TRƯỜNG
TIỂU LUẬN
VẤN ĐỀ KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI
LẬP VÀ SỰ VẬN DỤNG NĨ VÀO HOẠT ĐỘNG
CHUN MƠN
Họ và tên học viên:
Lớp:
Khóa học:
GVHD:
Hà Nội, 2022
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
1.
Vấn đề kết hợp biện chứng các mặt đối lập
Sự vận dụng của V.I.Lênin thể hiện trong thực tiễn cách
2.
mạng Nga
Sự vận dụng của Hồ Chí Minh thể hiện trong thực tiễn cách
3.
mạng Việt Nam
Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong
4.
công cuộc đổi mới đất nước
1
2
2
5.
Sự vận dụng vào lĩnh vực kinh doanh
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8
10
11
5
6
7
MỞ ĐẦU
Quy luật mâu thuẫn là “hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra
nguồn gốc, động lực sự vận động, phát triển của thế giới khách quan, là chìa
khóa giúp chúng ta nắm vững, hiểu sâu sắc thực chất của các quy luật, các cặp
phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng và đi sâu vào nghiên cứu bản chất
của các sự vật hiện tượng và các q trình phát sinh, phát triển của nó. Mâu
thuẫn có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn khơng phải chỉ là một mà nó phát sinh rất nhiều mâu
thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập, mâu thuẫn này mất đi,
mâu thuẫn khác lại xuất hiện” [5, tr.80].
Phép biện chứng duy vật là “sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật
và phương pháp biện chứng. Đồng thời là một trong những phạm trù trung tâm
của triết học Mác - Lênin nói chung, của chủ nghĩa duy vật hiện đại nói riêng.
Hiểu về phép biện chứng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Chẳng hạn khi
nghiên cứu về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong phép
biện chứng”, Lênin đã viết “có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là một
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là hiểu được hạt nhân
của phép biện chứng, nhưng điều đó địi hỏi phải có những sự giải thích và một
sự phát triển thêm” [11, tr.487]. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: “Vấn đề kết hợp
biện chứng các mặt đối lập và sự vận dụng nó vào hoạt động chun mơn”
làm đề tài tiểu luận có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3
NỘI DUNG
1. Vấn đề kết hợp biện chứng các mặt đối lập
Về bản chất, mỗi sự vật và hiện tượng đều là “một thể thống nhất của các
mặt, các thuộc tính và khuynh hướng đối lập nhau. Mâu thuẫn chẳng những là
một hiện tượng khách quan mà còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn
tại khách quan trong mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và
tư duy của con người. Khơng có sự vật nào, hiện tượng nào lại khơng có mâu
thuẫn và khơng có giai đoạn nào trong sự phát triển của mỗi sự vật, hiện tượng
lại khơng có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại hình thành”
[5, tr.81].
Phê phán quan điểm duy tâm khách quan của Hêghen bàn về các mặt đối
lập của mâu thuẫn biện chứng, C.Mác đã khẳng định “sự tồn tại của hai loại đối
lập, trên cơ sở đó phân loại thành hai mâu thuẫn cơ bản tồn tại trong hiện thực
đó là mâu thuẫn của tồn tại và mâu thuẫn của bản chất. Tương ứng với hai loại
mâu thuẫn cơ bản đó là hai cách giải quyết hợp lý, đem lại hiệu quả cao nhất”
[1, tr.714]. Theo Mác, “mặt đối lập biện chứng phải là những mặt (bộ phận, yếu
tố, thuộc tính, khuynh hướng...) khác biệt trong cùng một bản chất xác định của
sự vật, hiện tượng, quá trình của thế giới khách quan. Những mặt này, vừa có
đặc điểm chung giống nhau lại vừa có đặc điểm riêng biệt và vì thế, giữa chúng
vừa có mối liên hệ ràng buộc, quy định lẫn nhau vừa có sự bài trừ, phủ định
nhau. Hai mặt đối lập biện chứng trong cùng một bản chất xác định của sự vật,
hiện tượng và quá trình liên hệ với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng; các
mặt đối lập biện chứng trong những điều kiện nhất định có thể chuyển hóa lẫn
nhau” [1, tr.715].
Mác phân chia làm hai loại đối lập: “đối lập của sự tồn tại bao gồm những
mặt (bộ phận, yếu tố, thuộc tính...) có cùng một bản chất; chẳng hạn, cực Bắc và
cực Nam của thanh nam châm, nam giới và nữ giới của lồi người”. Theo ơng,
“cực Bắc và cực Nam cũng đều là những cực; bản chất chúng là đồng nhất cũng
vậy, nam giới và nữ giới tạo thành cùng một loài, cùng một bản chất - bản chất
4
con người” [2, tr.226]. Với quan niệm đó C.Mác đi đến khẳng định: “mặt đối lập
là những quy định đối lập của cùng một bản chất, là những khác biệt của cùng
một bản chất ở mức độ phát triển cao nhất của nó chúng là bản chất được phân
hóa ra” [2, tr.227]. Từ đấy, ông khẳng định: “tương tác của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực cho mọi sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Cịn đối lập của bản chất đó là hai mặt đối lập có bản chất khác nhau nhưng
cùng tồn tại trong một chỉnh thể sự vật, hiện tượng” [2, tr.256].
Mác cũng đưa ra cách giải quyết thích hợp cho hai loại đối lập trên, “nếu
là đối lập của tồn tại thì cách giải quyết duy nhất là kết hợp các mặt đối lập với
nhau. Bởi vì, các mặt đối lập trong mâu thuẫn của tồn tại về thực chất là cùng
một bản chất như nhau, tồn tại không tách rời nhau, luôn luôn phải nương tựa
vào nhau, nếu thiếu mặt này thì mặt kia cũng sẽ khơng thể tồn tại và hệ quả tất
yếu là quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng hàm chứa mâu thuẫn sẽ không
thể diễn ra bình thường, thậm chí là sự vật sẽ bị diệt vong” [8, tr.60].
Như vậy, “trong mâu thuẫn biện chứng có lúc tự bản thân nó đã thiết lập
một sự kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn đang tồn tại mà không
cần đến sự can thiệp của chủ thể. Đó chính là q trình kết hợp các mặt đối lập
mang tính khách quan, tự nó. Quá trình này diễn ra phổ biến trong tự nhiên,
chẳng hạn như đồng hóa và dị hóa, di truyền và biến dị là những mặt đối lập tạo
nên những mâu thuẫn vốn có trong bản thân sinh vật, sự kết hợp những mặt đối
lập này là yếu tố đảm bảo cho sự sống diễn ra bình thường” [8, tr.61].
Về vai trò, “mâu thuẫn của tồn tại diễn ra phổ biến trong tự nhiên, xã hội
và tư duy con người và việc giải quyết mâu thuẫn loại này cũng là việc làm
thường xuyên, cần thiết nhằm thúc đẩy sự vận động, phát triển của sự vật nhưng
không làm cho mâu thuẫn mất đi. Giải quyết mâu thuẫn thuộc loại này trong
phần lớn trường hợp, không phải là loại bỏ mâu thuẫn mà là tìm kiếm con đường
và phương pháp kết hợp các mặt đối lập với nhau trong cùng một bản chất, sao
cho có thể tạo điều kiện thuận lợi để mâu thuẫn trở thành động lực thực sự của
sự phát triển” [8, tr.62].
5
Về nội dung, “sự vật (hiện tượng, quá trình…) trong thế giới vô cùng đa
dạng, phong phú. Các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn biện chứng cũng vô cùng
phong phú và đa dạng. Vì vậy sự chuyển hố của các mặt đối lập là rất phong
phú và nhiều vẻ”. Lênin viết: “không phải chỉ là sự thống nhất của các mặt đối
lập mà cịn là chuyển hố của mỗi quy định, chất đặc trưng, mặt, thuộc tính
sang mỗi cái khác (sang cái đối lập với nó)” [12, 319].
Vấn đề đặt ra là hiểu sự “chuyển hố” đó như thế nào cho đúng? Mà ở
đây, chúng ta cần chú ý rằng “chuyển hoá là một phạm trù triết học với tính chất
trừu tượng cao, nó khái qt những hiện tượng chuyển hóa mn hình mn vẻ
của sự vật khách quan. Nên khơng được hiểu khái niệm đó một cách đơn giản
máy móc. Sự chuyển hóa diễn ra đa dạng, tuỳ theo từng sự vật có mâu thuẫn
khác nhau mà sự chuyển hoá của các mặt đối lập cũng diễn ra một cách khác
nhau. Ở mỗi trường hợp riêng biệt lại phải giải thích sự chuyển hố cụ thể của
những mặt đối lập đúng như trong thực tế diễn ra. Tuyệt đối khơng được coi mọi
sự chuyển hố đồng loạt như nhau, mà ở những trường hợp cụ thể có những sự
chuyển hố cụ thể. Phương thức, tính chất chuyển hố là hết sức phong phú và
đa dạng. Vì, một mặt là do tính chất của mâu thuẫn, mặt khác là do tính chất của
điều kiện lịch sử trong đó diễn ra cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập quy định.
Nhưng bất cứ cuộc đấu tranh nào cũng hướng tới sự phá vỡ sự thống nhất cũ để
thiết lập sự thống nhất mới cao hơn, và vì thế, bất cứ sự chuyển hố nào cũng
khơng phải là sự chuyển đổi vị trí giản đơn giữa hai mặt đối lập” [8, tr.64].
Tuy nhiên suy đến cùng tất cả đều là “sự chuyển hóa của các mặt đối lập
trong sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Song trong mỗi cách tiếp cận.
Và khai thác khác nhau, trong những quy luật và phạm trù khác nhau… thì các mặt
đối lập có sự chuyển hóa khác nhau. Tư tưởng về mâu thuẫn biện chứng với tính
cách là q trình thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong một
chỉnh thể được thể hiện rõ trong bộ Tư bản của Mác” [8, tr.65]. Trong khi phân tích
thuộc tính của hàng hoá, C. Mác chỉ ra: “Sản phẩm với tư cách là giá trị sử dụng
mâu thuẫn với chính bản thân mình với tính cách là giá trị”. Ở một chỗ khác, C.
6
Mác đã vạch ra mâu thuẫn của chính q trình xuất hiện tư bản: “Tư bản xuất hiện
trong lĩnh vực lưu thơng và đồng thời lại ở ngồi lĩnh vực lưu thông. Đấu tranh của
các mặt đối lập biện chứng là q trình trong đó các mặt đối lập liên hệ, tác động,
bài trừ, phủ định lẫn nhau làm cho sự vật ln vận động, biến đổi và phát triển.
Chính nhờ sự đấu tranh này mà các sự vật vận động, chuyển hoá lẫn nhau làm cho
thế giới trở nên vô hạn, vĩnh viễn và bất diệt” [10, tr.45].
Về điều kiện, “Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín
muồi. Cho nên, chúng ta khơng được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng
khi chưa có đủ điều kiện; phải tạo điều kiện thức đẩy sự chín muồi của mâu
thuẫn và điều kiện giải quyết. Phải nắm vững phương pháp giải quyết mâu thuẫn
đó là thơng qua đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không được phép dung hòa
các mặt đối lập, tuy nhiên phải vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Phải
biết vận dụng linh hoạt các hình thức giải quyết mâu thuẫn thơng qua hình thức
chuyển hóa mặt đối lập. Đó có thể là một trong hai mặt đối lập chuyển hóa vào
mặt còn lại, hoặc mặt này thủ tiêu mặt kia, hoặc cả hai mặt cùng chuyển hóa
sang những hình thức mới của mình” [10, tr.46].
2. Sự vận dụng của V.I.Lênin thể hiện trong thực tiễn cách mạng Nga
Một nét nổi bật trong tư duy biện chứng của Lênin là tư tưởng về sự kết
hợp các mặt đối lập. “Trong đấu tranh cách mạng và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, V.I Lênin coi sự kết hợp các mặt đối lập như là một sách lược của
Đảng Bơnsêvích và của nhà nước Nga để thực hiện sự thỏa hiệp, hợp tác liên
minh tạm thời với những lực lượng đối lập vì lợi ích của cách mạng của chủ
nghĩa xã hội. V.I Lênin cho rằng thái độ của chủ nghĩa Mác đối với những
chuyển biến quanh co của lịch sử cũng đã đề cao sự thỏa hiệp, lợi dụng sự thỏa
hiệp ấy. Lênin giải thích rõ, khái niệm kết hợp có nghĩa là những sự vật khác
nhau mà chúng ta cần phải kết hợp với nhau; sự kết hợp có nghĩa là phải biết
vận dụng các biện pháp của chính quyền nhà nước để bảo vệ những lợi ích vật
chất và tinh thần của giai cấp vơ sản đã hồn tồn liên hợp lại để cho nó khỏi bị
chính quyền nhà nước đó xâm phạm. Ơng khơng những chỉ ra tính tất yếu của
việc sử dụng sự kết hợp các mặt đối lập như là một nghệ thuật, mà còn coi như
7
đó là một chiến lược và sách lược của Đảng Cộng sản Liên Xơ trong tồn bộ
lịch sử đấu tranh của mình” [9, tr.94].
Sau này được Lênin “vận dụng có hiệu quả đã làm nên Cách mạng tháng
Mười Nga (1917) thành công rực rỡ, trở thành một trong những sự kiện vĩ đại
nhất thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới cho xã hội lồi người. Chính sự tài tình
của Lênin và Đảng Bơnsêvích Nga trong việc xây dựng và củng cố khối liên
minh công nông vững chắc, đã thu hút các lực lượng khác vào Mặt trận cách
mạng, tăng cường sức mạnh cho lực lượng cách mạng, đủ sức lật đổ sự thống trị
của chuyên chế Nga hoàng, bọn tư sản cá mập và bọn Cu lắc (địa chủ ở nơng
thơn), đem lại quyền làm chủ hồn tồn cho người lao động. Trong xã hội nước
Nga tư bản lúc bấy giờ, công nhân và nông dân là hai giai cấp gắn liền với hai
chế độ sở hữu khác nhau thậm chí đối lập nhưng họ lại cùng chung số phận là
giai cấp bị thống trị, bị áp bức, bị bóc lột. Vì vậy, họ có chung một kẻ thù là bọn
phong kiến, tư sản. Do đó, họ đồn kết chặt chẽ với nhau để cùng đánh thắng kẻ
thù. Lênin cũng nhận thấy nông dân với tư cách là người lao động bằng bạn
đồng minh; với tư cách là người tư hữu và đầu cơ bằng kẻ thù, từ đấy ông đã
cùng những người cộng sản Nga giác ngộ họ, đưa họ vào khối liên minh công
nông và lấy liên minh này làm nồng cốt của cách mạng. Thắng lợi của Cách
mạng tháng Mười Nga đã chứng minh quan điểm đúng đắn của phép biện chứng
mácxít về phương thức kết hợp các mặt đối lập trong việc giải quyết mâu thuẫn
của tồn tại” [9, tr.95].
3. Sự vận dụng của Hồ Chí Minh thể hiện trong thực tiễn cách mạng
Việt Nam
Ở Hồ Chí Minh, chúng ta thấy một tư duy biện chứng chịu ảnh hưởng sâu
sắc triết học Phương Đông và phép biện chứng mácxít. Tư duy biện chứng của
Người còn được biểu hiện rõ trong tư tưởng về mối quan hệ giữa “cái bất biến
và cái vạn biến” [7, tr.190]. “Tư tưởng biện chứng giữa cái bất biến và cái vạn
biến xuyên suốt trong đường lối, sách lược và chiến lược cách mạng của Hồ Chí
Minh. Cái bất biến trong tư duy Hồ Chí Minh được coi là quy luật, cái tồn tại lâu
8
dài, còn cái vạn biến là hiện tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên
có thể dựa vào quy luật mà lý giải hiện tượng, hay ngược lại từ phân tích vơ vàn
hiện tượng để tìm ra quy luật tương ứng. Vậy, cái bất biến được coi là cái thống
nhất, mặt ổn định của sự vật, Hồ Chí Minh thường bắt đầu từ cái bất biến đi tới
cái khả biến của xã hội và con người” [3, tr.74].
Xuất phát từ tư duy biện chứng về mối quan hệ giữa cái bất biến và cái
vạn biến (cái khả biến), “Hồ Chí Minh đã kết hợp một cách có ý thức hai mặt
đối lập - cái bất biến và cái khả biến; đó cũng là thể hiện sự kết hợp giữa tính
kiên định về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, lấy cái đại
đồng để khắc phục cái tiểu dị, biến nó thành đường lối chỉ đạo cách mạng đi đến
những thắng lợi. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: chính sự kết hợp mà
khơng ai bắt chước nỗi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh
hoạt về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền
thống yêu nước với sự phân tích Mácxít đã tạo nên tính độc đáo của ơng Hồ Chí
Minh” [3, tr.75].
Tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh, “đặc biệt chú trọng việc kết hợp các
mặt đối lập như một sách lược, một biện pháp, một nghệ thuật để giải quyết các
mâu thuẫn xã hội đã được Đảng và Nhà nước ta vận dụng một cách sáng tạo
trong thời đại mới - thời đại của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và tồn cầu hóa.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược
đã chứng tỏ đường lối, sách lược và chiến lược của Hồ Chí Minh là đúng đắn;
chứng tỏ tư duy kết hợp các mặt đối lập của Hồ Chí Minh đã đem lại hiệu quả
thiết thực, đã tăng cường khối liên minh công nông và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất và khẳng định sự kết hợp vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của Hồ
Chí Minh là hồn tồn đúng” [3, tr.76].
4. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong công
cuộc đổi mới đất nước
Việc nắm vững lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về sự
kết hợp biện chứng các mặt đối lập giúp Đảng ta nhận thức một cách đầy đủ,
9
khoa học về thời kỳ quá độ nói riêng và chủ nghĩa xã hội nói chung, tiến hành
đổi mới tồn diện đất nước. “Đó là thời kỳ mà trên tất cả mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội còn mang dấu vết của xã hội cũ, có sự đan xen giữa cái cũ tức chủ
nghĩa tư bản và cái mới tức chủ nghĩa xã hội, mà cái mới đôi khi cịn ở dạng mầm
mống, phát triển chậm chạp, thậm chí bị cái cũ lấn át; đây còn là thời kỳ khó
khăn, phức tạp và rất lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, nhiều nấc trung gian.
Nhiệm vụ kinh tế trong thời kỳ quá độ là xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, thiết lập các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và phải được hiểu đây là
một q trình lâu dài. Để làm được điều đó, cần phải xây dựng nền kinh tế thị
trường với sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy,
cơ sở tồn tại nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế khác nhau là do
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất. Do đó, nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ địi hỏi phải có sự quản lý
của nhà nước để tránh đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh” [4, tr.178].
“Thực tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, đang trải qua nhiều quanh co, thử thách đòi hỏi chúng
ta xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự đan xen
của nhiều yếu tố đối lập nhau giữa cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và cái lạc hậu,
cái hoàn thiện và chưa hoàn thiện... Điều đó, buộc Đảng và Nhà nước ta trong
quá trình quản lý, điều hành nền kinh tế cần biết khai thác, tận dụng thời cơ,
khắc phục mọi lực cản, trở ngại vì mục đích cuối cùng đưa nước ta tiến lên chủ
nghĩa xã hội” [4, tr.180].
5. Sự vận dụng vào lĩnh vực kinh doanh
Việc nắm vững lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin về sự
kết hợp biện chứng các mặt đối lập giúp “các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp
ứng dụng tư tưởng kết hợp mặt đối lập vào thực tế để nâng cao khả năng cạnh
tranh và quản lý doanh nghiệp. Ví dụ như khi nhu cầu thị trường thay đổi nhanh
chóng khiến cho kế hoạch ban đầu đã trở nên sai lầm. Đây là lúc xảy ra sự đấu
10
tranh giữa hai mặt đối lặp. Cần có sự kết hợp hoàn hảo giữa hai mặt đối lập.Chủ
thể quyết định ở đây cần có bản lĩnh trính trị và khả năng điều chỉnh hợp lý để
qua sự kết hợp này phát triển doanh nghiệp một cách hợp lý” [6, tr.50].
Trong kinh doanh lợi nhuận và rủi ro là “hai mặt khơng thể tách rời nhau
được. Bất kì một hoạt động nào của doanh nghiệp đều tồn tại sự rủi ro. Lợi
nhuận càng lớn rủi ro càng nhiều. Nhưng hiển nhiên sự phát triển của một doanh
nghiệp là lợi nhuận. Như vậy, trong suốt quá trình thành lập, tồn tại và phát triển
rủi ro là cái doanh nghiệp luôn đối mặt. Một doanh nghiệp phát triển là doanh
nghiệp kết hợp hoàn hảo giữa hai mặt đối lập rủi ro là lợi nhuận. Trước một mức
lợi nhuận khổng lồ doanh nghiệp có tính đến rủi ro. Hiện tại có tại một loại chi
phí trong kinh tế gọi là chi phí rủi ro. Đây là một ví dụ điển hình cho việc kết
hợp hai mặt đối lập một cách thành công. Mà qua đó doanh nghiệp tối đa hóa lợi
nhuận có được. Hầu hết những sự kết hợp các mặt đối lập trong hoạt động doanh
nghiệp là sự kết hợp có tính khoa học. Tích cực, chủ động mang lại lợi ích tối đa
cho kinh doanh. Các doanh nghiệp là những chủ thể có khả năng và nắm bắt
phương pháp cách triệt để. Nhờ đó doanh nghiệp có thể phát triển các bềnh vững
lâu dài” [6, tr.51].
11
KẾT LUẬN
Tư tưởng biện chứng về các mặt đối lập đã sớm xuất hiện trong lịch sử
nhân loại. “Trước khi phép biện chứng mácxít ra đời, tư tưởng đó đã đạt được
đỉnh cao nhất trong những học thuyết biện chứng của các nhà triết học cổ điển
Đức, như I.Cantơ và đặc biệt là G.V.Hêgen. Hêgen đã sớm nhận ra tính phổ biến
của mâu thuẫn và vai trị của nó trong quá trình vận động và phát triển của thế
giới. Trong hệ thống triết học của mình, khi cho rằng tất cả mọi vật đều có tính
chất mâu thuẫn trong bản thân nó, Hêgen đã khẳng định: Mâu thuẫn là nguồn
gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống. Đứng trên lập trường
duy vật, kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá trị trong
tồn bộ lịch sử triết học hơn 2000 năm, dựa trên những thành tựu có tính chất
vạch thời đại của khoa học hiện đại cũng như thực tiễn của thời đại, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã phát triển học thuyết về mâu thuẫn lên một tầm cao mới - học
thuyết mâu thuẫn trên cơ sở quan niệm duy vật biện chứng, khoa học, V.I.Lênin
đã coi học thuyết đó là hạt nhân của phép biện chứng” [13, tr.201].
Ở nước ta, “việc nghiên cứu phép biện chứng trong điều kiện mới, nghiên
cứu phương pháp giải quyết mâu thuẫn của V.I Lênin được cụ thể hóa trong
chính sách kinh tế mới, giúp chúng ta thấy được tính phức tạp của cuộc đấu
tranh giữa cái mới và cái cũ, đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng vào
điều kiện riêng của đất nước” [3, tr.87].
12
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.ăng-ghen toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
2. C.Mác và Ph.ăng-ghen tồn tập, tập 41, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 1976.
3. Trần Văn Hiếu (2019), Nghệ thuật giải quyết mâu thuẫn xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta, Tạp chí Triết học, (số 5), tr.15-19.
4. Hội đồng trung ương (2002), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Hùng (2017), Vài suy nghĩ về vấn đề giải quyết mâu
thuẫn, Tạp chí Triết học, (số 2), tr.36-39.
6. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
7. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
8. Phạm Văn Nguyên (2015), Về phương pháp kết hợp các mặt đối lập để
giải quyết mâu thuẫn xã hội trong thời kỳ quá độ, Tạp chí Lý luận chính trị, (số
45), tr.54-57.
9. Phạm Văn Quang (2018), Lý luận của Lênin về sự kết hợp các mặt đối
lập và cách mạng Việt Nam hiện nay, Tạp chí Triết học, (số 3), tr.65-80.
10. Nguyễn Văn Tình (2016), Tìm hiểu mâu thuẫn biện chứng trong triết
học Mácxít, Tạp chí Lý luận chính trị truyền thơng, (số 33), tr.26-29.
11. V.I.Lênin, toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
12. V.I.Lênin, toàn tập, tập 34, Nxb Tiến bộ Mátxcơva, 1976.
13. Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
13