BÚT KÝ TRIẾT HỌC CỦA LÊNIN
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM
Tác phẩm gồm những tài liệu được Lênin viết trong khoảng thời gian
1895-1916, trong đó chủ yếu là 1914-1916. Đây khơng phải là một tác phẩm
hồn chỉnh mà là tập hợp những tư liệu của Lênin trong quá trình chuẩn bị viết
một tác phẩm hồn chỉnh.
Sự ra đời của tác phẩm Bút ký triết học là một tất yếu lịch sử. Trong thời
kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Lênin phát triển phép biện chứng duy vật và
áp dụng vào phân tích, khái quát những kinh nghiệm lịch sử xã hội của thời kỳ
mới , để nhận thức những vấn đề xã hội chuẩn bị về lý luận cho Cách mạng
Tháng 10.
Tác phẩm Bút ký triết học ra đời còn để đáp ứng một yêu cầu bức thiết là
đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, xét lại trong Quốc tế II mưu toan phủ nhận
chủ nghiac Mác nói chung và triết học Mác nói riêng.
Trong tác phẩm Bút ký triết học, Lênin tập trung nghiên cứu, phát triển
những vấn đề của phép biện chứng. Đây là một cái mốc quan trọng của sự phát
triển triết học Mác. Tác phẩm này là sự tiếp tục phát triển những luận điểm trong
tác phẩm “ Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, cùng với
một loạt tác phẩm khác làm cơ sở lý luận cho việc nhận thức thực tiễn xã hội.
Những vấn đề lý luận trong tác phẩm cũng là cơ sở phương pháp luận để
Lênin nghiên cứu các vấn đề khác về kinh tế và chính trị của thời đại đế quốc
chủ nghĩa.
Tác phẩm là một tập tư liệu nghiên cứu về triết học của Lênin. Do vậy,
gồm những đoạn trích dài về nội dung cơ bản những tác phẩm triết học tiêu biểu
của Mác, Ăngghen, Hêghen, Phoiơbắc, Aritxtốt, Látxan…Bên cạnh đó, Lênin
ghi những nhận xét, phê phán, khái quát và kết luận quan trọng. Chính vì vậy tác
phẩm Bút ký triết học là kho tàng lý luận triết học rất phong phú và có giá trị to
lớn.
II KẾT CẤU VÀ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1.Kết cấu của tác phẩm
Bút ký triết học gồm những tập ghi chép được chia thành 3 phần:
Phần 1: Gồm 9 bài tóm tắt các tác phẩm triết học của Mác, Ăngghen,
Phoiơbắc, Hêghen, Látxan, Arítxtốt…Trong phần này có hai đoạn trích sơ thảo
rất quan trọng là dàn mục của phép biện chứng và về vấn đề phép biện
chứng.
Phần 2: Gồm những bài ghi chép , nhận xét và phê bình về các bài báo,
các sách từ 1903 đến 1916.
Phần 3: Gồm những ý kiến, những bút tích ghi trong các sách từ
1908-1911.
Trong đó, cần chú ý là ghi chép về Gia đình thần thánh… năm 1895, tóm
tắt khoa học lơgích của Hêghen 1914, tóm tắt dàn mục phép biện chứng của
Hêghen 1915, tóm tắt các sách Phoiơbắc 1915, tóm tắt các bài giảng lịch sử triết
học của Hêghen 1915, tóm tắt các sách của Látxan, siêu hình học của Arxtốt
1915, ghi chú, trích dịch những đoạn về các tác phẩm của các tác giả Đức, Pháp,
Anh…
Đây chính là một trong những kết quả hoạt động nghiên cứu lý luận của
Lênin để chuẩn bị cho phong trào cách mạng của giai cấp vô sản.
2. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm
Bút ký triết học có nội dung rất phong phú, trong đó tư tưởng trung tâm là
phép biện chứng. Ngoài ra tác phẩm còn bàn đến vấn đề về lý luận nhận thức, lơ
gíc biện chứng, một số quan điểm duy vật về tự nhiên và lịch sử, về mối quan hệ
giữa triết học và các khoa học khác…
Đây chỉ là một tập tư liệu rất quý giá nhưng chưa phải là một tác phẩm
hoàn chỉnh nên khi khai thác cần phải được hết sức lưu ý trong xem xét. Đòi hỏi
phải đặt trong mạch tư duy của các tác phẩm, tác giả mà Lênin nhận xét, đánh
giá; mặt khác, phải đặt trong hệ thống những quan điểm cơ bản của Lênin mới
hiểu được thực chất của vấn đề.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM
1.Những vấn đề về phép biện chứng.
Về khái niệm phép biện chứng
Lênin bổ sung, phát triển và làm sâu sắc thêm khái niệm phép biện
chứng. Vấn đề phép biện chứng là khoa học về sự phát triển chính là nội dung cơ
bản của tác phẩm. Đến giai đoạn Lênin, vấn đề khơng cịn là thừa nhận hay
không thừa nhận sự phát triển mà là ở chỗ hiểu thế nào về sự phát triển.
Lênin chỉ ra thực chất sự khác biệt giữa quan niệm biện chứng và quan
niệm siêu hình về sự phát triển, là cách giải thích khác nhau về nguồn gốc động
lực sự phát triển. Lênin viết : “Hai quan niệm cơ bản về sự phát triển (sự tiến
hoá) : sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự phát triển
coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi cái thống nhất thành
những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt đối lập
ấy).
Với quan niệm thứ nhất về sự vận động, sự tự vận động, động lực của nó,
nguồn gốc của nó, động cơ của nó nằm trong bóng tối (hay là người ta đem
nguồn gốc ấy đặt ra bên ngoài – thượng đế, chủ thể etc… ). Với quan niệm thứ
hai, sự lưu ý chủ yếu lại hướng chính vào sự nhận thức nguồn gốc của “tự vận
động”1
Lênin đánh giá “Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, còn quan
niệm thứ hai là sinh động, vì nó cho ta chìa khố của sự “tự vận động” của tất
1
V.I.Lênin tồn tập, tập 29, tr 379. NxbTBM.1981.
thảy mọi cái đang tồn tại; chỉ có nó mới cho ta “chìa khóa” của “những bước
nhảy vọt” của sự “gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hố thành
những mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.2
Lênin đi vào bản chất của phép biện chứng sau khi gạn lọc triết học
Hêghen, khai thác 16 yếu tố của phép biện chứng, Lênin đưa ra quan niệm phép
biện chứng. “Người ta có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là lý luận về sự thống
nhất của các mặt đối lập”. Lênin còn khẳng định “Theo nghĩa đen, phép biện chứng là
nghiên cứu mâu thuẫn ngay trong bản chất các đối tượng”3.
Về quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Trong tác phẩm, Lênin bàn đến quy luật nói chung, Lênin cho rằng quy
luật là cái vững bền, được bảo tồn trong hiện tượng “Tính ổn định vững bền của
hiện tượng mà hiện tượng có được trong quy luật” 4. Tư tưởng của Lênin “Quy
luật và bản chất là những khái niệm cùng loại; quy luật là hiện tượng có tính bản
chất, quy luật phản ánh cái n tĩnh của những hiện tượng, quy luật là phản ánh
cái bản chất trong sự vận động…”. Như vậy, Lênin làm sâu sắc thêm những đặc
trưng của quy luật.
Quy luật mâu thuẫn là nội dung trọng tâm nhất của Bút ký triết học.
Lênin chỉ ra những quan niệm và những thí dụ về mặt đối lập. Đặc biệt, chỉ ra
mối quan hệ giữa các mặt đối lập, về sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Ý nghĩa của quy luật mâu thuẫn là chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự phát
triển. “Phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”5.
Lênin chú ý vấn đề sự chuyển hoá các mặt đối lập. “Phép biện chứng là
học thuyết vạch ra những mặt đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở
thành) đồng nhất- trong những điều kiện nào chúng là đồng nhất, bằng cách
2
3
4
5
V.I.Lênin toàn tập, tập 29, tr 379. NxbTBM.1981.
SĐD, tr 268
SĐD, tr 160, 161
SĐD, tr 379
chuyển hoá lẫn nhau”6. Khi nghiên cứu quy luật mâu thuẫn, Lênin không chỉ chú
ý sự thống nhất, sự đấu tranh mà cịn nhấn mạnh sự chuyển hố các mặt đối lập.
“Không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối lập, mà cịn là những chuyển
hố của mỗi quy định, chất, đặc trưng, mặt, thuộc tính sang mỗi cái khác”7.
Về quy luật chuyển hố lượng- chất.
Trong bản tóm tắt khoa học lơ gíc, Lênin đã nhắc lại những tư tưởng quý
giá của Hêghen về các phạm trù như lượng, chất và độ. Khi bàn đến các yếu tố
của phép biện chứng, Lênin coi sự chuyển hoá lượng chất là một yếu tố của phép
biện chứng. Đặc trưng của chuyển hoá lượng chất là bước nhảy vọt, sự đứt đoạn
trong liên tục.
Lênin tập trung chú ý vào bước nhảy vọt trong quá trình vận động, phát
triển.Bước nhảy vọt là cái để phân biệt với quan điểm siêu hình coi phát triển là
sự tiệm tiến về lượng. Lênin cho rằng nếu khơng có bước nhảy vọt thì khơng có
sự phát triển. Bước nhảy là “chìa khố” để nhận thức được sự phát triển. Cùng
với phân tích q trình chuyển hố lượng – chất, Lênin bàn đến các phạm trù
hữu hạn, vô hạn, giới hạn…
Về quy luật phủ định của phủ định.
Trong 16 yếu tố của phép biện chứng, Lênin chỉ ra thực chất của quy luật
phủ định của phủ định là ở “sự lặp lại, ở giai đoạn cao, của một số đặc trưng, đặc
tính của giai đoạn thấp và sự quay trở lại dường như với cái cũ (phủ định của
phủ định)”8. Như vậy, quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng của
sự phát triển, tính kế thừa, tính lặp lại và tiến bộ của sự phát triển.
Lênin chỉ ra sự đối lập giữa phủ định biện chứng và phủ định siêu hình, từ
đó làm rõ đặc trưng của phủ định bịên chứng. “Không phải sự phủ định sạch
trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, khơng phải sự phủ định hồi nghi,
6
7
8
SĐD, tr 116
SĐD, tr 239-240
SĐD, tr 240
không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và bản chất
trong phép biện chứng…khơng, mà là sự phủ định coi như vịng khâu của liên
hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là khơng có
một sự do dự nào, khơng có một sự chiết trung nào”9.
Khi nghiên cứu những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật,
Lênin gắn liền với giải quyết những vấn đề thực tiễn trong lĩnh vực kinh tế,
chính trị. Lênin cho rằng bộ Tư bản là mẫu mực của việc áp dụng phép biện
chứng vào nghiên cứu một xã hội cụ thể- xã hội tư bản chủ nghĩa. Vận dụng
phép biện chứng, Mác phân tích sự vận động của hàng hố trong xã hội tư bản,
qua đó tìm ra quy luật hình thành, phát triển và diệt vong của chủ nghĩa tư bản.
Các phạm trù của phép biện chứng duy vật.
Trong tác phẩm, Lênin không định nghĩa nhưng nêu ra nhiều tư tưởng về
phạm trù. Theo Lênin, phạm trù là một hình thức phản ánh giới tự nhiên trong
nhận thức của con người. Phạm trù là vòng khâu của nhận thức. Phạm trù là
những giai đoạn cao của nhận thức con người. Phạm trù là những điểm nút của
thế giới khách quan và nó thể hiện sự tách khỏi của con người đối với thế giới
khách quan. Lênin viết:”Con người bản năng, người man rợ không tự tách khỏi
giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó…chúng là
những điểm nút của màng lưới, giúp chúng ta nhận thức và nắm vững được màng
lưới”10. Quan niệm của Lênin về tính khách quan và tính lịch sử của phạm trù là
đối lập với quan niệm duy tâm của Hêghen về phạm trù.
Lênin đi sâu phân tích cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Bởi vì, đây là
quan hệ phổ biến nhất mà con người thường gặp phải ngay trong từng hoạt động
đơn giản nhất. Nếu không nắm được quan hệ giữa cái chung và cái riêng thì con
người sẽ vấp phải một cách khơng tự giác trong từng bước đi của mình.
9
SĐD, tr 245
SĐD, tr 102
10
Theo Lênin, cái chung và cái riêng không tách rời nhau. Cái chung là một
bộ phận của cái riêng, cái riêng lớn hơn cái chung. Cái riêng tồn tại trong mối
liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái
riêng.
Trong Bút ký triết học, Lênin còn chú ý đến mối quan hệ biện chứng giữa
tất nhiên và ngẫu nhiên, bản chất và hiện tượng, nguyên nhân và kết quả, nội
dung và hình thức, khả năng và hiện thực. Đồng thời ranh giới giữa các cặp
phạm trù chỉ là tương đối. Ngoài ra, Lênin còn đòi hỏi đi sâu hơn nữa trong
nghiên cứu các phạm trù khác của chủ nghĩa duy vật biện chứng như vật chất và
ý thức, chỉ ra vai trò nền tảng của chúng đối với quá trình nhận thức.
2.Về lý luận nhận thức và lơ gíc học.
Trong tác phẩm, Lênin trình bày phép biện chứng ln ln khơng tách
rời lý luận nhận thức, đồng thời đi sâu một số điểm riêng biệt của lý luận nhận
thức.
Về bản chất nhận thức, theo Lênin nhận thức là sự phản ánh giới tự nhiên
bởi con người. Nhận thức là một quá trình, bao gồm một chuỗi sự trừu tượng hoá
thành các khái niệm, quy luật, đồng thời từng bước đi gần đến chân lý, bao gồm
nhiều vịng khâu của q trình nhận thức. Con đường biện chứng của nhận thức là từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn.
Qua các vòng khâu nhận thức đó con người mới có thể nhận thức được sự vật từ bản
chất cấp 1 đến bản chất cấp 2, cấp 3…
Lênin đặc biệt chú ý vấn đề thực tiễn trong nhận thức, coi thực tiễn là một
vòng khâu trong quá trình nhận thức con người. Lênin nhấn mạnh vai trò quyết
định của thực tiễn đối với lý luận. “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó
có ưu điểm khơng những của tính phổ biến, mà cả tính hiện thực trực tiếp”11.
11
SĐD, tr 230
Lênin đã đưa ra luận điểm về sự thống nhất biện chứng giữa phép biện
chứng, lý luận nhận thức và lơ gíc học. Lênin viết: “Mác khơng để lại cho chúng
ta “lơ gíc học” (với chữ L viết hoa) nhưng để lại cho chúng ta lơgíc của “tư
bản”, và cần phải tận dụng đầy đủ thứ lơgíc đó để giải quyết vấn đề mà chúng ta
đang nghiên cứu. Trong “Tư bản”, Mác áp dụng lơgíc, phép biện chứng và lý
luận nhận thức (khơng cần ba từ : đó là cùng một cái duy nhất) của chủ nghĩa
duy vật”12
Theo quan điểm triết học mác- xít, biện chứng của thế giới khách quan
quy định biện chứng của quá trình nhận thức. Biện chứng là đặc tính vốn có của
sự nhận thức con người. Lý luận nhận thức là một khoa học khi nó dựa trên cơ
sở phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật với tính cách là một học
thuyết phát triển tồn diện nhất bao hàm trong đó lý luận nhận thức.
Lênin đã chỉ ra rằng những khái niệm, phạm trù, quy luật…là những hình
thức của sự phản ánh giới tự nhiên vào trong nhận thức con người. Lơgíc học
chính là khoa học nghiên cứu những hình thức này và phân tích q trình tư duy
lơ gíc. Lơgíc học bao hàm lơ gíc hình thức và lơgíc biện chứng. Lơgíc hình thức
ra đời từ thời cổ đại, nó xem xét các khái niệm, phạm trù trong trạng thái tĩnh, ổn
định, bền vững tương đối. Nó cần thiết cho con người trong một giới hạn nhận
thức nhất định.
Song, mặt khác, thế giới vận động, phát triển theo quy luật biện chứng.
Đòi hỏi trong tư duy của chúng ta, các khái niệm, phạm trù, phán đoán, suy lý…
phải được mài sắc, gọt giũa, mềm dẻo, năng động, tương đối liên hệ với nhau,
thống nhất trong những đối lập”13. Như vậy, phép biện chứng, lý luận nhận thức
và lơ gíc học đồng nhất với nhau. Đây là sự đồng nhất biện chứng, bao hàm sự
khác biệt.
12
13
SĐD, tr 359-360
SĐD, tr 155-156
Trong khi cố gắng khai thác, tiếp thu “cái hạt chân lý sâu sắc trong cái vỏ
thần bí của chủ nghĩa Hêghen”14, Lênin đã phê phán chủ nghĩa duy tâm thần bí
của Hêghen và cho rằng khơng phải biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện
chứng của sự vật mà “biện chứng của sự vật sản sinh ra biện chứng của ý
niệm”15. Trên cơ sở quan điểm đúng đắn về thực tiễn là cơ sở, động lực, mục
đích, tiêu chuẩn của nhận thức, Lênin còn chỉ ra thực tiễn vốn là cơ sở khách
quan của những hình thức tư duy lơ gíc. “Thực tiễn của con người lặp đi lặp lại
hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng lơ
gíc”16.
Lênin đã đứng vững trên lập trường tính đảng của chủ nghĩa duy vật để
đấu tranh chống quan điểm duy tâm, qua đó phát triển chủ nghĩa duy vật mác xít.
Lênin chỉ ra nguồn gốc nhận thức luận và nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa
duy tâm. “Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thơ lỗ, siêu hình thì chủ nghĩa
duy tâm triết học chỉ là một sự ngu xuẩn. Trái lại, theo quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, thì chủ nghĩa duy tâm triết học là một sự phát triển (một sự
thổi phồng, bơm to) phiến diện, thái quá của một trong những đặc trưng, của một
trong những mặt, của một trong những khía cạnh của nhận thức thành một cái
tuyệt đối, tách rời khỏi vật chất, khỏi giới tự nhiên, thần thánh hoá” 17. Ở đây,
quan điểm siêu hình là một trong những nguyên nhân về nhận thức của chủ
nghĩa duy tâm. Bởi vì, theo Lênin, nhận thức của con người, không phải là
đường thẳng, mà là đường cong đi gần tới một loạt vịng trịn xốy ốc của quá
trình nhận thức. Do vậy, “bất cứ đoạn nào, khúc nào, mảnh nào của đường cong
ấy cũng có thể chuyển hoá (chuyển hoá một cách phiến diện) thành một đường
SĐD, tr 164
SĐD, tr 209
16
SĐD, tr 234
17
SĐD , tr 385
14
15
thẳng độc lập, đầy đủ, đường thẳng này… sẽ dẫn đến vũng bùn, đến chủ nghĩa
thầy tu”18.
Lênin còn chỉ ra nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm. Đó là do lợi
ích mà giai cấp thống trị cố tìm cách bảo vệ những sai lầm về lý luận. Lênin phê
phán một số người, do lợi ích của mình đã lợi dụng tính mềm dẻo, linh hoạt một
cách chiết chung, nguỵ biện để chống lại chủ nghĩa Mác. Về sự đối lập giữa
quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm trong giải quyết mối quan hệ giữa các
khái niệm với hiện thực, Lênin viết: “Tính linh hoạt đó áp dụng một cách chủ
quan bằng chủ nghĩa chiết chung và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách
khách quan, nghĩa là phản ánh tính tồn diện của q trình vật chất và sự thống
nhất của q trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự
phát triển vĩnh viễn của thế giới”19.
III. Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM
Bút ký triết học là một tác phẩm chứa đựng một khối tư liệu phong phú
về triết học. Lênin đã tập trung khai thác những tư tưởng triết học từ thời cổ đại
đến cận đại, đặc biệt là hệ thống triết học của Hêghen.
Thơng qua những tóm tắt, ghi chép, nhận xét, Lênin đã đưa ra những ý
kiến rất quan trọng về triết học, góp phần bổ sung, phát triển triết học mác-xít,
đặc biệt là phép biện chứng duy vật. Lênin đã định nghĩa về phép biện chứng,
làm sáng tỏ bản chất, các yếu tố của nó. Lênin phát triển phép biện chứng, chỉ ra
hạt nhân phép biện chứng là quy luật mâu thuẫn. Quan điểm về sự đồng nhất
biện chứng giữa phép biện chứng, lý luận nhận thức và lơ gíc học là một đóng
góp quan trọng của Lênin.
Mặc dù là một tập bút ký chứ không phải là một tác phẩm hoàn chỉnh
nhưng Bút ký triết học là một kiểu mẫu về sự phát triển sáng tạo triết học Mác,
18
19
SĐD, tr 385
SĐD, tr 118
đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, phép siêu hình, đề ra những yêu cầu mới
trong nhận thức và phát triển triết học Mác.