VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LƯƠNG THỊ THU TRANG
THỰC TRẠNG CHĂM SÓC TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH
NƠNG THƠN Ở HUYỆN VŨ THƯ, TỈNH THÁI BÌNH
Ngành: Xã hội học
Mã số: 9 31 03 01
TĨM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2022
Cơng trình được hồn thành tại: Học Viện Khoa học xã hội (Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Hữu Minh
Phản biện 1: GS. TS. Đặng Cảnh Khanh
......................................................................................................
Phản biện 2: PGS. TS. Trịnh Văn Tùng
......................................................................................................
Phản biện 3: TS. Bùi Phương Đình
......................................................................................................
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ họp tại Học
Viện Khoa học xã hội (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
Vào hồi..........giờ.........phút, ngày..........tháng...........năm 2022
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư Viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, nơi con người sinh ra và lớn lên, nơi
thế hệ trẻ được chăm lo cả về thể chất, trí tuệ, đạo đức và nhân cách để
hội nhập vào cuộc sống cộng đồng xã hội. Tuy khơng phải là thiết chế
duy nhất có vai trị chăm sóc trẻ em, nhưng gia đình bao giờ cũng là thiết
chế quan trọng nhất, bởi bản chất của việc chăm sóc trẻ em xuất phát từ
tình thương u, từ trách nhiệm duy trì nịi giống, giữ gìn và phát triển
truyền thống văn hóa của gia đình và của dân tộc. Từ thực tế cuộc sống,
qua những tương tác với các thành viên trong mỗi gia đình, trẻ được
chăm sóc, được truyền thụ những kiến thức, kinh nghiệm sống. Gia đình
chính là cái nôi, là trường học đầu tiên, là môi trường chăm sóc, ni
dưỡng đặc biệt và suốt đời đối với sự phát triển của trẻ.
Tồn cầu hóa khơng chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế mà cịn trên
tồn bộ các lĩnh vực trong đó có chính trị, văn hóa vàxã hội. Gia đình
Việt Nam đương đại đang phải đương đầu với những thách thức liên
quan đến bền vững về mặt cấu trúc và quan hệ giữa các thành viên, giữa
các thế hệ trong gia đình. Các quan niệm xã hội đã có nhiều thay đổi,
nhưng đến nay, gia đình vẫn có một vị trí có thể nói là quan trọng nhất
đối với người Việt Nam nói chung và với trẻ em nói riêng. Cha mẹ có vai
trị quyết định đối với việc hình thành nhân cách trẻ thơng qua q trình
xã hội hóa. Trong việc chăm sóc trẻ em, gia đình đóng vai trị quan trọng
đặc biệt mà cha mẹ là những người thực hiện chính trên tất cả các
phương diện.
Trong mấy thập kỷ qua, gia đình nơng thơn Việt Nam đã có nhiều
biến đổi cùng với q trình phát triển kinh tế, xã hội đất nước. Nền kinh
tế hội nhập cùng với sự điều chỉnh các chính sách tăng trưởng kinh tế, tài
chính, y tế và cung ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe theo xu hướng
thương mại hóa dẫn đến cha mẹ thiếu thời gian chăm sóc trẻ em do áp
lực kiếm sống. Điều đó khiến cho điều kiện và thực trạng chăm sóc trẻ
em trong gia đình nơng thơn cũng biến động với những thuận lợi, khó
khăn và thách thức. Trong khi đó, chưa có nhiều nghiên cứu về chăm sóc
trẻ em trong các gia đình ở nơng thơn, đặc biệt về nhóm trẻ em độ tuổi 611, là nhóm tuổi lần đầu tiên được đến trường phổ thơng để tiếp thu nền
văn hóa nhà trường và được chăm sóc cùng một lúc bởi gia đình và nhà
trường, một cách chuyên sâu, hệ thống. Một số phát hiện về việc chăm
sóc trẻ em chưa có sự nhất quán giữa các nghiên cứu. Vì vậy, đề tài
“Thực trạng chăm sóc trẻ em trong gia đình nơng thơn ở huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình” với mong muốn tìm hiểu thực trạng và các yếu tố
ảnh hưởng tới việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn hướng
đến mục tiêu trẻ được chăm sóc tốt nhất, qua đó nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trẻ để đáp ứng tốt nền kinh tế tri thức là một vấn đề cấp
bách trong giai đoạn hiện nay.
1
2. Mục tiêu, nhiệm vụ, câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu và
khung phân tích
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng
thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình nhằm bảo đảm tốt hơn việc chăm sóc
trẻ em độ tuổi này ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các tài liệu liên quan đến đề tài
- Xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp luận của đề tài
- Tập hợp các tài liệu thực tiễn ở địa bàn nghiên cứu;
- Tiến hành khảo sát (phỏng vấn định lượng và định tính);
- Phân tích và xử lý thơng tin;
- Xây dựng khung phân tích
- Phân tích thực trạng cha mẹ chăm sóc về thể chất cho trẻ em
trong gia đình nơng thơn;
- Phân tích thực trạng cha mẹ chăm sóc về tinh thần cho trẻ em
trong gia đình nơng thơn;
- Phân tích thực trạng cha mẹ chăm sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo
đức, lối sống cho trẻ em trong gia đình nơng thơn;
- Tổng kết, khái quát, đề xuất các khuyến nghị nhằm nêu lên một số
luận điểm và mơ hình cha mẹ chăm sóc trẻ em trong gia đình ở nơng thơn.
2.3 Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: Có sự khác nhau nào về vai trò của người cha và người
mẹ trong việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn ở huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình?
Câu hỏi 2: Các đặc điểm cá nhân của cha mẹ có ảnh hưởng thế nào
đến việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình?
Câu hỏi 3: Các đặc điểm hộ gia đình và cộng đồng có ảnh hưởng
thế nào đến việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình?
Câu hỏi 4: Tuổi và giới tính của trẻ có ảnh hưởng thế nào đến việc
chăm sóc của cha mẹ đối với trẻ trong các gia đình nơng thơn huyện Vũ
Thư, tỉnh Thái Bình?
2.4 Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất: Các hoạt động chăm sóc trẻ em trong các gia
đình nơng thơn ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình mang dấu ấn của người
mẹ đậm nét và rõ ràng hơn so với người cha.
Giả thuyết thứ hai: Cha mẹ có độ tuổi trẻ hơn, học vấn cao hơn, và
làm các cơng việc gắn với văn phịng quan tâm hơn tới việc chăm sóc và
có phương pháp chăm sóc trẻ em trong gia đình phù hợp hơn so với các
nhóm cha mẹ với đặc điểm khác.
2
Giả thuyết thứ ba: Địa bàn nào có điều kiện kinh tế-xã hội phát
triển hơn, gia đình có mức sống tốt hơn thì việc chăm sóc trẻ em trong
gia đình tốt hơn.
Giả thuyết thứ tư: Các hoạt động chăm sóc trẻ em của bậc cha mẹ
ở nông thôn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình vẫn có xu hướng ưu tiên con
bé và con trai nhiều hơn.
2.5 Khung phân tích
- Các đặc trưng
cá nhân của cha
mẹ (độ tuổi, giới
tính, trình độ học
vấn, nghề nghiệp)
- Các đặc điểm
gia đình (mức
sống, số con trong
độ tuổi 6-11)
- Đặc điểm trẻ em
(lứa tuổi, giới tính
trẻ em 6-11 tuổi)
Điều kiện kinh
tế xã hội của
huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
và 3 xã:
- Xã Vũ Tiến
- Xã Nguyên Xá
- Xã Hịa Bình
Cha mẹ chăm sóc
về thể chất cho trẻ
(chăm sóc dinh
dưỡng và y tế cho
trẻ)
Chăm sóc
trẻ em
trong gia
đình nơng
thơn
huyện Vũ
Thư, tỉnh
Thái Bình
Cha mẹ chăm sóc
về tinh thần cho
trẻ (chăm sóc hoạt
động vui chơi giải
trí và đời sống tâm
lý, tình cảm của trẻ
em)
Cha mẹ chăm sóc
trong lĩnh vực tri
thức, đạo đức, lối
sống cho trẻ
3. Đối tượng, phạm vi, khách thể nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng các bậc cha mẹ chăm sóc trẻ em
trong các gia đình có con trong độ tuổi 6-11 tuổi ở nông thôn huyện Vũ
Thư tỉnh Thái Bình.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
3.2.1 Về khơng gian: Luận án tập trung nghiên cứu tại 3 xã của huyện
Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (xã Nguyên Xá, xã Vũ Tiến, xã Hịa Bình)
3
3.2.2 Về thời gian: Thời điểm tiến hành khảo sát thực tế: Từ tháng
5 đến tháng 10 năm 2020.
3.2.3 Về nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về tình hình cha
mẹ chăm sóc trẻ em nói chung và đặc biệt tập trung vào sự chăm sóc của
cha mẹ với trẻ nhóm tuổi 6-11 bởi đây là nhóm trẻ lần đầu tiên trong đời
được đến trường phổ thông để tiếp thu nền văn hóa (được chọn lọc và
sắp xếp thành từng mơn học) bằng phương pháp nhà trường. Nhóm trẻ
em 6-11 tuổi (tương ứng với cấp tiểu học) đòi hỏi sự chăm sóc của cả gia
đình và nhà trường tương đương nhau. Hơn nữa, trong quá trình tổng
quan tình hình nghiên cứu, tác giả nhận thấy có rất ít các nghiên cứu về
nhóm trẻ 6-11 tuổi. Đó là những lý do để tác giả quyết định đặc biệt tập
trung nghiên cứu vào một số hoạt động chăm sóc của cha mẹ với nhóm
trẻ 6-11 tuổi.
Luận án tập trung làm rõ thực trạng chăm sóc trẻ em của các gia
đình cũng như các yếu tố có liên quan tới thực trạng này theo các chỉ báo
đã được xây dựng, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao kiến
thức chăm sóc trẻ em trong các gia đình ở nơng thơn huyện Vũ Thư tỉnh
Thái Bình.
3.3 Khách thể và một số hạn chế của mẫu nghiên cứu
3.3.1 Khách thể của đề tài
- Trẻ em trong các gia đình nơng thơn huyện Vũ Thư.
- Cha mẹ trong các gia đình có con trong độ tuổi 6-11 tuổi ở huyện
Vũ Thư.
- Một số giáo viên ở các trường tiểu học thuộc những địa bàn
nghiên cứu của đề tài.
3.3.2 Một số hạn chế của mẫu nghiên cứu
Do đây là một nghiên cứu trường hợp xem xét các hoạt động cha
mẹ chăm sóc con cái trong các gia đình nơng thơn, nên nghiên cứu có
một số hạn chế sau:
- Trẻ em trong các gia đình nơng thơn có thể được ơng, bà, anh, chị, họ
hàng, hàng xóm… cùng chăm sóc nhưng trong luận án này chỉ tập trung đề
cập và tìm hiểu chủ thể chăm sóc chính là các bậc cha mẹ, nên bức tranh về
“chăm sóc trẻ em trong gia đình nơng thơn” có thể chưa được đầy đủ, sinh
động và cần các nghiên cứu tiếp theo với quy mơ rộng hơn.
- Vì luận án chỉ tiến hành nghiên cứu trên 3 xã nông thôn (trong tổng
số 29 xã) của huyện Vũ Thư nên các kết quả phân tích và những nhận xét của
luận án đưa ra không đại diện cho cả tỉnh Thái Bình; các kết quả nghiên cứu
của luận án cũng khơng cho phép khái qt hóa cho tồn bộ q trình cha mẹ
chăm sóc con cái ở các gia đình nông thôn Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng các phương pháp cụ thể sau:
4.1 Phương pháp phân tích tài liệu
4.2 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi: với 412 mẫu
4
4.3 Phương pháp phỏng vấn sâu: 27 cuộc phỏng vấn sâu
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về chăm sóc trẻ em, tuy nhiên các
nghiên cứu về chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn của Việt Nam
cịn là vấn đề khá hạn chế, các nghiên cứu về chăm sóc trẻ em trong các gia
đình nơng thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình càng ít hơn. Luận án góp phần
làm phong phú thêm nhận thức về thực trạng chăm sóc trẻ em và vai trị của
các bậc cha mẹ trong việc chăm sóc con cái, các yếu tố ảnh hưởng tới q
trình này ở các gia đình nơng thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Một số
điểm mới rút ra từ cuộc khảo sát như: hiện nay người mẹ trong các gia đình
nơng thơn Vũ Thư đã được người cha chia sẻ, trao đổi và được tham gia vào
các quyết định chăm sóc con, thậm chí trong một số quyết định chính liên
quan đến việc học tập, dạy dỗ con cái, người mẹ còn được quyết định nhiều
hơn so với người cha, nhưng dường như người mẹ vẫn là người có trách
nhiệm chính trong việc chăm sóc, dạy dỗ và dành nhiều thời gian quan tâm tới
tất cả các vấn đề xung quanh trẻ nhiều hơn; Nhóm những người mẹ, nhóm các
bậc cha mẹ có trình độ học vấn cao lại có tỷ lệ cho rằng rằng cần thiết phải
trừng phạt trẻ về thể chất cao hơn và tỷ lệ các bậc cha mẹ từng phát vào mông
con khi dạy dỗ con gái cao hơn; Mặc dù các bậc cha mẹ đã quan tâm chăm sóc
con cái khá tồn diện nhưng trong một số hoạt động cụ thể vẫn có khuynh
hướng ưu tiên cho con trai nhiều hơn con gái. Điều này nói lên tư tưởng gia
trưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại ở các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ
Thư dù các mức độ thể hiện không quá đậm nét.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1 Về lý luận
- Luận án góp phần hồn thiện lý luận khi vận dụng lý thuyết cấu trúcchức năng, lý thuyết xã hội hóa và cách tiếp cận văn hóa khi nghiên cứu về
cha mẹ chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn. Việc vận dụng các lý
thuyết và cách tiếp cận nêu trên trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế-xã hội
của huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình khơng chỉ cho phép tìm hiểu được thực
trạng của việc chăm sóc trẻ em của các bậc cha mẹ, mà còn cho phép tìm hiểu
và lý giải những yếu tố tác động tới quá trình này trong bối cảnh kinh tế- xã
hội hiện nay của Vũ Thư nói riêng tới chăm sóc sức khỏe trẻ em. Lý thuyết
cấu trúc-chức năng giúp chúng ta hiểu được vấn đề cơ bản về sự vận hành
mang tính chức năng của gia đình, vai trị của cha, mẹ trong chăm sóc trẻ em.
Lý thuyết xã hội hóa giúp luận án tìm hiểu quá trình cha mẹ chăm sóc trong
lĩnh vực tri thức, đạo đức, lối sống cho con cái, hình thành nhân cách, xây
dựng các khn mẫu hành vi ở trẻ. Cách tiếp cận văn hóa giúp luận án tìm
hiểu và phân tích những ảnh hưởng của sự bảo lưu văn hóa truyền thống đến
các nội dung, phương pháp trong chăm sóc trẻ em ở các gia đình nơng thơn
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
- Đồng thời, thơng qua việc phân tích nguồn số liệu thu thập được từ
địa bàn nghiên cứu, luận án góp phần kiểm chứng độ chính xác cũng như tính
5
phổ biến của các lý thuyết và cách tiếp cận này trong điều kiện cụ thể của Việt
Nam hiện nay. Những phát hiện của cuộc nghiên cứu có thể bước đầu khẳng
định rằng: Các hoạt động chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn ở
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình mang dấu ấn đậm nét của người mẹ; Cha mẹ có
độ tuổi trẻ hơn, học vấn cao hơn, và làm các cơng việc gắn với văn phịng
quan tâm hơn tới việc chăm sóc và có phương pháp chăm sóc trẻ em trong gia
đình phù hợp hơn; Địa bàn nào có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển hơn, gia
đình có mức sống tốt hơn thì việc chăm sóc trẻ em trong gia đình tốt hơn; và
các hoạt động chăm sóc trẻ em của bậc cha mẹ ở nơng thơn huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình vẫn có xu hướng ưu tiên con bé và con trai nhiều hơn.
- Luận án cũng góp phần hệ thống hóa các quan điểm về vấn đề chăm
sóc trẻ em trong gia đình; lực lượng chính tham gia vào q trình này, nghiên
cứu sâu các quan điểm của Đảng và hệ thống các văn bản chính sách của Nhà
nước liên quan đến chăm sóc trẻ em. Luận án cũng góp phần làm rõ hệ thống
khái niệm “chăm sóc trẻ em” và “chăm sóc trẻ em trong gia đình” trong điều
kiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
6.2 Về thực tiễn
Luận án góp phần nhận diện thực trạng và chỉ ra mức độ ảnh
hưởng của các yếu tố mang tính cá nhân của bố mẹ và các đặc điểm của hộ gia
đình tới việc chăm sóc trẻ em trong các gia đình nơng thơn huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình, từ đó gợi ra những giải pháp để chăm sóc trẻ tốt hơn.
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể là một tài liệu tham khảo
cho các cơ quan quản lý, cơ quan hoạch định chính sách, các tổ chức xã
hội và các bậc cha mẹ có thêm nhiều kiến thức chăm sóc con cái. Từ kết
quả nghiên cứu này, người đọc có thể rút ra các bài học kinh nghiệm
hoặc lựa chọn cách ứng xử cho phù hợp với đặc điểm cá nhân và gia đình
mình.
7. Kết cấu của luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận-khuyến nghị, danh mục các cơng
trình khoa học đã công bố của tác giả và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung luận án bao gồm 5 chương
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 Tình hình nghiên cứu nước ngồi
1.1.1 Chủ đề về chăm sóc thể chất cho trẻ
1.1.2 Chủ đề về chăm sóc tinh thần cho trẻ
1.1.3 Chủ đề về chăm sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo đức, lối sống
cho trẻ
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1 Chủ đề về chăm sóc thể chất cho trẻ
1.2.2 Chủ đề về chăm sóc tinh thần cho trẻ
1.2.3 Chủ đề về chăm sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo đức, lối sống
cho trẻ
6
Tiểu kết chương 1
Qua tổng hợp, phân tích các tài liệu, có thể rút ra một số vấn đề
như sau:
Các nghiên cứu trên các bình diện và quy mơ khác nhau về chăm
sóc trẻ em (CSTE) cho thấy, cùng với sự phát triển chung của xã hội, cha
mẹ ngày càng quan tâm đến CSTE cả về thể chất và tinh thần và tri thức,
đạo đức, lối sống. Tuy nhiên mức độ, phương pháp chăm sóc của cha mẹ
là khác nhau do ảnh hưởng từ các yếu tố đặc trưng mang tính cá nhân của
cha mẹ (như giới tính, lứa tuổi, thu nhập, học vấn) và các đặc điểm của
hộ gia đình (mức sống, nơi sống thành thị hay nơng thơn, gia đình hạt
nhân hay nhiều thế hệ).
Các nghiên cứu chuyên biệt về CSTE trong gia đình nơng thơn
Việt Nam, nhất là ở nhóm trẻ 6-11 tuổi khá hạn chế. Đa số các nghiên
cứu cũng cho thấy, dù ở khu vực nông thôn hay đô thị, công việc CSTE
vẫn do người mẹ chịu trách nhiệm chính. Cha mẹ đã thực hiện nhiều biện
pháp nhằm giáo dục cho con như nhắc nhở, phân tích đúng sai, khen
thưởng khi con làm tốt và xử phạt khi con làm sai. Khi giáo dục đạo đức
cho con, cha mẹ gặp phải một số khó khăn trong đó phổ biến là thiếu
kiến thức và kinh nghiệm, hạn chế về thời gian và sự khác biệt giá trị
chuẩn mực giữa cha mẹ và con cái.
Việc chăm sóc tinh thần vui chơi giải trí cho trẻ chưa được các bậc
cha mẹ ở nông thôn quan tâm đầy đủ. Điều này gợi ra cho luận án những
hướng cần nghiên cứu sâu hơn khi tiến hành nghiên cứu trên thực địa tại
huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1 Khái niệm “Trẻ em”
2.1.2 Khái niệm “Chăm sóc trẻ em trong gia đình”
2.1.3 Khái niệm “Sức khỏe thể chất”, “Chăm sóc thể chất”
2.1.4 Khái niệm “Sức khỏe tinh thần”, “Chăm sóc tinh thần”
2.1.5 Khái niệm “Tri thức”, “Đạo đức”, “Lối sống” và “Chăm sóc
trong lĩnh vực tri thức và đạo đức, lối sống”
2.1.6 Đặc điểm của trẻ em lứa tuổi 6-11
2.2 Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về
chăm sóc trẻ em
2.3 Các lý thuyết nghiên cứu vận dụng cho đề tài
2.3.1 Lý thuyết cấu trúc - chức năng
Lý thuyết cấu trúc - chức năng được vận dụng để xem xét vai trị của
người cha và người mẹ trong chăm sóc con cái trong các gia đình nơng thơn
huyện Vũ Thư trên tất cả các mặt thể chất, tinh thần, giáo dục tri thức, đạo
đức, lối sống cho trẻ em dưới tác động của các yếu tố ngoại cảnh như điều
kiện sống, môi trường xã hội, các đặc điểm của cá nhân, gia đình và trong mối
quan hệ với các mối liên hệ xã hội khác. Cụ thể, luận án tìm hiểu, phân tích vai
7
trò của các yếu tố cá nhân của cha mẹ (như học vấn, tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, tình trạng hơn nhân) và các đặc điểm gia đình (mức sống gia đình, số
con lứa tuổi 6-11 trong gia đình) có quan hệ như thế nào đến việc cha mẹ
CSTE.
2.3.2 Lý thuyết xã hội hóa
Vận dụng lý thuyết xã hội hóa vào nghiên cứu này, luận án đặc
biệt lưu ý đến quá trình xã hội hóa ở nhóm trẻ em 6-11 tuổi, là lứa tuổi
trẻ bắt đầu có những nhận thức rõ ràng hơn về cuộc sống so với lứa tuổi
ấu thơ (0-5 tuổi). Ở giai đoạn này, sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục của
cha mẹ đối với con cái họ có tốt hay khơng sẽ ảnh hưởng đến lâu dài
trong suốt cuộc đời sau này của trẻ. Quá trình xã hội hoá ở trẻ em cũng sẽ
khác nhau theo từng nhóm gia đình. Luận án này tập trung vào phân tích
các hình thức xã hội hóa này thể hiện ở nội dung và phương pháp chăm
sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo đức, lối sống của cha mẹ đối với con cái
lứa tuổi 6-11 ở các nhóm trẻ em khác nhau.
2.3.3 Cách tiếp cận văn hóa
Vận dụng cách tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu về sự chăm sóc của
cha mẹ với con cái trong gia đình nơng thơn huyện Vũ Thư, luận án nhằm tìm
hiểu các ảnh hưởng của văn hóa truyền thống đến việc chăm sóc và giáo dục
trẻ em trong các gia đình nơng thơn ở Vũ Thư hiện nay.
2.4 Giới thiệu địa bàn nghiên cứu
2.4.1 Địa bàn nghiên cứu
2.4.2 Điều kiện sống của các hộ gia đình trong mẫu nghiên cứu
Tiểu kết chương 2
Về lý luận
Luận án làm rõ nội hàm của khái niệm “CSTE trong gia đình” bao gồm
các hoạt động cơ bản là: cha mẹ chăm sóc về thể chất, chăm sóc về tinh thần
và chăm sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo đức, lối sống cho trẻ em.
Áp dụng những luận điểm chính của lý thuyết cấu trúc-chức năng
cho phép luận án xem xét sự vận hành của gia đình mà cha mẹ là nhân tố
chính trong CSTE diễn ra như thế nào, các hoạt động đó chịu ảnh hưởng
từ những yếu tố nào và các mức độ ảnh hưởng khác nhau ra sao. Lý
thuyết xã hội hóa được vận dụng giúp luận án tìm hiểu những khn mẫu
hoạt động chăm sóc khác nhau của các bậc cha mẹ đối với trẻ 6-11 tuổi
nhằm ni dưỡng, phát triển thể chất và hình thành nhân cách các em. Cách
tiếp cận văn hóa giúp tìm hiểu và phân tích những ảnh hưởng của sự bảo lưu
văn hóa truyền thống đến việc CSTE ở các gia đình Việt Nam nói chung, ở
khu vực nơng thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình nói riêng, đặc biệt là sự
phân công giữa người cha và người mẹ trong việc chăm sóc con cái.
Về thực tiễn
Việc tìm hiểu và giới thiệu chung về đặc điểm địa bàn nghiên cứu,
đặc điểm và điều kiện sống của mẫu nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn
khái quát về những yếu tố sẽ ảnh hưởng tới quá trình CSTE ở các gia
8
đình nơng thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây chính là tiền đề cho
việc nghiên cứu thực nghiệm ở những chương tiếp theo.
CHƯƠNG 3: CHĂM SÓC VỀ THỂ CHẤT CHO TRẺ EM TRONG
GIA ĐÌNH NƠNG THƠN
3.1 Cha mẹ chăm sóc dinh dưỡng cho con
3.1.1 Cha mẹ cân đối các loại thức ăn thường cho con ăn
Các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư khá quan tâm đến việc cân
bằng các loại thức ăn cho con, họ đã chú ý bổ sung các thực phẩm rau củ
cho con vì vấn đề sức khỏe của con hơn là vì điều kiện kinh tế gia đình bị
hạn chế. Và trong xu thế phát triển chung của xã hội, các loại thức ăn chế
biến sẵn sẽ được các bậc cha mẹ sử dụng cho con nhiều hơn vì tính tiện
dụng của nó.
3.1.2 Cha mẹ bồi dưỡng thêm các loại thực phẩm đắt tiền khi con
ốm
Mức độ trẻ được bồi dưỡng thêm các thực phẩm/sữa đắt tiền khi bị ốm
của các bậc cha mẹ ở xã Hịa Bình là cao nhất so với hai xã còn lại. Mức độ
cha mẹ bồi dưỡng thêm các thực phẩm/sữa đắt tiền khi con bị ốm ở bé trai hay
bé gái là như nhau. Tuy nhiên có sự ưu tiên hơn cho trẻ nhỏ tuổi hơn.
3.1.3 Cha mẹ cho con uống sữa ở nhà và ở trường
Mặc dù chương trình sữa học đường đã được triển khai ở Thái
Bình từ 2018 và học sinh khi tham gia sẽ được trợ giá 50% nhưng tỷ lệ
các bậc cha mẹ ở Vũ Thư cho con lứa tuổi 6-11 tham gia khá dè dặt vì
nhiều lý do, trong đó yếu tố kinh tế (cụ thể là mức sống gia đình) và
những lo ngại về chất lượng sữa của chương trình do các nguồn tin tức từ
truyền thông mang lại là hai nguyên nhân chính ảnh hưởng tới quyết định
của các bậc cha mẹ có cho con tham gia chương trình sữa học đường hay
khơng. Tỷ lệ gia đình cho con tham gia sữa học đường ở trường cao nhất
thuộc về các bậc cha mẹ ở xã Nguyên Xá và thấp nhất là xã Vũ Tiến.
Nhóm trẻ nhỏ tuổi hơn (6-9 tuổi), nhóm trẻ em gái và các gia đình có
điều kiện khá giả có tỷ lệ tham gia Sữa học đường cao nhất.
Nhóm trẻ càng nhỏ tuổi càng được cha mẹ đầu tư cho uống sữa ở
nhà nhiều hơn. Điều này cũng phản ánh một thực tế, trẻ em càng nhỏ tuổi
càng được bố mẹ quan tâm các vấn đề dinh dưỡng nhiều hơn, được
“chiều chuộng” hơn và một phần cũng vì càng nhỏ tuổi trẻ cũng khó hấp
thu các loại thức ăn, khó ăn đa dạng các loại thức ăn hơn so với trẻ ở
nhóm lớn tuổi hơn.
3.2 Cha mẹ chăm sóc về y tế cho con
3.2.1 Mức độ cha mẹ đưa con đi khám và kiểm tra sức khỏe
định kỳ
Đa số các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư chỉ “khi con có bệnh
mới đi khám”, ít cho con khám định kỳ. Điều này phản ánh thói quen và
sự chủ quan của đa số người dân ở Vũ Thư nói chung, các bậc cha mẹ
trong cuộc khảo sát nói riêng. Các bậc cha mẹ ở xã Nguyên Xá và các gia
9
đình khá giả có tỷ lệ đưa con đi khám định kỳ cao hơn. Những trẻ em
nhỏ hơn (nhóm 6-9), các bé gái được cha mẹ đưa con đi khám bệnh định
kỳ cao hơn.
3.2.2 Người thực hiện chính đưa con đi khám bệnh
Đại đa số các gia đình trong cuộc khảo sát có cả hai bố mẹ đưa con
đi khám chữa bệnh khi con đau ốm. Tỷ lệ cả hai cha mẹ cùng đưa con đi
khám bệnh mỗi khi con đau ốm ở xã Hịa Bình là cao nhất với 74,6%,
cho thấy có sự san sẻ cơng việc chăm sóc con mỗi khi đau ốm của các
bậc cha mẹ ở Hịa Bình. Tỷ lệ người cha chịu trách nhiệm chính đưa con
đi khám bệnh ở xã Nguyên Xá cao hơn hai xã cịn lại và thấp nhất xã
Hịa Bình. Điều này có thể liên quan đến đặc điểm có làng nghề của
Nguyên Xá (nghề làm gỗ), các ông bố thường tự làm và buôn bán gỗ tại
nhà, do không bị quản lý về thời gian làm việc nên mỗi khi con đau ốm,
các ông bố ở xã Nguyên Xá đưa con đi khám chữa bệnh thuận lợi hơn.
Xã Hịa Bình tiếp giáp với thành phố Thái Bình và thị Trấn Vũ Thư nên
các ông bố ở xã này đa phần làm việc ở các cơng ty, xí nghiệp, bị quản lý
về thời gian chặt chẽ hơn nên tỷ lệ chịu trách nhiệm chính đưa con đi
khám bệnh thấp nhất.
3.2.3 Nơi thường khám chữa bệnh cho con
Các cơ sở chữa trị của nhà nước vẫn là nơi được người dân tin
tưởng và lựa chọn khám chữa bệnh nhiều nhất. Tỷ lệ cả hai vợ chồng
cùng đưa con đi khám chữa bệnh ở xã Hịa Bình cao nhất. Các gia đình
có mức sống khá giả, nhóm trẻ em nhỏ tuổi hơn (6-9 tuổi) được cả hai bố
mẹ quan tâm hơn. Tỷ lệ cả hai bố mẹ đưa con đi khám đối với các bé trai
cao hơn hẳn đối với các bé gái. Điều này cho thấy các bậc cha mẹ dường
như quan tâm tới khám chữa bệnh cho con trai nhiều hơn.
3.3 Sự chuẩn bị của cha mẹ để chăm sóc sức khoẻ thể chất cho con
3.3.1 Người thực hiện chính việc chăm sóc sức khoẻ thể chất
cho con
Kết quả nghiên cứu cho thấy, hơn một nửa các bậc cha mẹ ở nông
thôn huyện Vũ Thư trả lời “cả hai vợ chồng cùng thực hiện” các công
việc như tắm rửa, cho con ăn, chăm sóc con khi con ốm. Hịa Bình là xã
có tỷ lệ cả hai bố mẹ cùng tham gia các cơng việc chăm sóc về thể chất
cho con cao hơn hai xã còn lại, nhưng tỷ lệ chỉ chiếm hơn 50% các gia
đình. Điều này cho thấy các ơng bố cũng đã tham gia vào các hoạt động
chăm sóc con nhưng tỷ lệ chưa cao. Tỷ lệ cả hai vợ chồng cùng chăm sóc
con trai cao hơn hẳn, thể hiện các bậc cha mẹ vẫn còn ảnh hưởng nhiều
các tư tưởng gia trưởng từ thế hệ trước, có phần quan tâm ưu ái con trai
nhiều hơn.
3.3.2 Thời gian hàng ngày cha mẹ dành chăm sóc thể chất cho con
Gần một nửa các bậc cha mẹ được hỏi thường dành khoảng 1-2
tiếng mỗi ngày cho việc chăm sóc thể chất cho con (bao gồm các công
việc như: tắm rửa, cho con ăn, đưa đón con đi học…); Tuy nhiên, vẫn
10
còn 15% các bậc cha mẹ chỉ dành chưa đến 1 tiếng mỗi ngày cho cơng
việc chăm sóc con. Điều này cũng nói lên một thực tế có nhiều gia đình
bố mẹ q bận mải các cơng việc kiếm sống mà khơng thể dành thời gian
quan tâm, chăm sóc con, để con “tự lập” hồn tồn. Hịa Bình cũng là xã
có tỷ lệ cha mẹ dành hơn 3 tiếng mỗi ngày để chăm sóc cao nhất và thấp
nhất là xã Ngun Xá. Các gia đình có mức sống cao, các gia đình có từ
2 con lứa tuổi 6-11 trở lên thì được các bậc cha mẹ dành nhiều chăm hơn.
3.3.3 Cha mẹ học hỏi các kiến thức chăm sóc về thể chất cho con
Các nguồn thông tin chủ yếu các bậc cha mẹ hay tham khảo để tìm
hiểu, học hỏi các kiến thức chăm sóc thể chất cho con là từ nhà trường,
các tổ chức xã hội và từ truyền thơng đại chúng, tuy nhiên cũng cịn một
bộ phận nhỏ các bậc cha mẹ khơng bao giờ tìm hiểu từ các kênh thông tin
này do công việc bề bộn không có thời gian hoặc sự hạn chế về khả năng
tiếp xúc với các nguồn thông tin từ truyền thông đại chúng (như nhà
không nối mạng internet).
Tiểu kết chương 3
Các kết quả thu được từ cuộc nghiên cứu về việc cha mẹ chăm sóc
thể chất cho con ở Vũ Thư cho thấy: mặc dù hiện nay người cha đã tham
gia khá nhiều vào các q trình chăm sóc con nói chung, vào các hoạt
động chăm sóc thể chất cho con nói riêng, nhưng người mẹ vẫn là người
phụ trách chính, tham gia nhiều hơn vào các quá trình này. Trong các
hoạt động chăm sóc, các bậc cha mẹ ở nơng thơn Vũ Thư vẫn có thiên
hướng ưu tiên, quan tâm và đầu tư cho con trai nhiều hơn con gái. Yếu tố
vị trí địa lý của từng xã kèm theo đó là các ảnh hưởng từ lối sống, văn
hóa đơ thị do được tiếp giáp với thị trấn Vũ Thư và thành phố Thái Bình
khiến cho các bậc cha mẹ ở xã Hịa Bình cũng có điều kiện đầu tư, chăm
sóc dinh dưỡng và khám chữa bệnh cho con cái tốt hơn hai xã còn lại.
Các yếu tố cá nhân khác của trẻ (độ tuổi và giới tính của trẻ) cũng ảnh
hưởng tới việc cha mẹ chăm sóc thể chất cho con cái với các mức độ
mạnh yếu khác nhau tùy từng hoạt động cụ thể. Mức sống vẫn đóng vai
trị chủ đạo ảnh hưởng tới các quyết định và các hoạt động chăm sóc thể
chất cho con mà ưu thế ln nghiêng về phía trẻ em trong các gia đình
giàu.
CHƯƠNG 4: CHĂM SÓC VỀ TINH THẦN CHO TRẺ EM
TRONG GIA ĐÌNH NƠNG THƠN
4.1 Cha mẹ chăm sóc hoạt động vui chơi giải trí của con cái
4.1.1 Mức độ cha mẹ đưa trẻ đi vui chơi giải trí
Cuộc khảo sát cho thấy, do các điều kiện kinh tế gia đình và cơ
sở hạ tầng dành cho trẻ em vui chơi ở nơng thơn cịn hạn chế nên các
bậc cha mẹ ở nơng thơn huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình chủ yếu đưa con
đi chơi “vào các dịp lễ lớn”. Tìm hiểu sự khác biệt theo nhóm xã hội ở
các hoạt động cụ thể, kết quả từ cuộc khảo sát cho thấy: Các bậc cha mẹ
ở xã Hịa Bình có tỷ lệ đưa con đi cao nhất và thấp nhất là xã Vũ Tiến.
11
Những trẻ em nhỏ hơn (6-9 tuổi), những trẻ em là con trai được các bậc
cha mẹ đưa đi chơi nhiều hơn. Người mẹ vẫn luôn gần gũi, quan tâm,
dành thời gian chăm sóc về tinh thần của con nhiều hơn; các cha mẹ trẻ
tuổi các bậc cha mẹ có học vấn đại học, sau đại học; cha mẹ ở nhóm cán
bộ, cơng chức, viên chức và cha mẹ ở các gia đình có mức sống cao hơn
có tỷ lệ đưa con đi chơi nhiều hơn, có điều kiện để chăm lo về tinh thần
cho con cái tốt hơncác nhóm xã hội khác.
4.1.2 Mức độ cha mẹ biết rõ nơi con cái thường đến chơi
Mức độ cha mẹ biết rõ nơi con cái thường đến chơi (biết con chơi ở
đâu) cũng là chỉ báo thể hiện sự quan tâm của bố mẹ về tinh thần của con. Các
số liệu phan tích cho thấy, có 64,1% các bậc cha mẹ “biết rõ” nơi con cái
thường đến chơi. Các bậc cha mẹ ở xã Vũ Tiến, các cha mẹ ở nhóm tuổi càng
cao, trình độ học vấn từ THPT trở xuống, là nơng dân, và ở trong các gia đình
nghèo là những cha mẹ có tỷ lệ biết rõ nơi con cái thường đến chơi thấp nhất.
4.1.3 Mức độ cha mẹ biết các loại hoạt động vui chơi, giải trí
của con
Mức độ cha mẹ biết về các loại hoạt động vui chơi, giải trí của con
(biết con chơi những trị chơi gì) cũng nói lên sự quan tâm của cha mẹ tới
mặt tinh thần của con cái. Hơn một nửa các bậc cha mẹ trong cuộc
nghiên cứu “biết rõ” về các hoạt động vui chơi, giải trí của con. Vũ Tiến
cũng là xã có tỷ lệ các bậc cha mẹ biết về các hoạt động của con thấp
nhất trong ba xã của cuộc nghiên cứu. Tỷ lệ các bậc cha mẹ biết rõ các
loại hoạt động vui chơi, giải trí của con trai cao hơn con gái, của nhóm
trẻ 10-11 tuổi cao hơn nhóm trẻ 6-9 tuổi. Các bà mẹ có tỷ lệ “biết rõ” về
các hoạt động vui chơi, giải trí của con cao hơn các người cha. Nhóm
tuổi của cha mẹ càng cao thì tỷ lệ biết rõ về các loại hoạt động vui chơi,
giải trí của con càng giảm. Tỷ lệ này trong nhóm cha mẹ là cán bộ, công
chức, viên chức là cao nhất. Các bậc cha mẹ có học vấn càng cao có tỷ lệ
biết rõ về các loại hoạt động vui chơi, giải trí của con càng cao. Mức
sống của các hộ gia đình càng cao thì tỷ lệ cha mẹ “biết rõ” về các loại
hoạt động vui chơi, giải trí của con cũng càng cao.
4.1.4 Cha mẹ cho con tham gia các hoạt động dành cho thiếu nhi
Số liệu thu được từ cuộc nghiên cứu cho thấy, các bậc cha mẹ ở
nông thôn huyện Vũ Thư “thường xuyên” cho con tham gia các hoạt
động dành cho thiếu nhi của địa phương và nhà trường tổ chức khá
khiêm tốn. Tỷ lệ cha mẹ ở xã Vũ Tiến cho con tham gia các hoạt động
dành cho thiếu nhi do địa phương hoặc nhà trường tổ chức là cao nhất và
thấp nhất là xã Nguyên Xá. Trẻ em là con trai được các bậc cha mẹ ưu
tiên, tạo điều kiện cho tham gia các hoạt động dành cho thiếu nhi do địa
phương hoặc nhà trường tổ chức cao hơn các trẻ em là con gái. Các bậc
cha mẹ có học vấn càng cao, gia đình khá giả, là cơng nhân hoặc thuộc
nhóm cán bộ, cơng chức, viên chức có quan tâm đến việc cho con cái
tham gia các hoạt động do nhà trường và địa phương tổ chức hơn.
12
4.1.5 Cha mẹ biết về thời gian xem tivi, điện thoại và internet
của con cái
Ở khía cạnh “biết rõ thời gian xem tivi, điện thoại, internet của
con”, nói chung, các bậc cha mẹ ở nông thôn huyện Vũ Thư đều lưu ý
đến thời gian con cái sử dụng các thiết bị cơng nghệ. Các bậc cha mẹ ở
xã Hịa Bình có mức độ kiểm sốt và biết rõ thời gian xem tivi, internet
của con tốt hơn các bậc cha mẹ ở Ngun Xá và Vũ Tiến. Tỷ lệ này
khơng có khác biệt đáng kể theo giới tính của trẻ nhưng các bậc cha mẹ
dường như kiểm soát kỹ hơn ở nhóm trẻ lớn hơn (nhóm trẻ 10-11 tuổi
cao hơn nhóm trẻ 6-9 tuổi). Tỷ lệ người cha biết rõ về thời gian xem tivi,
điện thoại, internet của con thấp hơn người mẹ. Cha mẹ càng trẻ tuổi, có
học vấn càng cao và gia đình khá giả thì càng có xu hướng quy định chặt
chẽ và “biết rõ” về thời gian thời gian xem tivi, điện thoại, internet của
con. Cha mẹ là cán bộ, cơng chức, viên chức thì có tỉ lệ “biết rõ thời gian
xem tivi, điện thoại, internet của con” cao hơn các nhóm nghề nghiệp
khác. Điều đặc biệt là nhóm các cha mẹ là nơng dân cịn là nhóm có tỷ lệ
“hồn tồn khơng biết” về thời gian con xem tivi, điện thoại và internet
cao nhất.
4.1.6 Cha mẹ tham gia chơi trị chơi cùng con cái
Chỉ có khoảng hơn một nửa các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư
tham gia chơi trò chơi cùng con hàng ngày và hàng tuần, và gần một nửa
các bậc cha mẹ khơng có thói quen này cùng con. Các bậc cha mẹ ở xã
Hịa Bình thể hiện sự chăm sóc, quan tâm tới thể chất con cái tốt hơn hai
xã Vũ Tiến và Nguyên Xá khi tỷ lệ cha mẹ tham gia chơi trò chơi cùng
con cao nhất. Những trẻ em nhóm nhỏ tuổi hơn (6-9 tuổi) được cha mẹ
chơi trị chơi cùng hàng ngày và hàng tuần nhiều hơn ở nhóm trẻ 10-11
tuổi. Tỷ lệ cha mẹ cũng chơi các trò chơi cùng con trai nhiều hơn so với
con gái.
4.2 Cha mẹ chăm sóc đời sống tâm lý, tình cảm cho con cái
4.2.1 Cha mẹ trò chuyện, tâm sự cùng con
Đại đa số các bậc cha mẹ trong đều dành thời gian trò chuyện, tâm
sự cùng con hàng ngày. Các bậc cha, mẹ ở cả ba xã, dù ở trình độ học
vấn nào, dù con ở nhóm 6-9 tuổi hay nhóm 10-11 tuổi, dù con là con trai
hay con gái cũng được cha mẹ dành thời gian trò chuyện, tâm sự là như
nhau. Các bậc cha mẹ thuộc nhóm tuổi 36-40 có mức độ trị chuyện, tâm
sự cùng con thường xun hơn so với hai nhóm tuổi cịn lại. Các cha mẹ
là cán bộ, công chức, viên chức và KD, LĐTD có tỷ lệ trị chuyện, tâm
sự cùng con ở mức hàng ngày cao nhất, trong khi đó nhóm KD, LĐTD
lại có tỷ lệ cao nhất khơng bao giờ trị chuyện, tâm sự cùng con. Các gia
đình càng có mức sống tốt hơn thì mức độ cha mẹ quan tâm, trò chuyện,
vui chơi cùng con cái cũng càng cao.
4.2.2 Cha mẹ biết rõ về bạn thân của con cái
13
Con cái càng lớn cha mẹ càng quan tâm đến yếu tố bạn bè của con
nhiều hơn. Nhóm trẻ 10-11 tuổi được các bậc cha mẹ biết rõ về bạn thân cao
hơn so với nhóm trẻ 6-9 tuổi. Cả cha và mẹ đều biết rõ bạn thân của con cái
ngang nhau nhưng các bậc cha mẹ nhóm tuổi cao hơn có tỷ lệ biết rõ thấp hơn.
Mối quan hệ giữa học vấn của các bậc cha mẹ với mức độ biết rõ về bạn thân
của con cái không thể hiện rõ ràng, nhóm cha mẹ có học vấn trung cấp và cao
đẳng lại có tỷ lệ biết rõ bạn thân của con thấp nhất trong các nhóm học vấn. Tỷ
lệ cha mẹ biết rõ về bạn thân của con có xu hướng tăng theo số con lứa tuổi 611 và mức sống của gia đình.
4.2.3 Mức độ cha mẹ biết rõ các sở thích của con cái
Theo số liệu từ cuộc nghiên cứu, tỷ lệ các cha mẹ trong cuộc khảo
sát “biết rõ” về các các sở thích của con khá cao. Hịa Bình là xã có tỷ lệ
các bậc cha mẹ “biết rõ” về các các sở thích của con cao nhất và tỷ lệ này
ở xã Vũ Tiến là thấp nhất, tỷ lệ này ở người mẹ cao hơn người cha. Tuổi
của cha mẹ càng cao, học vấn của cha mẹ càng thấp và mức sống gia
đình càng thấp thì “biết rõ” về các các sở thích của con càng thấp. Nhóm
cha mẹ là cán bộ, cơng chức, viên và nhóm cha mẹ là cơng nhân là hai
nhóm nghề nghiệp có tỷ lệ “biết rõ” các sở thích của con cao nhất so với
các nhóm nghề nghiệp cịn lại. Gia đình càng nhiều con nhỏ lứa tuổi 6-11
thì cha mẹ càng biết rõ các sở thích của con hơn. Cha mẹ quan tâm đến
các sở thích của nhóm trẻ 10-11 tuổi hơn nhóm trẻ 6-9 tuổi.
Tiểu kết chương 4
Kết quả từ cuộc khảo sát xác nhận lại một số phát hiện từ các nghiên
cứu trước đây về những khác biệt giữa các nhóm cha mẹ đối với việc chăm
sóc đời sống tinh thần của con cái. Các kết quả phân tích cho thấy, cha mẹ
có xu hướng kiểm soát con lứa tuổi lớn hơn (10-11 tuổi) về bạn bè của con,
thời gian và các chương trình giải trí xem trên tivi, điện thoại mạng internet;
trong khi đó nhóm trẻ nhỏ hơn (6-9 tuổi) cha mẹ lại dành nhiều thời gian để
chơi trò chơi cùng, trò chuyện tâm sự nhiều hơn. Các bậc cha mẹ càng trẻ
tuổi càng có xu hướng quan tâm đến mọi vấn đề về tinh thần của trẻ, chăm
sóc trẻ tốt hơn so với các nhóm cha mẹ lớn tuổi hơn. Cha mẹ thuộc nhóm
nghề nghiệp là cán bộ, cơng chức, viên chức có xu hướng chăm sóc tinh thần
cho con tốt hơn các cha mẹ các nhóm nghề nghiệp khác. Cha mẹ có học vấn
cao hơn có xu hướng dành thời gian chăm sóc con cái nhiều hơn. Các gia
đình có mức sống càng cao thì trẻ em càng được chăm lo đời sống tinh thần
đầy đủ, phong phú hơn.
CHƯƠNG 5. CHĂM SÓC TRONG LĨNH VỰC TRI THỨC, ĐẠO
ĐỨC, LỐI SỐNG CHO TRẺ EM TRONG GIA ĐÌNH NƠNG
THƠN
5.1 Cha mẹ chăm sóc con trong việc học tập
5.1.1 Cha mẹ nhắc nhở con học tập
Đại đa số các bậc cha mẹ ở Vũ Thư trong cuộc nghiên cứu đều chú
ý hoạt động nhắc nhở con học tập. Các bậc cha mẹ ở xã Hịa Bình có tỷ
14
lệ nhắc nhở con học tập cao hơn các bậc cha mẹ ở hai xã Nguyên Xá và
Vũ Tiến. Người mẹ có tỷ lệ nhắc nhở con học tập cao hơn người cha. Tỷ
lệ này cao nhất ở nhóm cha mẹ trẻ tuổi nhất, nhóm các cha mẹ là cán bộ,
công chức, viên chức và các cha mẹ ở các gia đình nghèo. Con càng lớn
tuổi các bậc cha mẹ càng quan tâm nhắc nhở con học tập thường xuyên
hơn (nhóm tuổi 10-11 được nhắc nhở nhiều hơn so với nhóm 6-9 tuổi).
Các bậc cha mẹ cũng nhắc nhở con trai nhiều hơn con gái, có thể do đặc
điểm giới tính của trẻ, trẻ em gái thường tự giác học tập hơn, và cũng có
thể có ngun nhân từ chính tâm lý của các bậc cha mẹ muốn đầu tư cho
con trai nhiều hơn, mong muốn con trai sau này sẽ học hành thành đạt
giỏi giang hơn so với con gái.
5.1.2 Thời gian cha mẹ kèm con học mỗi ngày
Thời gian cha mẹ dành từ 3-4 tiếng kèm con học hàng ngày có
nhiều khác biệt theo đặc trưng cá nhân của cha mẹ. Tỷ lệ này ở người mẹ
cao gấp đơi so với người cha. Những bậc cha mẹ có học vấn cao, các cha
mẹ là cơng nhân có tỷ lệ dành từ 3-4 tiếng kèm con học hàng ngày cao
nhất và thấp nhất là nhóm cha mẹ là nơng dân. Đáng chú ý, tỷ lệ các bậc
cha mẹ trong các gia đình có mức sống nghèo dành 3-4 tiếng mỗi ngày
để kèm con học cao nhất so với các nhóm gia đình ở các mức sống cịn
lại. Tỷ lệ các bậc cha mẹ dành 3-4 tiếng kèm con học hàng ngày ở nhóm
trẻ 10-11 tuổi cao hơn nhóm trẻ 6-9 tuổi và ở nhóm trẻ là con trai cao
hơn nhóm trẻ là con gái.
5.1.3 Mức độ cha mẹ biết về thời gian và kết quả học tập của con
Cha mẹ chăm sóc trong lĩnh vực tri thức cho trẻ thể hiện ở mức
độ cha mẹ thường xuyên biết về thời gian và kết quả học tập của con
cái. Các bậc cha mẹ ở xã Hịa Bình quan tâm đến việc học tập của con
cao nhất khi các tỷ lệ biết rõ về thời gian biểu ở trường/học thêm của
con, biết rõ về thời gian học tập ở nhà của con và và biết rõ về kết quả
học tập của con đều cao và các bậc cha mẹ ở xã Vũ Tiến dường như
quan tâm đến việc học tập của con thấp nhất. Người mẹ có xu hướng
quan tâm hơn đến việc học tập của con cái khi biết rõ hơn người cha về
thời gian và kết quả học tập của con. Càng lớn tuổi, tỷ lệ cha mẹ biết rõ
về những vấn đề liên quan đến học tập của con cái càng giảm. Cha mẹ có
học vấn càng cao thì mức độ biết rõ những vấn đề liên quan đến học tập
của con cái càng cao. Cha mẹ là cán bộ, cơng chức, viên chức ln là
nhóm có tỷ lệ biết rõ về những vấn đề liên quan đến học tập của con cái
với tỷ lệ cao nhất, tỷ lệ này thấp nhất ở nhóm cha mẹ là nơng dân. Hộ gia
đình có mức sống càng cao thì tỷ lệ cha mẹ biết rõ thời gian biểu ở
trường/học thêm của con càng cao. Mức độ cha mẹ biết rõ về những
vấn đề liên quan đến học tập của con cái khơng có sự khác biệt đáng
kể theo giới tính của trẻ. Cha mẹ biết rõ về những vấn đề liên quan
đến học tập của con cái nhóm 10-11 tuổi cao hơn nhóm trẻ 6-9 tuổi.
15
Điều này cho thấy trẻ càng lớn các vấn đề học tập càng được bố mẹ
chú ý, quan tâm
5.1.4 Ứng xử của cha mẹ khi con đạt điểm cao hoặc làm việc tốt
Khi con làm được việc tốt, hình thức “khen ngợi và khuyến khích
con cố gắng hơn” thường được cha mẹ áp dụng nhiều nhất. Trong các
phẩm chất đạo đức, đức tính được cha mẹ giáo dục cho con mình nhiều
nhất là cách ứng xử với các thành viên gia đình và mọi người. Tuy nhiên,
vẫn cịn một tỷ lệ nhỏ các bậc cha mẹ trong cuộc khảo sát ở nơng thơn
huyện Vũ Thư cảm thấy “bình thường, khơng thưởng hoặc khuyến khích
gì” khi con đạt điểm cao hoặc làm việc tốt.
5.1.5 Cha mẹ tham gia một số hoạt động ở trường học cùng con
Tỷ lệ các bậc cha mẹ ở nơng thơn Vũ Thư có tham gia các hoạt
động ở trường học cùng với con cái hàng năm là khá thấp. Các bậc cha
mẹ ở xã Hịa Bình có xu hướng quan tâm và tham gia các hoạt động ở
trường học cùng con cao hơn các bậc cha mẹ ở hai xã cịn lại. Các bà mẹ
có tham gia các hoạt động ở trường học cùng con cao hơn hẳn các người
cha; các cha mẹ càng trẻ tuổi càng có xu hướng quan tâm và có tham gia
các hoạt động ở trường cùng con càng cao; cha mẹ có học vấn cao hơn
có tham gia các hoạt động ở trường cùng con cái nhiều hơn. Những
người là cán bộ, công chức, viên chức tham gia các hoạt động với con
cái có tỷ lệ cao nhất. Bố mẹ là nơng dân ln có tỷ lệ thấp nhất hoặc
thấp thứ hai trong các hoạt động cùng với con cái.
5.2 Cha mẹ dạy con về đạo đức, lối sống
5.2.1 Các nội dung đạo đức cha mẹ dạy cho con
Trong các nội dung đạo đức cha mẹ dạy cho con, nội dung về lòng
biết ơn “Con cái phải biết ơn cha mẹ vì đã sinh ra và ni dưỡng con”
được các cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư lựa chọn dạy cho con nhiều nhất.
Trong các nội dung về lối sống, “cách ứng xử với các thành viên gia đình
và mọi người” được các bậc cha mẹ dạy cho con nhiều nhất.
5.2.2 Các nội dung về lối sống cha mẹ dạy cho con
Nội dung về cách ứng xử với các thành viên gia đình và mọi người
được các bậc cha mẹ dạy cho con với tỷ lệ cao nhất. Ngoài ra các nội
dung như dạy con “tham gia, chia sẻ các công việc cùng gia đình”; kỹ
năng phịng tránh các nguy cơ, tệ nạn xã hội; quan hệ bạn bè, tình bạn;
cách ăn mặc …cũng được các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư dạy cho
con ngay từ lứa tuổi tiểu học.
5.2.3 Quan điểm về sự cần thiết phải trừng phạt trẻ về thể chất
Vẫn còn một tỷ lệ khá cao các bậc cha mẹ ở nơng thơn Vũ Thư có
quan niệm “cần thiết phải trừng phạt trẻ về thể chất trong q trình ni
dạy trẻ”. Tỷ lệ này của các bậc cha mẹ ở xã Nguyên Xá thấp nhất. Các
bậc cha mẹ có con ở nhóm nhỏ hơn (6-9 tuổi) lại cho rằng cần thiết phải
trừng phạt trẻ về thể chất cao hơn các bậc cha mẹ có con ở nhóm lơn hơn
(10-11 tuổi). Tỷ lệ người mẹ có quan niệm này cao hơn người cha. Các
16
bậc cha mẹ có học vấn thấp nhất cho rằng cần trừng phạt trẻ về thể chất
cao nhất. Đáng ngạc nhiên là tỷ lệ các cha mẹ có học vấn đại học trở lên
cũng cho rằng cần thiết phải trừng phạt trẻ về thể chất đứng thứ hai.
Nhóm các bậc cha mẹ là cán bộ, công chức, viên chức là nhóm cho rằng
cần thiết phải trừng phạt thể chất trẻ cao nhất so với các nhóm nghề
nghiệp cịn lại. Điều này cho thấy quan niệm cho rằng “cần thiết phải
trừng phạt trẻ về thể chất trong q trình ni dạy trẻ” còn tồn tại khá
phổ biến trong các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư.
5.2.4 Phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho con
Biện pháp giáo dục phổ biến nhất của cha mẹ khi con cái mắc lỗi
là “giải thích tại sao hành vi của con là chưa đúng” để nhắc nhở, phân
tích đúng sai cho con và điều này thể hiện xu hướng dân chủ, bình đẳng
giữa cha mẹ và con cái đang phổ biến hiện nay. Tuy nhiên vẫn còn nhiều
bậc cha mẹ sử dụng các biện pháp mạnh hơn như đánh đòn, la hét hoặc
chửi mắng.
5.3 Một số hoạt động khác của cha mẹ trong chăm sóc trong lĩnh vực
tri thức, đạo đức, lối sống cho con
5.3.1 Người quyết định chính trong việc dạy dỗ con
Người mẹ trong gia đình nơng thơn Vũ Thư khơng những được
tham gia mà đơi khi cịn được tự quyết nhiều hơn người cha trong các
quyết định về dạy dỗ con cái.
5.3.2 Quan niệm về người chịu trách nhiệm chính trong việc
dạy dỗ con
Tỷ lệ cho rằng người vợ nên chịu trách nhiệm chính ở cả ba xã Vũ
Tiến, Nguyên Xá, Hịa Bình đều cao hơn tỷ lệ cho rằng người chồng nên
chịu trách nhiệm chính trong việc dạy dỗ con. Những người có con gái
lại cho rằng người cha nên chịu trách nhiệm chính dạy con cao hơn người
mẹ. Tỷ lệ các bà mẹ cho rằng bản thân họ (là người vợ trong gia đình)
nên là người chịu trách nhiệm chính trong việc dạy dỗ con cao hơn quan
niệm này ở các người cha, trong khi đó người chồng lại cho rằng họ nên
là người quyết định chính cao hơn. Những bậc cha mẹ trẻ tuổi, những
bậc cha mẹ có học vấn cao cũng cho rằng người mẹ nên là người chịu
trách nhiệm chính dạy dỗ con. Điều này nói lên định kiến giới về người
chịu trách nhiệm CSTE trong gia đình thuộc về những người phụ nữ/
người vợ/ người mẹ trong gia đình là rất phổ biến.
5.3.3 Người thực hiện chính việc đưa đón con đi học
Người mẹ là người thực hiện chính đưa đón con đi học cao hơn so
với người cha và người mẹ vẫn là người quan tâm, dành thời gian đưa
đón con, gần gũi, chăm sóc con nhiều hơn.
Tiểu kết chương 5
Đối với hầu hết các bậc cha mẹ thì giáo dục tri thức, đạo đức, lối
sống cho con cái vẫn luôn là một vấn đề được quan tâm và chú trọng.
Khuôn mẫu chung trong việc chăm sóc trong lĩnh vực tri thức, đạo đức,
17
lối sống cho con của các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư vẫn không
vượt ra khỏi các nội dung liên quan đến các giá trị về đạo đức truyền
thống (thậm chí có một số nội dung trong giáo dục đạo đức, lối sống cho
con mang tính áp đặt, gia trưởng vẫn được các bậc cha mẹ ở nông thơn
Vũ Thư duy trì, dù tỷ lệ này là nhỏ). Vai trị giáo dục con của cha mẹ
cũng có sự thay đổi theo hướng bình đẳng hơn, người cha đã tham gia
nhiều hơn vào các cơng việc chăm sóc dạy dỗ con cái, và người mẹ đã
được chia sẻ thống nhất trong các quyết định giáo dục con của gia đình.
Các phương pháp dạy dỗ của cha mẹ cũng đã có sự thay đổi nhất định.
Phần lớn các bậc cha mẹ dạy con bằng phương pháp nhắc nhở, phân tích
cho con hiểu về cái đúng cái sai. Tuy nhiên, vẫn còn một tỷ lệ nhất định
cha mẹ sử dụng phương pháp giáo dục con mang tính bạo lực như quát
mắng, đánh con khi con mắc lỗi.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Về hoạt động chăm sóc thể chất cho con
Tương tự như phát hiện của một nghiên cứu trước đây [48], cuộc
nghiên cứu cho thấy các bậc cha mẹ ở nông thôn Vũ Thư hiện nay khá
quan tâm đến việc cân bằng các loại thức ăn cho con với mong muốn con
được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển khỏe
mạnh, tuy nhiên lại chưa quan tâm nhiều đến việc thực hiện chế độ ăn
uống của trẻ theo nề nếp sinh hoạt hợp lý, điều độ và khoa học.
Đa số các bậc cha mẹ ở nơng thơn Vũ Thư khơng có thói quen đưa
con đi khám và kiểm tra sức khỏe định kỳ, chưa ý thức được tầm quan
trọng của việc kiểm tra sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm và chữa trị
hay ngăn ngừa các loại bệnh tật.
Các bậc cha mẹ ở Xã Hịa Bình quan tâm, đầu tư thời gian và tiền
bạc cho các hoạt động chăm sóc thể chất cho con cao hơn, nhiều hơn và
tốt hơn các bậc cha mẹ ở 2 xã Vũ Tiến và Nguyên Xá. Nhóm trẻ 6-9 tuổi
được các bậc cha mẹ chăm sóc thể chất nhiều hơn nhóm trẻ 10-11 tuổi.
Trong số các con lứa tuổi 6-11, các bậc cha mẹ chăm sóc thể chất cho
con trai tốt hơn so với chăm sóc con gái trong các hoạt động như khám
chữa bệnh nhưng nhóm trẻ em nữ được cha mẹ cho tham gia Sữa học
đường cao hơn nhóm trẻ em nam. Nhóm những người mẹ; nhóm các bậc
cha mẹ trẻ tuổi; nhóm cha mẹ là cán bộ, cơng chức, viên chức; nhóm cha
mẹ ở các gia đình có mức sống khá giả là những nhóm cha mẹ quan tâm
đến các hoạt động chăm sóc về thể chất cho con (như chế độ dinh dưỡng
trong các bữa ăn hàng ngày, đầu tư và quan tâm đến việc cho con uống
sữa ở nhà và ở trường, dành thời gian chăm sóc con, cho con đi khám
chữa bệnh định kỳ…) cao hơn các bậc cha mẹ ở các nhóm cịn lại.
Kết quả từ cuộc khảo sát xác nhận lại một số phát hiện từ các
nghiên cứu trước đây trong việc chăm sóc về thể chất cho con có những
khác biệt theo các đặc điểm của nhóm cha mẹ [9], [17], [22], [30], [48],
18