Chương III
TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH VÀO THỰC HIỆN
NHIỆM VỤ XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
I- NHIỆM VỤ XÂY DỰNG, BẢO VỆ TỔ QUỐC
TRONG TÌNH HÌNH MỚI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC NGOẠI GIAO
1. Những nhân tố tác động đến tình hình hiện nay
Tại Đại hội XII (2016), Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong những năm tiếp
theo là: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định
để phát triển đất nước. Mở rộng và đưa vào chiều sâu
các quan hệ đối ngoại; thực hiện hiệu quả hội nhập quốc
tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy
tín của đất nước trên trường quốc tế”1.
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Sđd, tr.52.
156
Tuy nhiên, do điều kiện khách quan và chủ quan,
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang bị chi phối
bởi nhiều nhân tố như chính trị, kinh tế, khoa học công
nghệ và các vấn đề khác... Những nhân tố này tác động
mạnh mẽ và đặt ra cho công tác đối ngoại và việc vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong thực
tiễn hoạt động ngoại giao nhiều vấn đề cấp bách mới,
đòi hỏi phải được thực hiện tốt để có thể đáp ứng với
tình hình phức tạp hiện nay.
Một là, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế
tri thức, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế phát triển
cả bề rộng và chiều sâu trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Từ những thập kỷ cuối thế kỷ XX, cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ diễn ra mạnh mẽ, theo hướng lấy
công nghệ cao làm trung tâm đã tạo nên những đột phá
có tính bùng nổ với quy mô và mức độ, sức mạnh chưa
từng có từ trước tới nay, tác động mạnh mẽ đến tất cả
các lĩnh vực của mỗi quốc gia và đời sống quốc tế. Các
nước đều coi phát triển công nghệ cao là hướng đột phá
trong phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh quân sự, tạo khả
năng răn đe và là nhân tố gây ảnh hưởng mạnh về
chính trị, là nguồn lực thúc đẩy tiến bộ xã hội. Cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học cơng nghệ, kinh tế
tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình
phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế tri thức - giai
157
đoạn mới của các nền kinh tế phát triển cao sau giai
đoạn kinh tế cơng nghiệp, có vai trị nổi bật, khơng chỉ
biểu hiện ở hàm lượng trí tuệ chiếm tỷ trọng chủ yếu
trong giá trị các sản phẩm, mà còn bằng sự dịch chuyển
của khu vực chế tạo sang khu vực dịch vụ với các đặc
điểm mới.
Tồn cầu hóa kinh tế đang là xu hướng khách quan
của đời sống nhân loại, lôi cuốn mọi quốc gia tham gia.
Trong quá trình đó, mỗi quốc gia đều phải đối mặt với
một mơi trường mới, vừa có thời cơ, vừa có thách thức,
vừa thúc đẩy hợp tác, vừa có cả sức ép cạnh tranh...
Đây là một vấn đề còn nhiều mới mẻ, khó khăn và
thách thức đối với các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam, đặt ra nhiều thách thức đối với Đảng ta khi
hoạch định đường lối đối ngoại và thực thi các hoạt
động ngoại giao.
Hội nhập quốc tế phát triển mạnh cũng đã làm
xuất hiện nhiều khái niệm mới như “biên giới thông
tin”, “biên giới mềm” và nhiều vấn đề mới về xã hội,
quốc phòng, an ninh phức tạp khác như “an ninh tư
tưởng”, “an ninh kinh tế”, “an ninh văn hóa”... Q
trình hội nhập quốc tế đặt ra cho mỗi quốc gia khơng ít
những vấn đề phải xử lý liên quan đến độc lập chủ
quyền, lợi ích quốc gia dân tộc, giai cấp, đến sự ổn định
của hệ thống chính trị và thiết chế xã hội khác; sự gia
tăng sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, sự hạn
chế thẩm quyền cũng là những thách thức không nhỏ
158
đối với tính độc lập, tự chủ của các quốc gia trong
chính sách và hoạt động ngoại giao.
Việt Nam là một quốc gia có vị trí chiến lược quan
trọng trong khu vực và trên thế giới, đồng thời là một
trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại ở châu Á.
Trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực tạm thời
lâm vào thoái trào, tương quan so sánh lực lượng có lợi
cho chủ nghĩa tư bản, cũng như bất kỳ một quốc gia
nào khác trên thế giới khi tham gia q trình tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế, tất yếu nước ta sẽ chịu những
tác động theo cả hai chiều thuận lợi và khó khăn. Tình
hình đó thường xun tác động mạnh mẽ đối với việc
thực hiện các hoạt động ngoại giao, cũng như việc vận
dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong
hoạch định đường lối và thực hiện các hoạt động đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Hai là, tình hình chính trị - qn sự thế giới có
nhiều diễn biến phức tạp.
Trong những năm cuối thế kỷ XX, chiến tranh cục
bộ, xung đột và chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp
lật đổ, ly khai, khủng bố, những tranh chấp về biên giới
lãnh thổ, biển đảo và các nguồn tài nguyên thiên nhiên
diễn ra ở nhiều nơi với tính chất phức tạp ngày càng
tăng. Những năm gần đây, xung đột dân tộc, tôn giáo
trên thế giới tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt và ngày
càng nóng bỏng đã trở thành một vấn đề phức tạp của
nhân loại. Các quan hệ dân tộc, sắc tộc lại đan kết vào
159
nhau với vấn đề chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội
khác làm cho vấn đề vốn đã phức tạp lại càng thêm
phức tạp, đặt ra nhiều vấn đề mới cho các hoạt động
ngoại giao.
Trật tự thế giới hai cực giữa một bên là chủ nghĩa
xã hội do Liên Xô đứng đầu và một bên là chủ nghĩa tư
bản do Mỹ đứng đầu được hình thành sau Chiến tranh
thế giới thứ hai đã khơng cịn tồn tại, song những ảnh
hưởng của nó vẫn chưa mất đi. Sự phá vỡ trật tự cũ
chưa hoàn tất, sự ra đời của trật tự thế giới mới trong
những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI chưa được
định hình là những đặc điểm chi phối lớn đến chính
sách đối ngoại và việc vận dụng phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh trong thực hiện các hoạt động đối ngoại
của Đảng và Nhà nước.
Các nước lớn khác sau khi trật tự thế giới hai cực
tan rã, đều có những mục tiêu và đối sách riêng của
mình. Nhìn chung, các nước lớn đều tìm mọi cách theo
đuổi một trật tự thế giới đa cực vì họ đều có vị thế ảnh
hưởng nhất định trong đó. Mỹ tìm mọi cách duy trì trật
tự thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ. Các nước
Liên minh châu Âu mà trong đó Đức và Pháp là nịng
cốt ngày càng muốn độc lập về quân sự với Mỹ; sự liên
kết của Nga, Ấn Độ, Trung Quốc trong “Hiệp ước
Thượng Hải”; các quan hệ song phương và đa phương
giữa các nước này thực sự là một thách thức đối với Mỹ.
Trật tự thế giới không chấp nhận xu hướng vận động
160
đơn cực do Mỹ chủ đạo, mà xu hướng đa cực ngày càng
rõ nét.
Trong thời gian tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó lường. Khu vực châu Á - Thái Bình
Dương tiếp tục phát triển năng động đồng thời cũng
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Cạnh tranh
chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục diễn ra gay gắt.
Cộng đồng ASEAN được hình thành vào cuối năm 2015
với ba trụ cột là: Cộng đồng chính trị - an ninh, Cộng
đồng kinh tế và Cộng đồng văn hóa - xã hội vì mục tiêu
hịa bình, ổn định, phát triển và hướng tới người dân.
Đây là những cơ hội lớn để các nước trong khu vực mở
rộng hợp tác, tranh thủ nguồn lực để phát triển, đồng
thời cũng phải đối mặt với khơng ít thách thức: Những
khác biệt về ưu tiên chiến lược, năng lực quốc gia giữa
các nước trong ASEAN và những tồn tại về xung đột,
tranh chấp lãnh thổ, thách thức an ninh phi truyền
thống có xu hướng gia tăng đang và sẽ là những bài toán
lớn đặt ra đối với các nước trong khu vực, trong đó có
Việt Nam.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với
nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,
toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai
trị của Nhà nước... Các thế lực thù địch luôn xác định
Việt Nam là một trong những mục tiêu “trọng điểm”
chống phá trong chiến lược “diễn biến hịa bình” nhằm
mục đích cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và
161
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng
sẽ tiếp tục lợi dụng chủ trương mở rộng hội nhập quốc
tế, mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới
của Việt Nam để thực hiện xâm nhập, tuyên truyền và
hướng Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.
Trong bối cảnh như vậy, công tác đối ngoại cần tiếp
tục quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về mối quan
hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế, giữa bảo vệ
lợi ích quốc gia với đóng góp cho hịa bình, ổn định của
khu vực và trên thế giới, góp phần bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng quân đội, củng cố
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa. Công tác đối ngoại phải nắm vững và
vận dụng các quan điểm của Đảng về đối tượng, đối tác
được nêu rõ trong Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày
25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI)
về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ đó
xác định đối tượng, đối tác để hợp tác và đấu tranh nhằm
bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Công tác đối ngoại phải
thể hiện được quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân là đẩy lùi và ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, bảo
vệ mơi trường hịa bình, ổn định cho cơng cuộc xây dựng
và phát triển đất nước; góp phần tích cực trong thực hiện
phương châm bảo vệ Tổ quốc từ xa. Cơng tác đối ngoại
phải sát cánh cùng tồn Đảng, tồn dân, tồn qn
làm thất bại âm mưu “diễn biến hịa bình”, tạo cớ để
162
can thiệp vũ trang của các thế lực thù địch, đồng thời
phát huy nội lực, không ngừng củng cố quốc phòng, an
ninh, tăng cường khả năng sẵn sàng chiến đấu và giành
thắng lợi trong mọi tình huống.
Bằng những đóng góp tích cực trong hơn 30 năm
qua đối với phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế
giới và đặc biệt là sự kiên định, đứng vững trước khủng
hoảng cùng với những thành tựu to lớn trong sự nghiệp
đổi mới đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường
quốc tế, góp phần bảo vệ cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ngoại
giao và vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh
trong tình hình mới.
Ba là, khu vực Đơng Nam Á tăng cường hợp tác,
nhưng bị một số nước lớn lợi dụng, gây ảnh hưởng, chia
rẽ, có nhiều mâu thuẫn, khó khăn.
Khu vực Đông Nam Á thuộc châu Á - Thái Bình
Dương là một khu vực có vị trí chiến lược quan trọng.
Trong hơn 30 năm qua, xu thế hịa bình, hợp tác, phát
triển ở khu vực này tiếp tục gia tăng, nhưng cũng tiềm
ẩn những nhân tố gây mất ổn định. Hợp tác để phát
triển là một nhu cầu của các nước Đông Nam Á để trở
thành các nước công nghiệp, đồng thời chống lại sự lệ
thuộc và khống chế từ bên ngoài và gia tăng khả năng
cạnh tranh với các nước lớn. Tuy nhiên, khu vực Đông
Nam Á cũng còn tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn
định, đòi hỏi mỗi quốc gia và khu vực phải nỗ lực giải
163
quyết và tăng cường hợp tác cùng nhau. Đông Nam Á
đang phải đối mặt với những thách thức về khả năng
cạnh tranh, giá thành sản phẩm cao, chưa thu hút được
đầu tư nước ngoài như mong muốn, trong khu vực chưa
hình thành một nền tảng vững chắc cho một cộng đồng
thống nhất hình thành và phát triển.
- Chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á và Việt Nam.
Trong những thập kỷ gần đây, về chính trị Mỹ
thường xuyên giương chiêu bài “dân chủ, tự do, nhân
quyền” gây áp lực đối với ASEAN, thực thi dân chủ và
nhân quyền theo quan điểm của Mỹ, như yêu cầu
ASEAN thành lập Ủy ban nhân quyền ASEAN; bao
vây, cấm vận Mianma và ủng hộ “phái dân chủ”, địi
chính quyền Mianma cải cách dân chủ; gây sức ép đối
với Việt Nam về nhân quyền và tơn giáo. Ngồi ra, Mỹ
thực hiện nhiều biện pháp nhằm lôi kéo các nước
ASEAN khỏi ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là
Trung Quốc. Về kinh tế, Mỹ chủ trương thúc đẩy khu
vực Đông Nam Á mở cửa thị trường, cải thiện mơi
trường cho hàng hóa và đầu tư của Mỹ... Đối với Việt
Nam, do ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Việt Nam còn
đậm, Mỹ đã đặt Việt Nam vào những toan tính chiến
lược của mình. Tuy nhiên trong những năm gần đây,
Việt Nam đạt được nhiều thành tựu trong cơng cuộc đổi
mới, vai trị uy tín ở khu vực và quốc tế ngày càng
tăng... đã buộc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược. Sau khi
hai nước bình thường hóa quan hệ, chiến lược của Mỹ
164
đối với Việt Nam đã chuyển sang tăng cường “tiếp cận”,
“dính líu”, thúc đẩy “diễn biến hịa bình” nhằm chuyển
hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm biến chất
từng bước chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hiện nay, quan
hệ Việt Nam - Mỹ đã được cải thiện đáng kể, nhất là khi
Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị
APEC 14, Mỹ đã thông qua Quy chế Thương mại bình
thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, dỡ bỏ cấm vận
vũ khí sát thương. Việt Nam và Mỹ xác lập quan hệ Đối
tác toàn diện năm 2013 nhân chuyến thăm chính thức
của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Quan hệ Mỹ - Việt
Nam là mối quan hệ bình thường trong một thế giới quốc
tế hóa.
- Chính sách của Trung Quốc đối với Đông Nam Á
và Việt Nam.
Chính sách Đơng Nam Á của Trung Quốc là sự triển
khai tồn diện chính sách ngoại giao láng giềng theo
tinh thần “thân thiện với láng giềng, ổn định với láng
giềng và làm giàu với láng giềng” (Tam lân: mục lân, an
lân, phú lân) của Trung Quốc. Chính sách đó vừa nhằm
tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực
vừa nhằm gây ảnh hưởng, chi phối với các nước Đơng
Nam Á. Việt Nam có vị trí đặc biệt trong quan hệ của
Trung Quốc ở Đông Nam Á. Là nước láng giềng chung
đường biên giới cả trên đường bộ và đường biển; có cùng
chế độ chính trị, cùng hệ tư tưởng, gần gũi về văn hóa;
165
là một trong những nước có nhiều tranh chấp chủ
quyền với Trung Quốc; đặc biệt là quần đảo Trường Sa,
Hoàng Sa và Biển Đơng; là một nước ngày càng có uy
tín quan trọng trong ASEAN, Việt Nam là đối tượng mà
Trung Quốc chú ý. Sau khi bình thường hóa quan hệ,
chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam có những
điều chỉnh theo hướng ngày càng coi trọng Việt Nam,
nhưng mang tính chất vừa hợp tác vừa đấu tranh.
- Mối quan hệ ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Việt Nam, Lào, Campuchia là ba nước láng giềng
anh em, núi liền núi, sông liền sông. Trong hơn 20 năm
qua, ba nước đều chú trọng đẩy mạnh quan hệ hợp tác
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, đối ngoại
và cả quốc phòng, an ninh. Tăng cường hợp tác và hỗ
trợ trong các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế
như Liên hợp quốc; Cộng đồng Pháp ngữ (La
Francophonie), Phong trào không liên kết; Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN); Hợp tác tiểu vùng
Mêkông (GMS); Tam giác phát triển Việt Nam - Lào Campuchia; Hợp tác hành lang Đông Tây (WEC); Hợp tác
đường sắt xuyên Á, đường bộ xuyên Á...
Các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ, chống đối nên
quan hệ giữa ba nước gặp nhiều khó khăn, thách thức,
cản trở đến sự phát triển của cách mạng từng nước.
Có thể thấy tình hình thế giới, khu vực có những
biến động sâu sắc, tác động nhiều mặt đến sự nghiệp
cách mạng của Việt Nam. Tất cả những nhân tố trên
166
vận động tổng hợp, tác động mạnh mẽ và đặt ra nhiều
vấn đề mới đối với sự nghiệp cách mạng của Nhân dân
ta. Điều đó đã tác động sâu sắc và địi hỏi hoạt động đối
ngoại nói chung và việc vận dụng tư tưởng ngoại giao
cũng như phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh nói
riêng đưa ra được những chính sách đối ngoại, hoạt
động đối ngoại hướng tới thực hiện tốt để đáp ứng với
tình hình đang và sẽ đặt ra trong thực tiễn.
Bốn là, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển,
nhưng cịn gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam
đã thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử
sâu sắc. Là một nước có điểm xuất phát thấp, kinh tế cịn
kém phát triển, Việt Nam đã tích cực học hỏi kinh
nghiệm từ những nước đi trước trên con đường cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là các nước phát triển
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, bao gồm cả
những kinh nghiệm thành cơng và thất bại trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh để đi
tắt đón đầu, tiếp thu những thành tựu tiên tiến trên thế
giới, có thể bỏ qua các thế hệ công nghệ trung gian, tiến
vào những lĩnh vực quan trọng có hiệu quả kinh tế cao
để bắt kịp xu thế chung của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, trong những năm qua Việt Nam cũng
gặp khơng ít khó khăn, nguy cơ và thách thức. Nguy cơ
167
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với những nước trong khu
vực và thế giới là thách thức lớn và gay gắt. Vì điểm
xuất phát để phát triển nền kinh tế của Việt Nam còn
thấp, đất nước vẫn còn nằm trong tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, lại trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt, đặc biệt về vốn và cơng nghệ nên gặp rất
nhiều khó khăn. Mặc dù hiện nay, Việt Nam đã gia
nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhưng kinh
nghiệm buôn bán quốc tế và tác nghiệp trong “sân chơi”
này còn nhiều hạn chế, thiếu và yếu về năng lực cạnh
tranh. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng phát triển cả chiều rộng và chiều sâu,
xuất hiện những tiêu cực làm cản trở quá trình phát
triển kinh tế - xã hội như: phân hóa giàu nghèo ngày
một tăng, lối sống chạy theo đồng tiền, sự tha hóa một
bộ phận cán bộ, đảng viên và Nhân dân, nhất là thế hệ
trẻ, sự gia tăng các tệ nạn xã hội... Mọi sự chủ quan,
xem nhẹ sự tác động tiêu cực này đều dẫn đến những
hậu quả nguy hại đối với cách mạng, đối với chế độ xã
hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều
hành của Nhà nước, với sức mạnh tổng hợp của cả hệ
thống chính trị, sức mạnh của khối đại đồn kết tồn
dân tộc, nước ta giữ vững được ổn định chính trị - xã
hội, tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ đối
ngoại, hợp tác kinh tế và phát triển đất nước toàn diện
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng tiếp tục nhấn
168
mạnh, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nhằm sớm đưa đất
nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu sớm
đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại; Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển với
những thành tựu mới, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để gia tăng tiềm lực
quốc phòng và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng
đặt ra những vấn đề mới, địi hỏi cơng tác đối ngoại cần
phải tiếp tục vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh trong các hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà
nước một cách khoa học và phù hợp.
2. Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với cơng tác
ngoại giao trong thời kỳ mới
Tình hình trong nước và thế giới đặt ra yêu cầu,
phải tiếp tục xây dựng và đẩy mạnh triển khai chiến
lược ngoại giao toàn diện để phục vụ hiệu quả hơn nữa
các mục tiêu an ninh và phát triển của đất nước trong
thời kỳ mới. Yêu cầu triển khai một cách toàn diện các
hoạt động đối ngoại đã được Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI (năm 2011). Nghị quyết xác định: “Nhiệm
vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa
bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp
169
phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”1.
Đây là một chủ trương đúng đắn, kịp thời và sáng
suốt của Đảng và Nhà nước, phù hợp với địi hỏi của
tình hình mới. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định nhiệm vụ của công tác
đối ngoại: “Nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững mơi
trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn
lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống
nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và
chế độ xã hội chủ nghĩa; nâng cao vị thế, uy tín của đất
nước và góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”2. Văn kiện
Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng cũng nhấn
mạnh: “Phát huy vị thế quốc tế để hồn thành tốt
nhiệm vụ bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc
khi triển khai các hiệp định tự do thế hệ mới. Phát huy
uy tín và vị thế quốc tế để tạo môi trường thuận lợi cho
phát triển, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền trong
quá trình hội nhập; giữ vững thống nhất và tồn vẹn
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Sđd, tr.236.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Sđd, tr.153.
170
lãnh thổ, ổn định chính trị, kiên quyết, kiên trì đấu
tranh với các âm mưu và ý đồ phá hoại của các thế lực
thù địch”1. Văn kiện Hội nghị Trung ương 8 khóa XII
của Đảng tiếp tục nêu rõ: “Thực hiện nghiêm các chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về quốc phịng,
an ninh, đối ngoại, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ
vững mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển, nâng
cao vị thế của đất nước. Chủ động phòng ngừa, đấu
tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế
lực thù địch, phản động, khơng để bị động, bất ngờ
trong mọi tình huống”2.
Đứng trước những thách thức to lớn, cách mạng
Việt Nam lúc này đặt ra hai yêu cầu quan trọng và cấp
bách cho ngoại giao Việt Nam là phải thực hiện các mục
tiêu sau:
Một là, thực hiện mục tiêu an ninh, góp phần bảo
vệ Tổ quốc. Tuy rằng, nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế
giới và chiến tranh cục bộ giữa Việt Nam và quốc gia
khác là không lớn nhưng nước ta đang gặp phải những
thách thức vô cùng lớn trong việc bảo vệ chủ quyền
quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Đây chính là mối quan
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2016, tr.98.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2018, tr.58.
171
tâm lớn của toàn dân tộc và sự quan ngại của cộng
đồng quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn là đối tượng
hướng tới của các lực lượng phản động thực hiện “diễn
biến hịa bình”. Song song với các vấn đề an ninh
truyền thống, Việt Nam cũng phải giải quyết các thách
thức an ninh phi truyền thống như tội phạm cơng nghệ
cao trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn
thơng, sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh...
Hai là, về mục tiêu phát triển đất nước và nâng cao
vị thế Việt Nam trên thế giới. Việt Nam đã thốt khỏi
tình trạng nước nghèo và đang phải hồn thành sự
nghiệp cơng nghiệp hóa đất nước nên địi hỏi phải
tranh thủ rất nhiều nguồn lực từ bên ngoài. Trong
điều kiện nền kinh tế thế giới còn đang trong giai đoạn
suy thối thì nhiệm vụ mở rộng hợp tác và tìm kiếm
thị trường mà ngoại giao cần phải hồn thành là rất
nặng nề. Mục tiêu nâng cao vị thế là nhu cầu tất yếu
của mọi quốc gia dân tộc vì nâng cao vị thế vừa là mục
tiêu, vừa là phương tiện để thực hiện lợi ích dân tộc; vì
vị thế dân tộc có quan hệ biện chứng với mục tiêu an
ninh và phát triển. Trong những năm qua, Việt Nam
luôn thể hiện là một đối tác tin cậy, một thành viên
tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng thế giới. Tuy
vậy, do nhiều nguyên nhân, trong đó có tiềm lực kinh
tế của đất nước chưa vững và còn sự hạn chế về nhân
lực ngoại giao, cho nên, việc Việt Nam hướng tới mục
tiêu đảm nhiệm những vai trò lớn hơn trên thế giới, có
172
tiếng nói và ảnh hưởng của mình tốt hơn là điều khơng
dễ thực hiện.
Để hồn thành mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, Việt
Nam phải hướng tới nền ngoại giao toàn diện: “Nền
ngoại giao thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm
huy động mọi lực lượng, binh chủng, kênh đối ngoại;
vận dụng mọi hình thức, cơng cụ đối ngoại; triển khai
trên nhiều lĩnh vực, địa bàn và hướng đến nhiều đối
tượng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện
hiệu quả mục tiêu đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Nền ngoại giao ấy phải được xây dựng trên ba kênh đối
ngoại chủ lực là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước,
đối ngoại nhân dân, triển khai đồng bộ ba trụ cột là
ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn
hóa, cùng với cơng tác người Việt Nam ở nước ngồi và
bảo hộ cơng dân”1.
Có thể nhận thức, nền ngoại giao toàn diện là nền
ngoại giao sử dụng sức mạnh tổng hợp, sử dụng nhiều
lực lượng, được triển khai trên nhiều lĩnh vực và
hướng tới nhiều đối tượng nhưng đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần cống hiến cho nền hịa bình và hợp tác trên tồn
thế giới.
_______________
1. Phạm Bình Minh: Đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam trong
giai đoạn mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.36.
173
Để thực hiện tốt chiến lược ngoại giao toàn diện như
đã xác định, ngoại giao Việt Nam phải khai thác những
thế mạnh, những nguyên tắc, những kinh nghiệm quý
báu mà mình đã có được sau hơn 70 năm đấu tranh,
trưởng thành và đặc biệt là trong hơn 30 năm tiến hành
sự nghiệp đổi mới và cũng phải vận dụng sáng tạo tư
tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh vào hoạt
động ngoại giao hiện nay cũng như trong giai đoạn cách
mạng mới.
II- TIẾP TỤC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
NGOẠI GIAO HỒ CHÍ MINH
TRONG TÌNH HÌNH MỚI
1. Vận dụng phương pháp ngoại giao Hồ Chí
Minh trong việc nắm bắt tình hình thế giới, trong
nước và thực hiện công tác dự báo
Trong bối cảnh phức tạp của quan hệ quốc tế hiện
nay, phải vận dụng sáng tạo phương pháp ngoại giao Hồ
Chí Minh nói chung và phương pháp “dự báo và nắm bắt
thời cơ” của Người nói riêng để phục vụ sự nghiệp xây
dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở mục tiêu
đã xác định, trên những tiêu chí đặt ra, ngoại giao Việt
Nam phải nhận thức khách quan, khoa học về sự vận
động mới trong quan hệ quốc tế hiện nay để xây dựng
đường lối, chính sách và phương pháp ngoại giao đúng
đắn, phù hợp, hiệu quả.
174
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để làm tốt công
tác dự báo, nắm bắt được thời cơ trong quan hệ ngoại
giao là phải tri kỷ (biết mình) và tri bỉ (biết người) để
định kế hoạch chiến lược, phương pháp thực hiện; để
ln làm chủ tình thế. “Biết mình” là biết rõ thực lực, sở
trường, sở đoản của ta trong tương quan với thực lực,
thế mạnh của người, xem xét mình có điều kiện khơng;
“biết người” là biết rõ những người xung quanh ta, biết
rõ thực lực của người, cụ thể ở đây là phải hiểu được đối
tượng, nhất là đối với các nước lớn, dù là đồng minh hay
đối thủ, biết được mối quan tâm và chiến lược cơ bản
của họ, hiểu bản chất và vận hành nội trị và ngoại giao
từng nước lớn, quan hệ hợp tác và đấu tranh giữa các
nước lớn, cùng với những giới hạn của các mối quan hệ
đó. “Phải tri bỉ, tri kỷ: Phải biết mình biết người”1. Về
tri thời, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc nhận diện
các xu thế, xu hướng của thời đại, của cục diện thế giới.
Người nói: “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng
thế giới”2.
“Biết mình, biết người” để xác định đúng vị trí của
mình trong quan hệ với người (với các nước, các khối
liên minh) là một nguyên tắc cơ bản và xuyên suốt
trong tư tưởng, phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh.
_______________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.5, tr.71.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.493.
175
“Biết mình, biết người”, “biết thời - thế”, để “biết dừng”,
“biết biến” là phương pháp và cũng là nghệ thuật
ngoại giao Hồ Chí Minh, cần phải vận dụng trong sự
vận động và biến đổi không ngừng trong quan hệ quốc
tế hiện nay và trong tương lai. Vận dụng phương pháp
đó trong thực tiễn giúp cho ngoại giao có thể độc lập,
tự chủ, nhưng vẫn mềm dẻo, linh hoạt, không bị cơ lập,
từ đó có thể thực hiện phương châm “Dĩ bất biến ứng
vạn biến” với những nhân nhượng có nguyên tắc và lợi
dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đối phương, biết
thắng từng bước để giành thắng lợi cuối cùng.
Nhìn vào thực tiễn của ngoại giao Việt Nam hiện
nay, phải nhận thức được thế và lực của Việt Nam
trong tương quan với các nước trong khu vực và trên
thế giới. Đồng thời, phải đánh giá đúng hồn cảnh, tình
thế của Việt Nam trên bàn cờ chính trị và địa - chính
trị, trên cơ sở đó làm tốt cơng tác dự báo đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước nói chung và cơng
tác đối ngoại nói riêng.
Với vị trí địa lý là Việt Nam nằm trên con đường
tơ lụa trên biển của tham vọng “giấc mơ Trung Hoa”;
với sự “xoay trục” sang châu Á - Thái Bình Dương của
Mỹ hòng kiềm chế tham vọng của Trung Quốc, Việt
Nam sẽ phải chịu tác động chủ yếu của tiến trình
tranh giành đó, thậm chí có người cịn cho rằng, Việt
Nam có vai trị quyết định đến sự tranh đoạt ảnh
hưởng tồn cầu giữa Trung Quốc và Mỹ, trước hết là
176
sự thống trị châu Á. “Con đường tơ lụa trên biển” mà
Trung Quốc đưa ra là sợi dây thít chặt các nước nhỏ
yếu vào ảnh hưởng của Trung Quốc. Trong khi không
thể tranh chấp trực tiếp với Mỹ qua phép thử ở Biển
Đông, Trung Quốc lợi dụng sự chú ý của Mỹ ở nơi
khác để từng bước tranh đoạt ảnh hưởng của Mỹ ở
châu Á bằng các hoạt động chiếm đoạt ở Biển Đông.
Khi Biển Đông trở thành khu vực va chạm lợi ích Mỹ Trung sẽ là nơi bùng phát lị lửa xung đột khi Mỹ Trung khơng kiềm chế.
Có thể thấy, Việt Nam khơng chỉ trong chiến lược
của Trung Quốc ở châu Á mà còn là vấn đề tranh
chấp quốc tế với Mỹ vì lợi ích của Trung Quốc. “Biết
người”- hiểu rõ và nắm được ý đồ chiến lược của
Trung Quốc và Mỹ - để xác định kế hoạch chiến lược
trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền đất nước nói
chung và trong ngoại giao nói riêng là vơ cùng cần
thiết. Đây là bài học vơ cùng có giá trị mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra qua việc thực hiện xử lý quan
hệ giữa các liên minh Mỹ - Trung Quốc (Tưởng Giới
Thạch) với liên minh Anh - Pháp ở Đông Dương sau
Chiến tranh thế giới thứ hai (Hiệp ước Hoa - Pháp
tháng 02/1946 là sự thỏa thuận giữa hai liên minh
này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn rõ bản chất thỏa
thuận lợi ích đó để ký Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946
nhằm loại bỏ 20 vạn quân đội Trung Quốc (Tưởng
Giới Thạch), người láng giềng thường xuyên xâm lược
177
Việt Nam, để chống lại một đế quốc già, ở xa và đã
kiệt quệ sau Chiến tranh thế giới thứ hai). Nắm vững
ý đồ chiến lược của các nước lớn, thấy rõ những mâu
thuẫn giữa các liên minh và trong các liên minh lợi
ích để “biết dừng, biết biến” để có phương châm đúng
với việc ký kết Hiệp định Sơ bộ ngày 06/3/1946 là một
ví dụ điển hình của tư tưởng, phương pháp ngoại giao
Hồ Chí Minh.
Cần phải nắm vững và vận dụng linh hoạt phương
pháp ngoại giao “Dĩ bất biến ứng vạn biến” mà Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã dạy để ứng xử với các nước lớn: đối
thoại, không đối đầu; kiên trì đấu tranh, khơng ảo
tưởng; biết thời thế nhằm phát huy cơ sở pháp lý quốc
tế, lẽ phải và thông lệ quốc tế và những tư tưởng tiến bộ
của thời đại, thơng qua đó thực hiện phương châm
“thêm bạn, bớt thù”, làm cho nước nhà ít kẻ thù hơn và
có nhiều bạn đồng minh hơn, tránh đối đầu để khơng
gây thù ốn với một ai. Tất cả những quan điểm này
của Hồ Chí Minh chỉ ra cho ngoại giao Việt Nam nhằm
tạo “thế” chính nghĩa về chính trị cho đấu tranh ngoại
giao và để tập hợp lực lượng, tăng cường thực lực cho
ngoại giao trong cuộc đấu tranh bảo vệ hịa bình và chủ
quyền của Việt Nam.
Ngoại giao Việt Nam phải quán triệt quan điểm Hồ
Chí Minh trong tuyên bố: “Trong chính sách đối ngoại,
triết lý hướng dẫn chúng tôi là sự thực hiện 5 nguyên
178
tắc chung sống hịa bình”1. Về quan hệ quốc tế, chính
sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa là rõ ràng
và trong sáng: Đó là chính sách hịa bình và quan hệ
tốt. Hồ Chí Minh cho rằng, lợi ích, khát vọng và ý chí
lớn nhất của các dân tộc, của nhân loại là xây dựng một
thế giới hịa bình, nhưng đó phải là “một nền hịa bình
chân chính”. Theo Người, “một nền hịa bình chân
chính” đúng nghĩa của nó, phải được “xây trên cơng
bình và lý tưởng dân chủ - phải thay cho chiến tranh,
rằng tự do, bình đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp
các nước không phân biệt chủng tộc và màu da...?"2.
Đây chính là quan điểm Hồ Chí Minh về cơ sở, nguyên
tắc và cũng là công thức cho một trật tự quốc tế mới.
Trật tự đó phải được xây dựng trên cơ sở xác lập một
thiết chế cơng bình, bình đẳng, dân chủ trên thế giới,
trong đó tự do, bình đẳng, bác ái được thực hiện ở tất cả
các nước, nhằm dựng xây nền "hoà bình chân chính" và
vững bền trên hành tinh của Việt Nam. Quan điểm này
xác nhận và chỉ rõ công thức hịa bình Hồ Chí Minh
trong quan hệ quốc tế của thế giới văn minh.
Thực hiện chính sách hịa bình và quan hệ tốt theo
phương pháp ngoại giao mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra là
tầm nhìn chiến lược, sâu sắc, phải được nhận thức đầy
đủ trong hoạch định và thực hiện chính sách ngoại giao
_______________
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.10, tr.228.
2. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.76-77.
179
nhất quán của Việt Nam với tất cả các nước. Để thực
hiện tốt đường lối chính sách đối ngoại nhất quán, linh
hoạt, hiệu quả đưa dân tộc hội nhập với thế giới theo
dòng chảy tiến bộ của nhân loại, đòi hỏi Việt Nam phải
làm tốt công tác dự báo, nắm chắc tình hình quốc tế và
trong nước, thể hiện rõ quan điểm phải “nhìn cho rộng,
suy cho kỹ”. Muốn vậy, cần phải nắm vững và vận dụng
tốt phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh trong điều
kiện mới.
Thực hiện phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh về
dự báo và nắm bắt thời cơ, ngành ngoại giao luôn đẩy
mạnh công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu sâu sắc
đặc điểm tình hình thế giới, khu vực và trong nước để
đưa ra những dự báo, định hướng chính xác. Vận dụng
quan điểm Hồ Chí Minh, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ:
“Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược,
tham mưu về đối ngoại; đổi mới nội dung, phương pháp,
nâng cao hiệu quả cơng tác tun truyền đối ngoại”1. Có
thể thấy, từ những dự báo chính xác để trên cơ sở dự
báo ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đổi mới tư duy đối
ngoại và đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn, tranh thủ
những thuận lợi của tình hình thế giới và khu vực, vượt
qua những khó khăn thử thách, tạo ra thế và lực mới,
đưa đất nước hội nhập quốc tế sâu rộng, đa dạng hóa
_______________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, Sđd, tr.156.
180