Top 8 bài đóng vai ngư ời cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa hay nhất
Đóng vai người cháu kể lại chuyện Bếp lửa
Dựa vào bài thơ Bếp lửa hãy đóng vai người cháu kể lại câu chuyện về
bà
•
1. Dàn ý đóng vai ngư ời cháu trong Bếp lửa
•
2. Chuyển nội dung bài thơ Bếp lửa thành văn xi
•
3. Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 1
•
4. Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 2
•
5. Hóa thân người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 3
•
6. Vào vai ngư ời cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 4
•
7. Hóa thân người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa
•
8. Kể lại bài thơ bếp lửa Bằng văn xi
1. Dàn ý đóng vai ngư ời cháu trong Bếp lửa
2. Chuyển nội dung bài thơ Bếp lửa thành văn xuôi
Ở một nơi xa xôi của châu Âu, nơi mùa đơng giá rét, ng ồi bên lị sư ởi lửa
cháy, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt khiến tôi nhớ về bếp lửa nhỏ sớm
mai và hình bóng bà tơi c ủa tuổi thơ. Hình ảnh bếp lửa nhỏ chờn vờn trong
sương sớm và người bà hết mực yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi khôn
nguôi.
Tôi sinh ra trong th ời điểm đói kém, khi mà nhân dân ta cùng ch ống thực
dân Pháp xâm lược. Đất nước chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc
sống khó khăn và ngột ngạt nhất là người nông dân.
Năm tôi lên bốn, thiên tai, hạn hán khiến cho sản xuất nơng nghiệp mất
mùa, thất thu. Cái đói len lỏi và từng gia đình. Tiếng người chết, khóc
thương khiến khung cảnh trở nên u ám.
Bố mẹ tôi làm quần quật mưu sinh để lo cho cuộc sống, còn bà ở nhà chăm
nom tôi. Cả tuổi thơ của tôi chỉ ở bên bà. Mỗi khi nhóm lửa, ngồi bên bếp
lửa ấm vơ cùng. Khói bếp cay xè mắt, nước mắt, nước mũi chảy. Nhớ về
những hình đó khiến tơi như cay cay trên sống mũi.
Bố mẹ theo cách mạng kháng chiến chống lại kẻ thù. Tôi ở cùng bà vượt
qua nhiều khó khăn và tơi dần khơn lớn trong vịng tay ngư ời bà thân yêu.
Thời gian trôi qua chi ến tranh ngày càng ác liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ
thù tấn công ngôi làng, chúng cư ớp sạch, đốt sạch. Chúng gieo r ắc sự sợ
hãi cho nhiều người dân vô tội.
Bà con bên cạnh giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, gây dựng lại từ đống đổ
nát, trong tâm trí c ủa mọi người cũng khơng biết ngày mai thế nào? Tuy
khổ nhọc nhưng bà vẫn dặn dị tơi có viết thư cho bố thì chớ kể chuyện
nhà. Bảo rằng bà vẫn mạnh khỏe. Dù thế nào đi chăng nữa bà vẫn một lòng
nghĩ về cuộc chiến, mong bố mẹ tôi an tâm công tác. Bà nhóm ng ọn lửa
như cháy lên trong tơi ng ọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng gửi gắm
đến tương lai.
Hịa bình trở lại với chúng tơi, bố mẹ tơi trở về q hương đồn t ụ. Bà vui
mừng đến nỗi khóe mắt cứ rưng rưng.
Dù nắng hay mưa, mấy chục năm qua bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm
lên bếp lửa, ngọn lửa tuổi thơ trong tơi. Ôi ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng,
có tắt đi rồi lại cháy lên mãnh liệt. Ngọn lửa như nhắn nhủ tôi luôn nhớ về
người bà yêu thương, hi sinh vì con cháu và c ả quê hương đất nước.
Dù sau này có đi xa, hư ởng cuộc sống sung túc, tơi vẫn khơng qn hình
ảnh bếp lửa và người bà hiền hậu, đồng thời luôn nhắc nhở trách nhiệm của
tôi với bà cũng như quê hương, đ ất nước.
3. Đóng vai ngư ời cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 1
“Đôi mắt càng già càng th ấm thía u thương
Da dẻ dù khơ đi tấm lịng khơng hẹp lại
Giàu kiên nhẫn bà cịn hi vọng mãi
Chỉ mỗi ngày rắn lại ít lời thêm”
Đó là những vần thơ mà tơi mu ốn tặng cho người bà kính u c ủa mình.
Tơi đang là sinh viên ngành Lu ật ở nước Nga. Bây giờ đã là tháng 9, trời
bắt đầu trở lạnh làm tơi nhớ những kí ức về bà, bếp lửa mà ngày xưa tơi
cùng bà nhóm bếp, cũng là một phần đã tạo nên tuổi thơ của tôi.
Tuổi thơ của tôi được sống bên bà, lúc đó nhóm lửa cùng bà vơ cùng cực
khổ và nhọc nhằn. Lên năm bốn tuổi , tôi đã quen v ới mùi khói. Tơi vẫn
nhớ lúc ấy vào năm 1945, nạn đói xảy ra khủng khiếp đối với gia đình tơi
cũng như bao gia đình ở Việt Nam. Cái cảnh mọi người làm việc kiếm
miếng ăn thấy mà đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng tăng. Ba
tơi đi đánh xe ngựa cực khổ con ngựa cũng gầy gị mà cái đói vẫn bám riết
khơng tha, ngư ời dân cực khổ vô cùng.
Rồi vào những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xảy ra, ba và mẹ tôi
tham gia công tác kháng chiến nên tôi ở cùng bà. Tám năm tơi cùng bà
nhóm lửa, hẳn là tuổi thơ tơi đã gắn liền với bếp lửa đó. Cái mùi bếp lửa
cay cay, khiến mỗi lần tơi nhóm lửa nước mắt, nước mũi đều chảy . Bà đã
thay ba mẹ tôi nuôi dạy tôi nên ngư ời. Bà dạy tôi làm việc nhà, dạy tơi
học, chăm sóc tơi v ới tình u thương vơ vàn như m ột người mẹ .
Mỗi buổi sáng, bà đều làm đồ ăn để tôi dậy ăn. Bà làm việc này tới việc
khác không nghỉ ngơi mà cũng khơng than phi ền hay trách móc gì c ả. Cuộc
đời bà đã đi qua bao nhiêu sóng gió nắng mưa, đã chịu nhiều cực khổ nên
tơi khơng muốn phiền lịng bà nữa. Tơi đã lớn lên trong vịng tay u
thương và bảo bọc của bà. Đơi lúc những khi rảnh rỗi bà còn thư ờng kể
chuyện tôi nghe rồi nhắn nhủ với tôi rằng: “ Con phải ráng học để xây
dựng đất nước , nếu không thì đất nước mình chỉ mãi nghèo khổ thơi”.
Có những khi trời mưa làm cho củi ướt, lúc đó nhóm bếp khổ vô cùng. Mỗi
khi tu hú kêu trên những cánh đồng, bà thường kể cho tôi nghe những
chuyện ở Huế. Bà kể giọng rất truyền cảm , từng chữ từng lời nói của bà
đều khác sâu trong lịng tơi. Ti ếng tu hú kêu làm tôi và bà đ ều nhớ ba mẹ
tôi ở chiến khu da diết. Càng lớn tôi càng cảm thấy thương bà, càng không
muốn xa quê hương để bà khó nhọc.
Năm đó là nạn giặc tàn phá xóm làng, thiêu r ụi nhà cửa, tài sản. Hàng xóm
và bà cháu tơi đều chịu nhiều khổ cực, mất mát và đau thương. Cái hình
ảnh đó đã ám ảnh hết một phần của tuổi thơ tôi. Sau những ngày rời khỏi
q nhà, thì hàng xóm và bà cháu tôi tr ở về lậm lụi. Tôi đỡ đần bà dựng lại
túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tơi th ấy bây giờ cuộc sống cực khổ
nên nói với bà: “Bà ơi hay là cháu vi ết thư cho ba mẹ nhé , để ba mẹ trở về
để phụ bà”. Nhưng bà khơng ch ịu và nói nhỏ nhẹ với tơi rằng: “Ba mẹ ở
chiến khu cịn rất nhiều việc, nên mày có vi ết thư chớ kể này kể nọ , cứ bảo
là gia đình vẫn bình n là được rồi.
Tơi hiểu lịng bà nên chỉ vâng lời thôi ,và tôi càng th ấy thương bà hơn, một
mình bà gánh vác h ết mọi cơng việc cịn lo cho con ở chiến khu, tôi cảm
thấy bà như một vị anh hùng giàu tình yêu thương và đ ức hi sinh. Nên mọi
việc gì trong nhà tơi có th ể làm được thì tơi liền giúp bà như: cho gà ăn,
lấy củi, hái rau ,… dù những công việc đó nhỏ nhưng cũng giúp bà đỡ được
phần nào. Những ngày mà bà làm vi ệc nặng, tới tối tay chân bà mỏi thì đơi
đấm bóp cho bà, cho bà dễ chịu.
Ngày qua ngày tôi cùng bà nhóm b ếp lửa. Một ngọn lửa chứa niềm tin và
hình ảnh của bà . Mấy chục năm rồi mà bà vẫn thức khuya dậy sớm trải qua
mưa nắng cuộc đời, tảo tần chăm sóc tơi. Cơng vi ệc của bà giản dị nhưng
tôi vẫn biết ơn vô cùng như: bà nấu khoai, bà san sẻ tình làng nghĩa xóm.
Bếp lửa đã cùng bà trải qua nắng mưa trong cu ộc đời bà. Ơi bếp lửa giản dị
nhưng riêng tơi c ảm thấy đó là điều kì lạ thiêng liêng cao đ ẹp.
Bếp lửa cịn là tình bà nồng ấm, bếp lửa gắn với những gian khổ, gian lao
đời bà. Ngày ngày bà nhóm b ếp lên, cũng giống như bà nhóm niềm vui
niềm u thương dành cho tơi và m ọi người . Bà khơng những là người
nhóm lửa, mà còn là ngư ời truyền lửa truyền niềm tin cho mọi người .
Giờ đây tôi đã trư ởng thành sống với những nơi có bếp gas, bếp điện. “Có
ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả “ln hiện hữu
trong tâm trí tơi với câu hỏi: “Mai này bà nhóm lửa lên chưa”. Ơi bếp lửa
tình bà sao ấm áp đến như vậy ! Bếp lửa đã nuôi lớn tôi, giúp tôi trư ởng
thành như ngày hôm nay. Bây gi ờ tôi chỉ muốn về với bên bà, đư ợc bà kể
chuyện, được bà chăm sóc yêu thương. M ỗi con người ai cũng đều có cội
nguồn để trưởng thành. Vì thế mà tơi sẽ khơng bao giờ quên được cái hình
ảnh người bà và bếp lửa đã nuôi dạy tôi trưởng thành như ngày hôm nay.
4. Đóng vai ngư ời cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 2
Có một nơi là nơi xuất phát, cũng là nơi trở về và là điểm tựa vững chắc
cho con người trong hành trình s ống. Nơi ấy là nhà. Nơi ấy với tơi cịn có
người bà kính yêu. Và để rồi, khi trưởng thành, khi đang sinh s ống và làm
việc tại Liên Xô, tôi l ại bồi hồi, xốn xang nhớ về người bà kính yêu g ắn
với hình ảnh bếp lửa….
Tơi lại nhớ về hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có lẽ là khơng lạ gì
trong đời sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa được bà nhen lên mỗi buổi
sáng sớm. Một ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của bà ấp iu, che chở
để chúng có thể cháy lên và tỏa sáng…
Hình như cái ngọn lửa thân thương ấy, tơi đã quen mùi khói từ năm tơi lên
bốn. Năm đó gắn với nạn đói của dân tộc- năm 1945 với hình ảnh của
những người chết vì đói nằm như ngả rạ. Bố tơi phải làm việc vất vả. Đến
bây giờ tơi vẫn cịn cay sống mũi mỗi khi nhớ lại về những năm đó…
Rồi tám năm rịng, tơi đã bên bà, c ùng bà nhóm lên những ngọn lửa hồng.
Khi con tu hú kêu trên nh ững cánh đồng xa báo hiệu một mùa hè lại về, bà
ơi, bà có cịn nhớ khơng bà? Tơi cịn nhớ, khi tu hú kêu, l ại gắn với những
câu chuyện bà hay kể về những ngày ở xứ Huế. Tiếng tu hú tha thi ết kêu
mãi khơng ngừng… Đó là những ngày tháng chiến tranh, bố mẹ tôi bận
công tác ở xa nên khơng có nhà. Tơi ở cùng bà, được bà dạy làm, được bà
dạy học. Bà đã thay cha mẹ tôi nuôi tôi khôn l ớn và trưởng thành.
Rồi năm đốt làng cháy tàn cháy r ụi, hàng xóm bốn bên trở về trong cảnh
lầm lụi. Bằng tình cảm làng xóm láng giềng. mọi người đã giúp bà dựng lại
túp lều tranh. Vẫn vững lòng, và thêm cả sự lo lắng cho bố mẹ tôi, bà liền
dặn tơi rằng:
- Bố ở chiến khu, bố vẫn cịn nhiều việc lắm. Mày có viết thư, khơng đư ợc
kể này kể nọ nghe chưa, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ an tâm
công tác!
Rồi hàng ngày, cứ sớm rồi lại chiều, bà vẫn tiếp tục với công việc hàng
ngày của mình là nhóm l ửa. Một ngọn lửa chứa tình u thương c ủa bà
ln ủ ấp nơi đáy lòng, một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng của bà…
Đời bà luôn vất vả như thế. Vất vả nuôi tôi khôn lớn và ngày trư ớc là vất
vả nuôi bố tôi. Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ bà vẫn giữ thói quen dậy
sớm, nhóm những bếp lửa ấp iu nồng đượm, nhóm cả những nồi khoai sắn
có cả những yêu thương của bà để xây đắp cho tôi bao ước mơ, để giờ tơi
có thể du học tại đất nước Liên Xơ. Bếp lửa của bà cịn nhóm lên cả nghĩa
tình với xóm làng. Ơi bếp lửa của bà, tuy giản dị mà lại rất đỗi thiêng
liêng!
Giờ đây, tôi đã đi xa, cách bà đ ến nửa vòng Trái Đất. Một cuộc sống mới
đã mở ra trước mắt tơi. Nơi ấy, có những ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm
nhà và có niềm vui trăm ngả. Nhưng tôi vẫn chẳng thể nào tự quên nhắc
nhở bản thân rằng “ Sớm mai này, bà đã nhóm bếp lên chưa?”
Bà ơi! Cháu yêu bà và cũng thương bà biết bao. Cuộc sống hiện đại dễ làm
lịng người đổi thay nhưng hình ảnh của một người bà ngày ngày nhóm lên
những ngọn lửa yêu thương sẽ mãi không bao gi ờ phai nhạt trong tâm trí
cháu. Cuộc sống ở phương xa này, dù vui th ật nhưng khi niềm vui tàn đi,
nhất là những khi cháu ở một mình, cháu lại nghĩ về bà nơi mái nhà tranh,
nơi bà kể chuyện cháu nghe, nơi bà d ạy cháu học, nơi hình thành con ngư ời
cháu, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong cháu những ước mơ.
5. Hóa thân ngư ời cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 3
Đã rất nhiều năm trôi qua, tơi ngày nào cịn là m ột đứa trẻ giờ đây đã
trưởng thành và đang là sinh viên ngành Lu ật ở Nga. Khí trời dạo này se se
lạnh, vì thế thoải mái nhất là khi ngồi bên bếp lửa ấm áp, sau một ngày dài.
Bếp lửa gợi cho tôi về rất nhiều kỉ niệm, về những ngày thơ ấu, những năm
chiến tranh được ở cùng với bà – người đã bên cạnh tôi suốt nhiều năm,
người mà tôi kính trọng nhất.
Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn nỗi nhớ sâu sắc trong tôi. Một buổi sáng sớm
thời tiết trở mùa, cái khí lạnh của miền Bắc lùa vào trong gian nhà nh ỏ. Và
cũng vào lúc ấy, bà thức dậy nhóm bếp, một bếp lửa chứa hơi ấm và tình
yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Thời ấu thơ bên bà, có nhiều gian
khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.
Tơi ở với bà có lẽ từ rất bé, đến nỗi tôi chẳng nhớ rõ bắt đầu từ lúc nào.
Chỉ nhớ là khi tơi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên quen thuộc. Đó là năm
sau giải phóng, là năm mà n ạn đói hồnh hành, cư ớp đi sinh mạng của rất
nhiều người dân. Cịn đối với tơi, đó là kho ảng thời gian rất khó khăn. Cái
ăn cái mặc không đủ, sống trong sự lo sợ, phải dành dụm từng miếng ăn.
Bố tôi phải đi đánh xe cùng với con ngựa gầy nhom vì đói. Tiền chẳng
được bao nhiêu, nhưng vẫn đủ để lây lất từng ngày. Những ngày tháng ấy,
bếp lửa đối với tôi như một nỗi ám ảnh, khói hun nhèm cả mắt, cùng ngồi
với bà bên bếp lửa. Đến bây giờ khi nhớ lại, sống mũi tơi bỗng cay cay,
những kí ức đó vừa là kỉ niệm nhưng cũng làm tơi ngh ẹn lịng khi nghĩ về.
Tám năm có lẽ khơng phải là một khoảng thời gian quá dài, nhưng cũng
quá đủ đối với tôi để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ bên
bà, cùng bà nhóm b ếp. Tơi vẫn còn nhớ tiếng chim tu hú kêu trên nh ững
cánh đồng, tiếng kêu vang vảng, nghe sao tha thiết. Những lúc ấy, bà kể tơi
nghe chuyện những ngày cịn ở Huế, rằng bà từng sống thế nào, đến giờ tôi
vẫn cịn nhớ.
Mẹ cùng cha đi cơng tác b ận khơng về, vì vậy mà suốt thời gian đó tơi ở
với bà, sống trong sự cưu mang và dạy dỗ của bà. Bà dạy tôi học, kể
chuyện cho tôi nghe, những lời bà dạy rất bổ ích, ý nghĩa. Sống với bà nên
từ bé tơi đã sớm có ý thức tự lập, sớm biết lo toan, giúp đ ỡ bà. Tôi thương
bà lắm, trước đây vất vả nuôi cha tôi khôn l ớn, giờ lại phải chăm cháu dù
tuổi khá cao, vậy mà bà vẫn rất yêu thương tôi.
Giặc Pháp đi rồi bọn Mỹ lại đến, bao khốn khổ cứ kéo đến. Bọn ác nhân ấy
đốt làng cháy tàn cháy l ụi. Chúng tôi mất nhà cửa, phải đỡ đần nhau dựng
lain túp lều tranh. Tôi lúc ấy đã đủ lớn để thấu nỗi cơ cực của bà. Vất vả là
thế nhưng bà vẫn luôn dặn tôi rằng:”Bố ở chiến khu, bố còn việc bố. Mày
viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên”Lúc ấy tôi vẫn
từng hỏi rằng tại sao phải làm vậy. Bởi lẽ tôi lúc ấy đã rất mệt mỏi với
cuộc sống này, muốn được kể hết cho bố nghe, nói ra nỗi lịng của mình
rằng tơi đã rất vất vả, mà tại sao bố vẫn không biết. Giờ nghĩ lại, sao khi
ấy tơi ích kỉ thế, khơng nghĩ rằng bố mẹ còn phải lo việc chiến khu căng
thẳng. Quả thật, lời bà ln đúng.
Sớm hay chiều bà ln nhóm bếp. Hình ảnh của bà ln gắn liền với hình
ảnh ngọn lửa, bà chính là ngư ời giữ cho ngọn lửa ln ấm và tỏa sáng
trong mỗi gia đình, để đứa cháu như tôi không l ớn lên mà không c ảm thấy
cơ đơn vì khơng đư ợc cha mẹ chăm sóc. Ngọn lửa mà bà ln ủ sẵn trong
lịng, ngọn lửa chứa niềm tin một ngày đất nước sẽ được giải phóng của bà,
như trun cho tơi thêm s ức mạnh vào cuộc sống.
Cuộc đời bà lận đận, không biết bao lần chịu đựng vất vả. Mấy chục năm
rồi, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là d ậy sớm. Bà dậy sớm để nhóm bếp,
bếp lửa lan tỏa hơi ấm và tình yêu của bà. Bao nhiêu năm, khoai s ắn ngọt
bùi, nồi xơi gạo thơm nóng, được bà nhóm chứa đầy những tâm tình của
tuổi nhỏ. Cái vị ấy sao mà quen thu ộc, thân thương đến thế. Cùng bà sẻ
chia niềm vui, cay đắng trong suốt nhiều năm trời, tôi làm sao quên đư ợc.
Giờ tôi đã đi xa. Ở nơi đất nước xa lạ này, có ngọn khói trăm tàu, niềm vui
trăm ngả nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn rất thiêng liêng. Nó gợi cho tơi về
người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình Ngày ngày, bà nhóm lên b ếp
lửa cũng là nhóm lên niềm vui, sự sống, niềm yêu thương chi chút cho cháu
và mọi người. Không chỉ bằng nhiên liệu thơng thường, mà bếp lửa cịn
được nhóm bằng chính ngọn lửa mà bà ln giữ trong lịng, c ủa sức sống
và niềm tin, một cách kì diệu và thiêng liêng.
Mùi khói thoang thoảng, sống mũi tơi lại cay. Những kí ức chợt ùa về trong
cơn gió mùa đơng se l ạnh. Tơi nhớ bà, nhớ cả bếp lửa, có vui lẫn buồn. Có
lẽ bếp lửa đã trở thành một thứ rất quan trọng trong cuộc sống của tôi, thứ
mà tơi khơng thể nào qn được. Ơi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa.
6. Vào vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa - mẫu 4
Mỗi lần đi ngang qua những cánh đồng của đất nước Nga mênh mông, r ộng
lớn, tôi lại nhớ đến quê hương Việt Nam thân thương của tôi.Nhất là vào
những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tơi run rẩy trong
chiếc áo dày cộm ngồi bên lị sưởi. Nhưng lúc đó sao tơi l ại thấy lị sưởi
sao quen thuộc đến thế! Ngọn lửa ấm áp làm tôi nhớ đến cái bếp lửa của bà
tôi quá !
Tôi sinh ra vào th ời chiến tranh loạn lạc, cái thời kì mà đất nước bị chia
cắt làm hai, cái thời kì mà đất nước bị giày xéo bởi gót giày của giặc. Gia
đình tơi có một truyền thống u nước nồng nàn, nên từ khi tơi cịn bé, b ố
mẹ tơi đã ln rời xa tôi để đi phục vụ Tổ quốc ở nơi chiến khu gian nan,
hiểm trở. Vì vậy tơi đã sống với bà từ những ngày thơ ấu. Tơi có những kỉ
niệm không bao giờ quên với bà, đặc biệt là hình ảnh bà ln gắn với cái
bếp lửa ấp iu nồng đượm ấy. Bà thức dậy từ sớm tinh mơ để nhóm cái bếp
lửa chờn vờn sương sớm, để nhóm lên cái ngọn lửa bởi tình bà cháu ấm áp,
nồng đượm. Nghĩ về bếp lửa tôi lại thương bà tha thiết, sự tần tảo, vất vả
của bà sao tôi có th ể qn.
Cịn nhớ lại cái năm tơi vừa mới lên bốn tuổi, năm ấy là năm 1945 – cái
năm đói mịn đói m ỏi. Tơi đã chứng kiến cái nạn đói len lỏi vào trong từng
gia đình, gây nên cái ch ết thương tâm của hai triệu dân mình, cái chết như
để thể hiện cho tội ác của chiến tranh, một thời kì đau khổ của dân tộc Việt
Nam ta. Bố tơi thì đi đánh xe khơ r ạc ngựa gầy. Cịn tơi thì vẫn ở với bà,
bà nhóm bếp để khói xua tan cái mùi c hết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi
vẫn cịn cay! Cay vì mùi khói! Cay vì m ột thời kì bi thương, đói khổ, chết
chóc của dân tộc ta!
Tám năm rịng tơi cùng bà nhóm b ếp, bà bao bọc, che chở tôi, bà dạy tôi
làm, bà chăm tôi học. Tôi lớn lên trong sự dạy dỗ, bảo ban của bà. Nhớ đến
mùa hè năm ấy, tu hú kêu trên nh ững cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe sao
mà tha thiết thế! Tiếng tu hú như khơi dậy những hoài niệm, những nhớ
nhung mong nhớ trong tôi. Bà hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tơi
ln hào hứng, thích thú những câu chuyện của bà, từng giọng nói ấm áp
của bà chạm đến trái tim tôi, cho tôi bi ết thương cảm, yêu thương người
khác hơn. Nghĩ đến đây tôi liền trách thầm những con tu hú sao không ở
cùng bà mà lại kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Cuộc sống tưởng như n bình trơi qua trong m ắt đứa trẻ như tơi, nhưng
khơng ngờ năm đó là năm giặc càn quét dữ dội, chúng để lại một kí ức in
mãi trong tâm trí tơi. Chúng đ ốt làng cháy tàn cháy r ụi, hình ảnh làng xóm
lại trở về lầm lụi, may thay bà tơi sống có nghĩa có tình, được hàng xóm đỡ
đần bà dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó tơi s ợ đến òa khóc,
nói với bà rằng:” Cháu muốn viết thư cho bố mẹ để bố về nhà chăm sóc,
bảo vệ bà cháu mình “. Th ế mà bà vẫn vững lịng, vẫn còn niềm tin vào
cuộc chiến đấu của dân tộc. Bà dặn tôi đinh ninh r ằng:” Bố ở chiến khu,
vẫn cịn việc bố, mày có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được
bình yên!”. Rồi sớm rồi chiều bà lại nhóm bếp lửa lên, nhóm lên tình bà
thắm thiết, nhóm lên niềm tin dai dẳng của bà vào cuộc sống, vào tương lai
của đất nước.
Ngày qua ngày bếp lửa vẫn được nhóm lên, nhóm lên ni ềm yêu thương ngọt
bùi của khoai sắn, nhóm lên hương v ị dẻo thơm của nồi xôi gạo mới sẻ
chung vui, nhóm d ậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Ôi thật kì lạ và thiêng liêng –
bếp lửa! Bếp lửa kì lạ vì nó cháy lên trong mọi hồn cảnh, dù nắng hay
mưa, đói khát hay chiến tranh thì nó vẫn cháy lên. Nó chưa bao gi ờ tắt vì
bất cứ lý do gì.
Bếp lửa thật thiêng liêng và mầu nhiệm, nó gắn liền với hình ảnh người bà
đáng kính của tơi, nó cũng l à hình ảnh cho hi vọng niềm chiến thắng của
dân tộc tôi, cháy lên không bao gi ờ bị dập tắt, vẫn ấp iu nồng đượm, vẫn
ấm áp đầy yêu thương. Giờ tôi đã đi xa, tiếp nhận được tri thức của nhân
loại. Có ngọn khói trăm tàu, có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả. Nhưng
khơng đâu bằng ngọn lửa của bà tôi, không ni ềm vui nào bằng những ngày
ở cùng bà, bà ơi!
Nay tôi đang ở nơi đất khách quê ngư ời, nơi xa lạ, không ngư ời thân thiết
làm tôi nhớ Tổ quốc, nhớ bà tha thiết. Ánh lửa lò sưởi bập bùng ngay trư ớc
mắt, nhưng khơng có mùi khói cay c ủa bếp lửa bà tơi. Ơi bà ơi, con nh ớ
mùi khói cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà cháu mình, cháu chỉ muốn
nhắc bà rằng : “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa”.
7. Hóa thân ngư ời cháu kể lại bài thơ Bếp lửa
Bao nhiêu năm xa quê hương, x a bà, xa miền quê yêu dấu nhưng tôi vẫn
không thể nào quên đư ợc những thánh năm tuổi thơ, có bà bên bếp lửa ấm.
Dường như cái rét cắt da thịt của mùa đông nư ớc Nga khiến tôi hồi tưởng
về ký ức khi ấy.
Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang lâm vào một nạn đói
khủng khiếp, khi ấy cuộc sống khó khăn rất nhiều. Bố mẹ tơi phải ra ngồi
kiếm tiền, tơi được bà chăm sóc. Tơi cịn nh ớ khi ấy nhà nhà ai cũng đói,
cả người lẫn ngựa đều gầy. Người chết vì đói cũng khơng ít, th ế nên người
dân phải đốt rơm để trừ tử khí, đốt nhiều đến nỗi khói hun nhèm m ắt, tới
giờ vẫn cịn cay. Dù vậy tơi cùng bà cũng không b ỏ cuộc, chúng tôi ng ồi
bên ngọn lửa như có một hy vọng, dù khơng l ớn nhưng vẫn sống mãnh liệt.
Bố mẹ tôi đi theo tiếng gọi Tổ Quốc, giao tơi cho bà giữ. Tám năm rịng tơi
cùng bà nhóm lửa, dù có khổ đến mấy, bà vẫn ngày ngày thắp lên ngọn lửa
như thấp lên mỗi niềm hy vọng. Tơi ngồi trơng những đàn chim tu hú hót
tha thiết ngồi cánh đồng, tơi chỉ muốn nói rằng: "Tu hú ơi sao ch ẳng ở
cùng bà?”. Tôi từ nhỏ đã quen cái hơi thân thu ộc của bà. Cùng bà dậy sớm
để cùng thắp lên “hy vọng” dần dần đã trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.
Tôi vẫn nhớ những câu chuyện khi ấy của bà. Bà thường hay kể những
ngày ở Huế cho tơi nghe, dù bà có k ể bao nhiêu tôi vẫn không thấy chán.
Được áp đầu nằm lên đùi bà, được những ngón tay ấm áp của bà luồn qua
khe tóc, nằm nghe những câu chuyện cùng với hơi ấm của bếp lửa và tất
nhiên là với bà cũng đủ làm cho tôi hạnh phúc.
Bố mẹ đi xa, bà tôi thay bố mẹ dạy tôi nhiều việc, bà lo cho tôi ăn học, lo
cho tôi ăn uống, chăm sóc tơi, khun răn tơi nh ững việc sai. Khi lớn lên
tôi mới nhận ra, bà thương tơi, lo cho tơi khơng có đ ủ tình thương, bà cố
gắng đảm nhiệm là một người bố, người mẹ và là một người thầy để lo cho
tơi. Dù khó khăn bà cũng ch ỉ để tôi thấy một nụ cười hiền hòa. Nhớ đến
đây, hai giọt lệ lăn dài trên má tơi…
Bình n là thế cho đến khi…. Năm đó, giặc đốt làng cháy rụi. Tơi cùng bà
đi trốn. Khi mọi việc kết thúc, bà nắm chặt tay tôi đi từng bước run rẩy vào
làng, mọi thứ trước mắt tơi thật hoang tàn. Tơi có th ể nghe được cả tiếng
khóc than của người dân. Chúng tơi v ề tới ngơi nhà tranh c ủa mình, nó đã
bị đổ xuống nhưng may là các bác hàng xóm đã giúp chúng tôi d ựng lại
được. Đêm ấy, ngồi bên bà, chợt bà bảo tơi: "Mày có viết thư cho bố thì
đừng kể này kể nọ, cứ bảo là chúng ta vẫn bình n. Đừng để bố bây lo.”
Chính là thế, dù có ra sao bà tơi v ẫn gắng gượng. Người phụ nữ ấy là niềm
tự hào to lớn của tôi, bà không bao gi ờ than vãn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết
bà đang cố gắng giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm dù chiều, dù đã qua
mấy chục năm, bà vẫn luôn thắp lên bếp lửa ấp iu ấy. Ngọn lửa được bà
dành chọn tất cả niềm thương u của mình. Chính bếp lửa ấy là nơi có
khoai sắn ngọt bùi, nồi xơi gạo sẻ chia và những tâm tình tuổi thơ. Tơi hiểu
lịng bà, vì sao bà l ại nhóm lửa, tơi hiểu rằng bà đang hy vọng, ngọn lửa bà
thắp như là một niềm tin đất nước sẽ chiến thắng, sẽ bình yên. Bà dành c ả
đời mình chỉ để hy vọng niềm tin hạnh phúc của bà có thể thành hiện thực.
Dù tơi đang ở nơi xa Tổ Quốc, cho dù tôi không th ể ở cùng bà, dù tôi đang
thấy những điều mới lạ. Tơi vẫn khơng qn hình ảnh người bà thân thư ờng
cùng bếp lửa thắp lên niềm tin của tôi. Tôi tin bà vẫn luôn ở đây, đang thắp
lên ngọn lửa ấm áp trong lịng tơi. “S ớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?.”
8. Kể lại bài thơ bếp lửa Bằng văn xi
Thực sự thì sao mà có th ể quên được vào mùa đông ở Liên Xô lạnh cắt da
cắt thịt, nhà nào cũng giữ cho lò sưởi nhà mình ln nóng. Th ế rồi hình
ảnh những làn khói từ các ống trên mái nhà liên tục bây lên quyện vào mây
trời trơng mới thật thanh bình bi ết bao nhiêu. Khi đang gi ấu mình trong
chiếc áo khoác dày sụ từ trường về nhà khi trời đã chập tối, tơi lúc đó
ngước nhìn lên bầu trời và cảm nhận thấy hình ảnh khói như th ật quen
thuộc với tuổi thơ của tơi. Hình ảnh khói như còn g ắn liền với ký ức tuổi
thơ, gắn liền với hình ảnh của người bà thân thiết mà suốt cuộc đời này tơi
sẽ khơng bao giờ có thể qn được.
Thấm thoắt cũng đã mấy năm tôi không về lại Việt Nam nơi tổ quốc thân
thương mà nình sinh ra và l ớn lên nhưng không ngày nào tôi nguôi suy
nghĩ về quê nhà. Ngày nào tôi cũng giành th ời gian vào việc tìm hiểu thơng
tin về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Thực sự khơng chỉ vì thói
quen khi nhớ nhà mà đó cịn là sự khơng n lịng cho những người thân
u của tơi tại Việt Nam. Tôi cũng tự hỏi rằng không biết bà tơi giờ ra
sao… Tơi sinh ra trong hồn c ảnh đất nước trong cuộc chiến bảo vệ độc lập
gian nan và máu lửa. Cũng chính vì đi ều này mà ngay c ả bản thân tôi cũng
đã nhanh chóng sớm chứng kiến đủ mọi khó khăn. Tơi nh ớ khi tơi lên bốn
tuổi, khi đã có kí ức và ý thức về mọi thứ, ý thức sâu sắc nhất đó là về mùi
khói bếp của bà. Đó cũng chính là nh ững năm đói kém, mất mùa, dân ta
một cổ ba tròng bị giày xéo thật thê thảm dưới gót giày bọn cướp nước.
Hình ảnh cha tơi cũng khiến tôi không thể nào nguôi ngoai, cha lúc ấy là
phu xe, con ngựa gầy ngày ngày theo cha ra th ị trấn rồi lại quay về. Lần
nào nhìn cha tôi cũng nhận thấy được bộ dạng của ông như cứ thất thiểu
gầy yếu vì khơng có gì ăn trong nhi ều ngày. Khi mà cha khơng có khách đi
xe thì nhà chắc túng thiếu lắm, ấy vậy mà trong kí ức của tơi thì bếp lửa
của bà chưa lúc nào tắt cả, chính bản thân tơi cũng chưa phải đói rết ngày
nào nhờ sự yêu thương của cả nhà đặc biệt là người bà tảo tần. Khi lớn lên
tôi mới hiểu đó là biết bao cơng sức tần tảo hôm sớm, bà cũng là người hi
sinh, chắt chiu của cha mẹ, nhất là của bà để giữ sự ấm nóng cho bếp lửa.
Bà ln giữ lấy sự sống cho gia đình cho dù khó khăn như nào cũng nh ất
quyết phải có đủ cơm no ấm áo cho đứa cháu trai. Chỉ cần nghĩ đến những
ký ức đó thơi thì sống mũi tơi bất giác cay lên và m ột cảm xúc như khó t ả
cứ trực trào trong khóe m ắt đã nhịe lệ.
Khi tơi lớn hơn vài tuổi cũng đã hiểu chuyện hơn, cũng chính đó là lúc
cuộc kháng chiến của dân tộc đi vào gian nan nh ất, khi đó thì cha m ẹ vào
chiến trường, để lại tôi cho bà nuôi d ạy. Trong những năm tháng ấy tiếng
chim tu hú luôn ám ảnh tâm thức tơi mà khơng thể nào có thể qn được.
Tiếng chim tu hú nó xuất hiện mọi lúc mọi nơi làm cho con ngư ời ta não
lịng, tơi chợt nhớ cha, nhớ mẹ biết mấy. Cũng vào khi ấy ở làng chưa có
trường, bà là ngư ời dạy tơi đọc sách viết chữ, dạy tơi nhóm lửa, làm mọi
thứ, bảo ban tơi từng li từng tí một,… Bà tơi cũng cịn hay k ể chuyện ngày
xưa khi gia đình cịn ở Huế nữa. Mặt dù chính tơi cịn chưa bi ết Huế ra sao
nhưng nó hiện lên trong lời kể của bà thật đẹp thật đáng ước mơ một lền
được đến đó. Thế nhưng đột nhiên tơi lại thấy thương bà mỗi khi màn đêm
bng xuống. Nhìn bóng lưng bà g ầy gò in trên vách l ều khi đèn dầu được
đốt lên chiếu sáng. Tôi tự biết được nếu như khơng vì tơi, tấm lưng kia đã
khơng gầy đến thế. Và tơi nhớ đến tu hú, thay vì kêu não lịng ngư ời ngồi
cánh đồng xa vắng kia. Tiếng tu hú như cứ kêu giúp hai bà cháu sẽ bớt
phần cơ đơn hơn.
Thế rồi cuộc sống n bình rồi cũng qua đi chứ khơng thể níu giữ được
nữa. Cũng chính trong năm ấy thì qn giặc tràn đến làng, chúng có những
hành động thật là dã man đó như đ ốt nhà, cướp của, bắt người, đánh đập…
biết bao nhiêu tội ác để không biết đâu cho hết. Hình ảnh căn nhà nhỏ bé
đơn xơ xưa kia đâu cịn, ở hai bên làng xóm thương hai bà cháu côi cút,
đồng thời cũng đã giúp đ ỡ dựng được túp lều tranh để che mưa, che nắng.
Lúc đó tơi da diết muốn viết thư cho cha kể cha mẹ nghe về việc ấy nhưng
bà bảo với tôi rằng: “Bố ở chiến khu, bố cịn việc bố, con có viết thư chớ
kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ yên tâm mà đánh
giặc cùng mọi người”. Và vậy là trong lá thư ấy chỉ có nỗi nhớ tơi dành
cho cha mẹ và như lời bà tơi nói nhà v ẫn được bình n. Lúc đó bản thân
tơi cũng cứ thắc mắc mãi chuyện vì sao bà không cho tôi k ể chuyện giặc
đốt nhà nhưng cho đến khi lớn lên thì tơi đã hi ểu thêm được sự kiên cường
của bà tôi. Bà tôi cũng đã chọn cách tự mình gánh vác vi ệc nhà để lo việc
đất nước, bà không mu ốn bố mẹ tôi phải lo lắng về chuyện nhà cửa. Tôi
bỗng nhiên cảm nhận thấy bà là người có một niềm tin thật vững chắc vào
cuộc kháng chiến của dân tộc ta, có một lịng lặng lẽ hi inh cao cả. Đến bây
giờ tôi nghĩ rằng không chỉ bà tôi mà tất cả những người bà người mẹ của
dân tộc đều kiên cường như thế thì mới có ngày hịa bình hơm nay.
Ngày hơm nay tơi đang đư ợc đón nhận nền học vấn ở một nơi xa yên ổn và
an bình nhưng khơng ngày nào t ơi thơi nhớ về quê hương, không nguôi nh ớ
về bà tôi. Cũng đã mấy chục năm nay, bà vẫn tần tảo sớm hôm một nắng
hai sương như vậy và trong những lá thư gửi qua tơi biết bà vẫn giữ thói
quen dậy sớm nhóm bếp. Ngay ở chính nơi q nhà chỉ có một mình nhưng
bà có bà con lối xóm cùng chia ngọt sẻ bùi nên cũng ắp đầy tình thương
mến. Và có lẽ rằng chính ở đó, bà nhóm lên b ếp lửa từng ngày là để giữ lại
hơi ấm lửa của tuổi thơ cho đứa cháu một ngày trở về sẽ ngồi lại bên hơi
ấm ấy mà ơm bà. Hình ảnh ngọn lửa chập chờn ấy chính là ngọn lửa thiêng
liêng và kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời tơi, là ngọn lửa đại diện
cho sự sống và tình yêu không bao gi ờ tắt của tôi.
Ngay khi tôi ở nơi đất khách, tôi vẫn không sao quên đư ợc mùi khóm của
bà, hơi ấm lửa của bà. Cho dù sau này có đi đâu xa, có ng ọn khói trăm tàu,
lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả thì hạnh phúc của tôi cũng chỉ đặt ở ngọn
lửa do chính tay bà nhen nhóm lên mà thơi.