A. Mở đầu:
Vì sao chúng ta chọn chủ nghĩa xã hội (CNXH)? Đây là vấn đề trọng đại
nhiều người muốn làm sáng tỏ vì chỉ có thật sự làm rõ vấn đề này thì trong
đám sương mù dày đặc về tư tưởng và lý luận hiện nay và trong cơn phong ba
bão táp chúng ta mới có thể tự giác, kiên định duy trì và phát triển CNXH. Và
cũng chỉ khi làm rõ vấn đề này, chúng ta mới có thể hiểu phải làm thế nào để
giữ vững và phát triển CNXH một cách khoa học và hoàn chỉnh. Trên con
đường phát triển, những bước quanh co khúc khuỷu là bình thường. CNXH
đang ở bước quanh của lịch sử, cũng như nhiều nước tư bản đã từng gặp
không ít cơn sóng gió, khủng hoảng. Lịch sử ghi nhận những năm 60-70 của
thế kỷ trước, khi nhiều nước XHCN đang phát triển, giá trị nhân văn của cuộc
sống xã hội trở thành niềm mong ước của nhân dân nhiều nước thì cũng là
thời điểm chủ nghĩa tư bản hốt hoảng biết tự điều chỉnh để thích ứng. Bằng
thành tựu đổi mới, Việt Nam đang cho thế giới thấy rõ sự tồn tại của chế độ
XHCN, đồng thời qua tổng kết lý luận từ thực tiễn, chúng ta cũng đang làm
giàu thêm kho báu tư tưởng của CNXH thế giới. Con đường chúng ta đã chọn
đó là con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và cho dù gặp nhiều khó khăn
thử thách nhưng chúng ta vẫn quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ đã đạt ra để
xây dựng một nước Việt Nam “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ văn minh”
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1
B. Nội dung
I. Những vấn đề cơ bản:
1. Khái niệm:
Thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH :là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc tòan bộ lĩnh vực đời sống xã hội ,bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và
nhân dân lao động giành được chính quyền nhà nứớc cho tới khi tạo ra được
những cơ sở của CNXH trên lĩnh vực đời sống xã hội.
2. Đặc điểm:
Các nhân tố xã hội thời kỳ mới đan xen với thời kỳ chế độ cũ,đồng
thời đấu tranh với nhau trên từng lãnh vực đời sống chính trị ,văn hóa,tư
tửởng tập quán..
Đặc điểm cụ thể:
- Chính trị: cái bản chất của thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ quá độ
chuyển tiếp về mặt chính trị Do nhà nứớc chuyên chính vô sản và ngày càng
được cũng cố hoàn thiện.
-Kinh tế: đặc trưng của TKQĐ là nền kinh tế nhiều thành phần ,tập
trung là thành phần kinh tế nhà nứơc .Các thành phần kinh tế vừa hộ trợ vừa
cạnh tranh lẫn nhau .
-Xã hội : đây là thế mạnh của TKQĐ,đã gần như loại bỏ sự hằng thù của
sự đấu tranh giai cấp .Tương ứng với từng lọai thành phần kinh tế có những
cơ cấu giai cấp-tầng lớp khác nhau ,vừa mang tính đối kháng ,vừa hỗ trợ
nhau.
-Văn hóa,tư tửởng : có tồn tại nhiều lọai tư tưởng ,văn hóa tinh thần
khác nhau, có xen lẫn sự đối lập.nhưng vẫn hoạt động trên phương châm :”tốt
đạo , đẹp đời “
3. Phân loại:
Có 2 kiểu quá độ tùy thuộc vào điểm đi lên CNXH của các nước.:
Quá độ trực tiếp :từ TBCN lên XHCN
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển tuần tự của xã hội loài ngời.
Là sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nớc mà CNTB đã phát triển đầy đủ, lực
lợng sản xuất đã xã hội hoá cao mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu t nhân TBCN; mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai
cấp t sản đến độ chín muồi. Cách mạng XHCN nổ ra và thắng lợi, chính quyền
nhà nớc của giai cấp công nhân đợc thiết lập, mở đầu thời kỳ quá độ từ CNTB
lên CNXH. Cho đến nay loại hình nay cha xuất hiện trong thực tế, do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan ...
Quỏ giỏn tip :t xó hi tin TBCN lờn CNXH,b qua TBCN
Loại quá độ này phản ánh quy luật phát triển nhảy vọt của xã hội loài ng-
ời.
T tởng về loại quá độ thứ hai đã đợc C.Mác và Ph.Ăngghen dự kiến. Theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, sau khi chủ nghĩa xã hội ở các nớc t bản Tây Âu giành
đợc thắng lợi, thì các nớc lạc hậu có thể đi thẳng lên CNXH .
Tiếp tục t tởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã chỉ ra bản chất
giai cấp, nội dung và các điều kiện của quá độ tiến thẳng tới chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua giai đoạn phát triển t bản chủ nghĩa .
T tởng của V.I.Lênin về bản chất giai cấp và nội dung của quá độ tiến
thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN đợc trình bày trong bài phát
biểu nớc Cộng hoà Nhân dân Mông Cổ năm 1921.
4. Tớnh tt yu:
a. Tớnh tt yu chung:
Phõn tớch bi cnh hin thc Chõu u trong nhng nm 80-90 ca
th k XIX ,v trin vng ca cuc cỏch mng xó hi do giai cp cụng nhõn
v chớnh ng cỏch mng ca nú lónh o .Engel cho rng: ó n lỳc chớnh
ng ca giai cp cụng nhõn phi nm ly quyn qun lý t nc ,tip thu
nhng thnh qu kinh t ,xó hi do giai cp t sn to ra v ly ú lm tin
vt cht to lp ra ch xó hi mi cng nh sinh ra nhng con ngi
m ch cú h mi sc mnh ,ý chớ ngh lc ,cú nng lc sang to lý lun v
hat ng thc tin ,luụn nhy bộn vi s bin i ca hin thc lch s l
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3
một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng “.Bởi tiếp theo
thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản sẽ là một TKQĐ lâu dài ,hết sức phức
tạp và khó khăn .Coi thời kỳ quá độ này là một cuộc đấu tranh lâu dài ác liệt.
Engel cho rằng : “cuộc đấu tranh này chỉ đi đến thắng lợi cuối cùng khi chính
đảng cách mạng của giai cấp công nhân có được đội ngũ những người công
nhân sáng suốt về chính trị ,kiên trì nhẫn nại, nhất trí ,có kỷ luật,những phẩm
chất mà nhờ đó họ thu được những thành công rực rỡ”.Bởi vì họ là những
người đang nắm trong tay “tính tất yếu của lịch sử”của cuộc đấu tranh này.
b. Tính tất yếu ở Việt Nam:
Như đã biết,xã hội có áp bức ắt hẳn có đấu tranh,và nhân dân ta đã lấy
đấu tranh để chống lại áp bức bóc lột,của Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ.Là
một dân tộc yêu chuộng hòa bình ,từ ngàn đời khát khao về một xã hội công
bằng tốt đẹp ;được thể hiện qua những cuộc đấu tranh chống ngọai xâm .Và
chân lý này mong muốn được ước mơ giải phóng dân tộc mình,dân ta phải
đấu tranh với kẻ thù đàn áp .Đó là tính tất yếu của xã hội .Nhưng vì sao chúng
ta lựa chọn con đường đi lên XHCN ,bỏ qua TBCN?Có thể thấy những nhà
yêu nước như Phan Bội Châu ,Phan Chu Trinh cũng đã từng lựa chọn con
đường cách mạng tư sản để đấu tranh nhưng không thành công.Điều đó cho
thấy con đường đấu tranh bằng cách mạng Tư sản không phù hợp với thực
trạng nước ta bấy giờ .
Đến với con đường đấu tranh của HCM,người đã chọn hình thức đấu
tranh vô sản ,do giai câp công nhân ,nông dân lãnh đạo,và đã giành được
thắng lợi thể hiện ở Cách mạng tháng Tám thành công ,miền Bắc đi lên xây
dựng XHCN,cuộc cách mạng này chứng minh sự lựa chọn của Đảng và nhân
dân ta là đúng đắn, phù hợp với thực tế Việt Nam.
* Đồng thời ,theo lý luận của khoa học của Lê Nin thì :
-Thứ nhất: CNXH có thể diễn ra ở các nước thuộc địa.
-Thứ hai: Giữa 2 giai đọan của CĐCNXH ko có vách ngăn phù hợp ,vì
vậy miền Bắc đi lên CNXH trước miền Nam.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4
Thứ ba: “Quá độ bỏ qua” chế độ TBCN trong thời đại hịên nay chỉ là sự
vận dụng đúng lịch sử của nhân loại đã có như Nga Đức Pháp Mỹ ..từ chế độ
nô lệ bỏ qua chết độ phong kiến lên TBCN
* Tóm lại ,có thể trả lời câu hỏi :”vì sao Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua
TBCN là do:
-Phù hợp với chí ý nguyện vọng của nhân dân
-Phù hợp với hiện thực Việt Nam
-Phù hợp với cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê
Và đây chính là cơ sở lý luận mang tính tất yếu của thời kỳ qúa
độ(TKQĐ) lâu dài ở Việt Nam.
* Vậy tính tất yêu của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam là gì?
- Đây chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi
lên XHCN trong thời đài ngày nay. Hay nói cách khác đấy chính là sự phù
hợp với lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác Lê Nin.Sau cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ thành công,dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN ở
miền Bắc,nước ta chuyển ngay sang cách mạng XHCN,vừa xây dựng XHCN
ở miền Bắc ,vừa đấu tranh chống Đế Quốc Mỹ ở miền Nam;Đồng thời đấy
cũng là sự phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay :CNTB với những mâu
thuẫn ngày càng gay gắt và sâu sắc chắc chắn sẽ bị thay thế bởi hệ thống
XHCN trên phạm vi tòan thế giới .CNTB không phải là tương lai của lòai
người . Đây là xu hướng khách quan thích hợp với lịch sử.
- Đây là sự phù hợp với lịch sử của Việt Nam thể hiện ở sự phù hợp
TKQĐ ở nước ta với lý luận chung về tính chất tất yếu của TKQĐ,cụ thể là:
Nhà nứớc ta đã thực hiện rõ điều này trên quan điểm:”Bỏ qua CNTB,tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
TBCN nhưng hấp thu kế thừa nhừng thành tựu mà nhân lọai đã đạt được dứới
thời TBCN.” Đất nước ta còn yếu kém,nhìều tàn dư của chế độ XH cũ và
chiến tranh để lại .Công cuộc đi lên CNXHlà 1 công việc khó khăn phức
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5
tạp .do đó cần phải có thời gian để cải tạo XH ,tạo điều kiện để vật chất tinh
thần cho CNXH .
-Và sự thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở nứoc ta đã có đủ
điều kiện quá độ lên TBCN ,đó là những điều kịên:
+ Nhân dân đòan kết tin tửởng vào chế độ XHCN
+ Chính quyền thuộc về giai cấp của công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng CS
+ Có sự giúp đỡ của các nứớc tiên tiến ,các nứoc XHCN an em và
phong trào CM tiến bộ của thế giới
Tóm lại : thời kỳ qúa độ lên CNXH bỏ qua thời kỳ TBCN là tính tất
yếu, là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng và nhân dân ta.
5. Nội dung và nhiệm vụ của quá trình quá độ lên CNXH ở Việt
Nam:
a. Nội dung:
* Sự tồn tại của nhà nước cộng sản là tất yếu:
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các
lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và
cái cũ.
Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử. Tính chất
đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài
người. C.Mác khẳng định: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời
kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai
cấp vô sản".
Website: Email : Tel : 0918.775.368
6
Sự tồn tại của nhà nước vô sản trong thời kỳ quá độ này là tất yếu vì
trong thời kỳ quá độ xã hội còn tồn tại các giai cấp bóc lột và các lực lượng
xã hội, chúng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội khiến giai cấp
công nhân và nhân dân lao động phải trấn áp chúng bằng bạo lực. Hơn nữa,
trong thời kỳ quá độ còn có các giai cấp và tầng lớp trung gian khác. Do địa
vị kinh tế - xã hội của mình, họ dễ dao động giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản, họ không thể tự mình tiến lên chủ nghĩa xã hội. Giai cấp vô sản phải
tìm mọi cách thu hút lực lượng đông đảo về phía mình. ở đây, chuyên chính
vô sản đóng vai trò là thiết chế cần thiết để bảo đảm sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân đối với nhân dân.
b. Nhiệm vụ:
Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động
chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới. Nhiệm vụ này bao gồm:
- Cải tạo những thành phần kinh tế không xã hội chủ nghĩa theo hướng xã
hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từng bước phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hoá và tư
tưởng, làm cho hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa chiếm địa vị chủ đạo trong xã hội,
xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
- Đối với những nước kém phát triển, còn phải phát triển lực lượng sản
xuất, công nghiệp hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật mà thiếu nó
thì không thể có chủ nghĩa xã hội.
Thời kì quá độ dài hay ngắn tuỳ thuộc vào tình hình lịch sử cụ thể của
mỗi nước, nhất là vào trình độ xuất phát ban đầu. Trong thời kì đó, việc tiến
hành cải tạo xã hội ở từng nước có thể sử dụng những hình thức và phương
pháp cụ thể riêng biệt phù hợp với những điều kiện lịch sử, dân tộc, kinh tế,
chính trị và văn hoá của mỗi nước. Ở Việt Nam, sau 1975, cả nước bước vào
Website: Email : Tel : 0918.775.368
7
TKQĐLCNXH. Đại hội VII Đảng Cộng sản Việt Nam (6.1991) đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ. Cương lĩnh đã khẳng định
tính tất yếu của thời kì quá độ, đề ra những phương hướng cơ bản và những
định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại
trong thời kì đó. Cương lĩnh cũng chỉ rõ, TKQĐLCNXH ở Việt Nam là quá
trình lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi
kết thúc thời kì quá độ là xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ
nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá… phù
hợp làm cho Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh.
Muốn tổ chức, xây dựng nên cả một hệ thống quan hệ kinh tế xã hội chủ
nghĩa, thực hiện xã hội hóa “thật sự” sản xuất và nâng cao năng suất lao động
như vậy thì phải tiến hành cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xóa bỏ quyền
sở hữu của bọn bóc lột, phải chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá thể sang
nền kinh tế tập thể, sản xuất hiện đại; phải xóa bỏ hệ thống tổ chức kinh tế cũ,
xây dựng hệ thống tổ chức kinh tế mới, phải tổ chức lại lao động xã hội theo
một trình độ cao, thực hiện sản xuất và phân phối một cách có kế hoạch trên
cơ sở sản xuất ngày càng hiện đại hóa vì lợi ích trước mắt và lâu dài của mọi
người lao động - Tổ chức lao động theo một trình độ cao là tổ chức lao động
trên cơ sở những quan hệ xã hội mới giữa những người lao động đã làm chủ
tập thể, liên hiệp một cách tự do và bình đẳng trong lao động sản xuất và phân
phối sản phẩm, có sự phân công hợp lý và hiệp tác hữu nghị rộng rãi; đó còn
là tổ chức lao động xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu nhằm kết hợp
những thành tựu mới nhất của khoa học và kỹ thuật với tập thể những người
lao động, có văn hóa, có kỹ thuật, có kỷ luật tự giác, đem lại nhiệt tình cách
mạng và nghị lực sáng tạo xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đó là
con đường đúng đắn để nâng cao năng suất lao động lên vượt bậc. Đó cũng là
cái quan trọng nhất, căn bản nhất đảm bảo cho thắng lợi của trật tự xã hội
mới.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
8
Về phát triển kinh tế, chuyển mạnh từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao
cấp sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về bản
chất, đây là sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam là thời kỳ tất yếu khách quan, nên Người chủ trương, sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ, chúng ta chọn con đường rút ngắn, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng phải trải qua thời kỳ quá độ. Cách đi này
được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa...
Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền
tảng vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ
nghĩa xã hội...".
Quan niệm tiến dần lên chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh thể hiện rõ
nhận thức rằng, thời kỳ quá độ là một chặng tiến gần và trực tiếp với chủ
nghĩa xã hội, nhưng nó là một giai đoạn độc lập tương đối. Đó là thời kỳ xã
hội đang từ bỏ những cái cũ, cái lạc hậu và bước đầu xây dựng những cái
mới, cái tiến bộ. Nó hoàn toàn chưa phải là thời kỳ hàm chứa toàn vẹn những
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Người nói, ta bước vào thời kỳ quá độ tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa
với nghĩa là bỏ qua một phương thức sản xuất, một hình thái kinh tế - xã hội,
một chế độ chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ
xây dựng chế độ dân chủ mới, trong đó, về chính trị, mọi quyền lực đều thuộc
về nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng; về kinh tế, thực hiện nền kinh tế
nhiều thành phần.
Như vậy, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ phát triển kinh tế
nhiều thành phần. Quan điểm này đã được chúng ta thực thi từ khởi sự đổi
Website: Email : Tel : 0918.775.368
9
mới (1986) và ngày một hoàn thiện nó. Đại hội X khẳng định trên cơ sở ba
chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu
và năm thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, bình đẳng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành
mạnh. Ở đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo điều kiện thúc đẩy
các thành phần kinh tế cùng phát triển; kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng,
là một trong những động lực của nền kinh tế. Hồ Chí Minh rất coi trọng các
thành phần kinh tế tư nhân, tư bản và xác định vị trí kinh tế - xã hội to lớn của
nó trong thời kỳ quá độ. Người cho rằng, nếu ta khéo lãnh đạo, khéo tổ chức
thì giai cấp tư sản cũng có thể theo chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Về bản chất, đây là thời kỳ phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân. Muốn vậy, phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, giải
phóng triệt để sức sản xuất; quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
II. Thực trang, thời cơ và thách thức:
1. Khó khăn và những hạn chế trong TKQD:
a. Khó khăn
- Nước ta quá độ lên CNXh ,bỏ qua chế độ TBCN,từ một xã hội vốn là
nửa thực dân ,nửa phong kiến ,lực lượng sản xuất rất thấp ,trình độ nghèo
nàn.
- Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh đã để lại hậu qủa nặng nề,
những tàn dư của Thực dân phong kiến ,chế độ cũ để lại còn nhiều .
- Các thế lực thừờng xuyên tìm cách chống phá chế độ XHCN nền độc lập
dân tộc của nhân dân ta.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
10