V. KẾT LUẬN
Ghép tế bào gốc đồng loại là phương
pháp điều trị khá hiệu quả ở những bệnh
nhân trẻ tuổi mắc bệnh suy tuỷ xương. Do
những biến chứng của bệnh trước khi được
ghép lại rất nặng nề vì giảm tiểu cầu, giảm
bạch cầu nếu khơng tiến hành điều trị kịp
thời nên khi bệnh nhân trẻ tuổi được chẩn
đốn suy tủy, chúng ta cần chuẩn bị tìm

người cho tế bào gốc sớm để lên kế hoạch
ghép sớm. Kết quả điều trị trong nghiên cứu
của chúng tôi khá tốt và cho thấy cơ hội chữa
khỏi bệnh nếu bệnh nhân được ghép tế bào
gốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A. Locasciulli, R. Oneto, A. Bacigalupo, G.
Socie, E. Korthof, A. Bekassy, H.
Schrezenmeier, J. Passweg and M. Fuhrer
(2007). Outcome of patients with acquired
aplastic anemia given first line bone marrow
transplantation
or
immunosuppressive
treatment in the last decade: a report from the
European Group for Blood and Marrow
Transplantation (EBMT). Haematologica.
92: 11-8.
2. M. E. Young, V. Potter, A. G.
Kulasekararaj, G. J. Mufti and J. C.
Marsh (2013). Haematopoietic stem cell
transplantation for acquired aplastic anaemia.
Curr Opin Hematol. 20: 515-20.
3. Passweg J., Bacigalupo A., L. A. and e. al.
(2008). HSCT for aplastic anemia in adults.
Haematopoietic stem cell transplantation,
Forum service editor. 5: pp 480 - 489.

64


4. M. Aljurf, H. Al-Zahrani, M. T. Van Lint
and J. R. Passweg (2013). Standard
treatment of acquired SAA in adult patients
18-40 years old with an HLA-identical
sibling donor. Bone Marrow Transplant. 48:
178-9.
5. P. Scheinberg and et al. (2012). Aplastic
anemia:
therapeutic
updates
in
immunosuppression and transplantation.
Hematology Am Soc Hematol Educ
Program. 2012: 292-300.
6. P. Scheinberg and N. S. Young (2012).
How I treat acquired aplastic anemia. Blood.
120: 1185-1196.
7. L. M. Burroughs, A. E. Woolfrey, B. E.
Storer, H. J. Deeg, M. E. D. Flowers, P. J.
Martin, P. A. Carpenter, K. Doney, F. R.
Appelbaum, J. E. Sanders and R. Storb
(2012). Success of allogeneic marrow
transplantation for children with severe
aplastic anaemia. British Journal of
Haematology. 158: 120-128.
8. J. Hernandez-Boluda, P. Marin, E.
Carreras, J. Aguilar, A. Granena, C.
Rozman and E. Montserrat (1999). Bone
marrow transplantation for severe aplastic
anemia: the Barcelona Hospital Clinic

experience. Haematologica. 84: 26-31.
9. Võ Thị Thanh Bình (2019). Đánh giá kết
quả ghép tế bào gốc đồng loại điều trị bệnh
suy tủy xương và đái huyết sắc tố niệu tại
Viện Huyết học - truyền máu TƯ. Tạp chí Y
học Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học về
tế bào gốc toàn quốc lần thứ V. Tập 477: 81
- 90.
10. S. S. Raut, S. A. Shah, K. A. Patel, K. M.
Shah, A. S. Anand, S. S. Talati, H. P.
Panchal, A. A. Patel, S. K. Parikh, B. B.
Parekh and S. N. Shukla (2015). Improving
Outcome of Aplastic Anaemia with HLAMatched Sibling Donor Hematopoietic Stem


TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 520 - THÁNG 11 - SỐ ĐẶC BIỆT - 2022

11.

12.

13.

14.

15.

Cell Transplantation: An Experience of
Gujarat Cancer and Research Institute
(GCRI). Indian Journal of Hematology &

Blood Transfusion. India, Springer India. 31:
1-8.
Mahdi Jalili, Kamran and et (2011).
Hematopoietic Stem Cell Transplantation in
patients with severe acquired aplastic
anemia: Iranian experiences. International
Journal of Hematology Oncology and Stem
Cell Research. 5.
M. Eapen, J. Le Rademacher, J. H. Antin,
R. E. Champlin, J. Carreras, J. Fay, J. R.
Passweg, J. Tolar, M. M. Horowitz, J. C.
Marsh and H. J. Deeg (2011). Effect of
stem cell source on outcomes after unrelated
donor transplantation in severe aplastic
anemia. Blood. 118: 2618-21.
A.
Bacigalupo,
G.
Socié,
H.
Schrezenmeier, A. Tichelli, A. Locasciulli,
M. Fuehrer, A. M. Risitano, C. Dufour, J.
R. Passweg, R. Oneto, M. Aljurf, C. Flynn,
V. Mialou, R. M. Hamladji and J. C. W.
Marsh (2012). Bone marrow versus
peripheral blood as the stem cell source for
sibling transplants in acquired aplastic
anemia: survival advantage for bone marrow
in all age groups. Haematologica, Ferrata
Storti Foundation. 97: 1142-1148.

Võ Thị Kim Hoa (2016). Đánh giá hiệu quả
điều trị suy tuỷ xương với antithymocyte
globulin kết hợp cyclosporine trong 10 năm
(2005 - 2015). Tạp chí Y học Việt Nam: 748
- 759.
Y. Zhu, Q. Gao, J. Hu, X. Liu, D. Guan
and F. Zhang (2020). Allo-HSCT compared

with immunosuppressive therapy for
acquired aplastic anemia: a system review
and meta-analysis. BMC Immunol. 21: 10.
16. S. Cesaro, R. Peffault de Latour, G.
Tridello, M. Pillon, K. Carlson, F. Fagioli,
J. P. Jouet, M. B. Koh, I. S. Panizzolo, S.
Kyrcz-Krzemien,
J.
Maertens,
A.
Rambaldi, B. Strahm, D. Blaise, A.
Maschan, J. Marsh and C. Dufour (2015).
Second allogeneic stem cell transplant for
aplastic anaemia: a retrospective study by the
Severe Aplastic Anaemia Working Party of
the European Society for Blood and Marrow
Transplantation. Br J Haematol. 171: 606-14.
17. S. Maury, A. Bacigalupo, P. Anderlini, M.
Aljurf, J. Marsh, G. Socié, R. Oneto and J.
R. Passweg (2009). Improved outcome of
patients older than 30 years receiving HLAidentical sibling hematopoietic stem cell
transplantation for severe acquired aplastic

anemia
using
fludarabine-based
conditioning:
a
comparison
with
conventional
conditioning
regimen.
Haematologica, Ferrata Storti Foundation.
94: 1312-1315.
18. R. Srinivasan, Y. Takahashi, J. P. McCoy,
I. Espinoza-Delgado, C. Dorrance, T.
Igarashi, A. Lundqvist, A. J. Barrett, N. S.
Young, N. Geller and R. W. Childs (2006).
Overcoming graft rejection in heavily
transfused and allo-immunised patients with
bone marrow failure syndromes using
fludarabine-based
haematopoietic
cell
transplantation. Br J Haematol. 133: 305-14.

65



×