BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHENIKAA
¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯
KHOA KHOA HỌC CƠ BẢN
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT
HỌC MÁC – LÊNIN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Giảng viên: ThS. Đồng Thị Tuyền
Lớp:
Niên khóa:
Học viên: Mai Quân Đoàn - 21800028
Hà Nội – 2021
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN 2: NỘI DUNG...................................................................................................4
2.1. Các đặc điểm cơ bản trong triết học phương Đông và phương Tây............4
2.1.1. Đặc điểm cơ bản của triết học phương Đông.............................................4
2.1.2. Đặc điểm của triết học phương Tây...........................................................5
2.1.3. Sự tiến bộ triết học Mác Lênin...................................................................6
2.2. Các đặc điểm cơ bản trong triết học Mác- Lênin.........................................8
2.2.1. Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng......8
2.2.2. Quan điểm duy vật biện chứng.................................................................11
2.2.3. Thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học...........................................12
2.2.4. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn....................................................13
2.2.5. Xác đinh rõ đối tượng nghiên cứu............................................................16
2.2.6. Tính sáng tạo của triết học Mác-Lênin.....................................................18
2.3. Ý nghĩa thực tiễn của các đặc điểm cơ bản trong triết học Mác – Lênin.. 20
2.3.1. Ý nghĩa và ảnh hưởng của triết học Mác – Lênin đến tư tưởng Hồ Chí
Minh từ đó quyết định đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam..................................20
2.3.2. Ý nghĩa của triết học Mác -Lênin lên sự hình thành cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận trong nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản.........22
2.3.3. Ý nghĩa của triết Mác - Lênin học đối với khoa học tự nhiên và tư duy lí
luận.
...............................................................................................................24
2.3.4. Triết học Mác – Lênin – nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam......................................................................25
2.4. Liên hệ bản thân và rút ra các bài học........................................................26
PHẦN 3: KẾT LUẬN.................................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................................29
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Với tư cách là một hình thái phát triển cao của tư tưởng triết học nhân loại,
đối tượng nghiên cứu của triết học Mác-Lênin tất yếu vừa có sự đồng nhất, vừa
có sự khác biệt so với đối tượng nghiên cứu của các hệ thống triết học khác trong
lịch sử. Vượt qua những hạn chế lịch sử của các hệ thống triết học khác, triết học
Mác-Lênin xác định đối tượng nghiên cứu của mình bao gồm khơng chỉ những
quy luật phổ biến của tự nhiên nói chung, mà còn bao gồm cả những quy luật
phổ biến của bộ phận tự nhiên đã và đang được nhân hoá - tức các quy luật phổ
biến của lịch sử xã hội. Do đó, đối tượng của triết học Mác-Lênin bao gồm cả
vấn đề con người. Triết học Mác-Lênin xuất phát từ con người, từ thực tiễn, chỉ
ra những quy luật của sự vận động, phát triển của xã hội và của tư duy con
người. Mục đích của triết học Mác-Lênin là nâng cao hiệu quả của quá trình
nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm phục vụ lợi ích của con người. Cũng như
mọi khoa học, triết học Mác-Lênin cùng một lúc thực hiện nhiều chức năng khác
nhau. Đó là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận, chức năng
nhận thức và giáo dục, chức năng dự báo và phê phán... Tuy nhiên, chức năng
thế giới quan và chức năng phương pháp luận là hai chức năng cơ bản của triết
học Mác-Lênin.
Từ những khái niệm đi từ chung đến chi tiết và những điều đã học, Triết
học Mác-Lenin có những đặc điểm cơ bản sau đây. Thứ nhất, triết học Mác –
Lênin có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Thứ hai, triết học Mác – Lênin đã xây dựng được quan điểm duy vật biện chứng
về lịch sử xã hội, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành toàn diện và triệt để nhất,
khắc phục được tính chất duy tâm về xã hội trong các hệ thống triết học trước
1
đây. Thứ ba, triết học Mác – Lênin xác định rõ đối tượng nghiên cứu của triết
học là những mối liên hệ chung, những quy luật phổ biến của sự vận động phát
triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, phân biệt với đối tượng nghiên cứu của các
khoa học cụ thể. Thứ tư, triết học Mác – Lênin là vũ khí tinh thần của giai cấp
cơng nhân, ln gắn với thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp cơng
nhân, cuộc đấu tranh giải phóng con người khỏi chế độ người bóc lột người, xây
dựng một xã hội trong đó con người có cuộc sống vật chất đầy đủ, cuộc sống
tinh thần phong phú, thật sự công bằng, dân chủ và văn minh.
Những đặc điểm của triết học Mác – Lênin, như đã trình bày trong mục
trên, phản ánh bản chất khoa học và nhân văn của triết học Mác – Lênin. Ngồi
vai trị là hạt nhân lý luận của thế giới quan khoa học, triết học Mác – Lênin cịn
đóng vai trị phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa học và hoạt động
thực tiễn. Trên thực tế, chúng ta thấy có thể mục tiêu, phương, hướng xác định
đúng nhưng nếu phương pháp hoạt động không đúng vẫn không đạt được kết quả
như mong muốn. Vì vậy phải có phương pháp luận khoa học, tức là phải có hệ
thống các nguyên tắc xuất phát phản ánh đúng quy luật vận động của các sự vật
và hoạt động của con người. Triết học Mác – Lênin, trong đó có phép biện chứng
duy vật là hệ thống lý luận khoa học phản ánh đúng quy luật khách quan của sự
vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Thông qua việc
cung cấp phương pháp luận khoa học làm cơ sở để xác định các phương pháp cụ
thể, triết học Mác – Lênin thể hiện vai trị của mình đối với đời sống xã hội. Với
những điều trình bày trên đây, chúng ta có cơ sở để khẳng định rằng: Trong thời
đại ngày nay, triết học Mác – Lênin mới thực sự đóng vai trò là hạt nhân lý luận
của thế giới quan khoa học. Thơng qua việc hình thành thế giới quan khoa học
cho con người, triết học Mác – Lênin tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội.
2
PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1.
Các đặc điểm cơ bản trong triết học phương Đông và phương Tây.
Sự phát triển của bất cứ nền triết học nào cũng đều dựa trên chính những
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội - cơ sở vật chất để nó nảy sinh và phát triển.
Triết học phương Đông và phương Tây cũng vậy.
2.1.1. Đặc điểm cơ bản của triết học phương Đông
Sự phát triển của tư tưởng triết học phương Đơng có những đặc điểm mang
bản sắc độc đáo với những đặc điểm chung cơ bản như:
❖ Triết học phương Đông nhấn mạnh mặt thống nhất trong mối quan hệ
giữa con người với vũ trụ.
❖ Những tư tưởng triết học phương Đơng ít khi tồn tại dưới dạng triết học
thuần túy, mà thường được trình bày xen kẽ hoặc ẩn giấu đằng sau những vấn đề
chính trị - xã hội, đạo đức, tơn giáo, nghệ thuật ...
❖ Triết học phương Đông phong phú, đa dạng, nhưng vận động chậm chạp,
ít thấy những bước phát triển nhảy vọt về chất có tính chất vạch thời đại.
❖ Trong các trào lưu, học thuyết của triết học phương Đông thường đan xen
các yếu tố duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình.
Như vậy, có thể thấy, thế giới quan bao trùm của triết học phương Đông là
duy tâm, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có diễn ra,
song khơng cân sức, khơng rõ chiến tuyến. Trong cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa
duy vật chỉ là yếu tố chống lại cả một hệ thống là chủ nghĩa duy tâm. Trong triết
học phương Đơng thường có sự đan xen giữa các yếu tố duy vật và duy tâm, biện
3
chứng và siêu hình. Tính đảng, tính giai cấp trong triết học khơng đậm nét,
khơng sâu sắc. Những điều đó là cơ sở giải thích tại sao khoa học, kỹ thuật ra đời
rất sớm ở phương Đông, song lại không phát triển và phát huy tác dụng.
2.1.2. Đặc điểm của triết học phương Tây
Sự phát triển của tư tưởng triết học phương Tây có những đặc điểm mang
bản sắc khác so với triết học phương Đông như sau:
❖ Triết học phương Tây tách con người ra khỏi vũ trụ (thế giới khách quan),
coi con người là chủ thể, còn thế giới là khách thể, con người cần nghiên cứu,
chinh phục.
❖ Đặt trọng tâm nghiên cứu vào thế giới, vấn đề con người cũng chỉ được
bàn tới nhằm giải thích thế giới. Do đó, đây vấn đề bản thể luận rất đậm nét. Sau
này, triết học Mác – Lênin đã khắc phục nhược điểm này của triết học phương
Tây.
❖ Triết học thường gắn liền với những thành tựu của khoa học kỹ thuật, đặc
biệt là khoa học tự nhiên; chủ thể của các học thuyết vừa là nhà triết học vừa là
các nhà khoa học, nhà bác học. Đối tượng nghiên cứu của triết học phương Tây
cũng rất rộng, bao gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội và tư duy, trong đó, nhìn chung
tự nhiên được lấy làm gốc, làm cơ sở.
❖ Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm gay gắt,
quyết liệt thành trận tuyến rạch ròi.
Như vậy, triết học phương Tây cổ đại – mặc dù ra đời sau triết học phương
Đông, song được coi là nền triết học phát triển đến đỉnh cao ở thời cổ đại. Xuất
phá từ cái nôi của nền văn minh thế giới – văn minh Hy Lạp, triết học phương
Tây ngay từ khi mới ra đời đã có nội dung phong phú đa dạng bao gồm mọi lĩnh
4
vực tri thức của con người cổ đại, do đó nó đã chứa đựng mầm mống của hầu hết
các loại thế giới quan sau này mà triết học phương Đông khơng có được.
2.1.3. Sự tiến bộ triết học Mác Lênin
Từ góc độ triết học thì triết học Mác - Lênin vẫn là một hệ thống đỉnh cao,
bởi vì triết học Mác - Lênin đã nêu lên những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Một số người cho rằng triết học phản ánh tinh thần của cả một
thời đại, là tinh tuý của tinh thần thời đại, vì vậy thời đại thay đổi thì cũng cần
thay đổi triết học. Điều này mới nghe qua thì hợp lý, song thực tế lại có khơng ít
sai lầm. Đúng là triết học là tinh tuý của tinh thần thời đại, song khơng có nghĩa
thời đại thay đổi thì triết học được sinh ra trong thời đại đó mất đi giá trị của
mình. Ví dụ như ở phương Tây là giá trị triết học Hy Lạp La Mã cổ đại, truyền
thống Kitô giáo, tinh thần Phục Hưng, phong trào Khai sáng Pháp, triết học cổ
điển Đức... hay ở phương Đông là tinh hoa của Phật, Lão, Nho...
Lịch sử biến thiên qua nhiều giai đoạn, song khơng vì thời đại thay đổi mà
các học thuyết, hệ tư tưởng này mất đi tinh hoa, giá trị đối với nhân loại. Tương
tự như vậy, so với thời của C. Mác hơn một thế kỷ trước, mặc dù đặc trưng thời
đại, các vấn đề căn bản phải đối mặt của chúng ta ngày nay đã thay đổi, song
điều đó hồn tồn khơng làm lay chuyển sứ mệnh lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn xã hội ngày nay cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ không đưa ra được bất cứ bằng chứng xác thực nào để bác bỏ các
nguyên lý căn bản của triết học Mác, vì vậy việc cho rằng thời đại thay đổi thì
triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung đã lỗi thời là hoàn
toàn sai lầm.
5
Có thể thấy rõ ràng là khơng phải học thuyết càng mới thì càng có giá trị.
Một học thuyết trong lịch sử đối với đương thời có hay khơng có giá trị khơng
phải chỗ học thuyết đó ra đời ở thời đại nào mà căn bản nhất ở chỗ tự bản thân
học thuyết đó có tính chân lý hay khơng, có cung cấp đủ tri thức và trí tuệ hay
khơng.
Một đặc điểm không thể không nhắc đến của khoa học xã hội là tri thức
khoa học xã hội, khoa học nhân văn khác với công nghệ, kỹ thuật hay công cụ
sản xuất. Con người khi có cơng cụ sản xuất mới thì có thể khơng cần cơng cụ
sản xuất cũ nữa, có kỹ thuật mới tiên tiến thì có thể thay thế kỹ thuật cũ lạc hậu.
Song tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn thì lại khác: chỉ cần có tính
chân lý hoặc mang lại trí tuệ cho con người thì những tri thức này có giá trị tồn
tại. Tri thức khoa học xã hội, khoa học nhân văn vì vậy mang đặc trưng tích luỹ
chứ khơng mang đặc trưng thay thế như kỹ thuật, công nghệ. Chính vì vậy mà có
những học thuyết tồn tại hàng nghìn năm qua vẫn cịn giá trị.
2.2.
Các đặc điểm cơ bản trong triết học Mác- Lênin
2.2.1. Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng.
Thế giới quan duy vật cho rằng: giữa vật chất và ý thức thì vật chất là cái
có trước, cái quyết định ý thức. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với
ý thức của con người, không do ai sáng tạo ra và không ai tiêu diệt được. Trong
khi đó, phương pháp luận biện chứng: xem xét sự vật hiện tượng trong sự ràng
buộc lẫn nhau giữa chúng, trong sự vận động và phát triển không ngừng. Triết
học Mác – Lênin có sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp
biện chứng. Điều đó nghĩa là triết học Mác – Lênin không những thừa nhận bản
chất của thế giới là vật chất, thế giới vật chất tồn tại độc lập, không phụ thuộc
6
vào ý thức, mà còn thừa nhận thể giới vật chất vận động, phát triển không ngừng,
các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất quan hệ chặt chẽ với nhau, tác
động, chuyển hố lẫn nhau và thơng qua đó xác định xu hướng vận động đi lên
của các sự vật trong thể giới vật chất.
2.2.2. Quan điểm duy vật biện chứng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở lý luận của thế giới quan khoa học;
là khoa học về những quy luật chung nhất của sự vận động và phát triển trong tự
nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Mác-Lênin là triết học duy vật, bởi triết học đó
coi ý thức là tính chất của dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người và nhiệm
vụ của bộ não người là phản ánh giới tự nhiên. Sự phản ánh có tính biện chứng,
bởi nhờ nó mà con người nhận thức được mối quan hệ qua lại chung nhất giữa
các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất; đồng thời nhận thức được rằng, sự
vận động và phát triển của thế giới là kết quả của các mâu thuẫn đang tồn tại bên
trong thế giới đang vận động đó. Chủ nghĩa duy vật biện chứng - nó là hình thức
cao nhất trong các hình thức của chủ nghĩa duy vật. Cốt lõi của chủ nghĩa duy
vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng. Đặc trưng của
phương pháp duy vật biện chứng là coi một sự vật hay một hiện tượng trong
trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện
tượng khác [1].
2.2.3. Thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học
Giữa tính Đảng và tính khoa học ln có mối quan hệ thống nhất với nhau
trong suốt quá trình nghiên cứu. Tính khoa học yêu cầu người viết phản ánh
được sự tồn tại khách quan của sự vật, hiện tượng một cách chân thực; thể hiện
kết quả nghiên cứu sự vật, hiện tượng cụ thể để đạt tới chân lý khách quan. Tính
Đảng yêu cầu người viết phải dựa vào hệ tư tưởng của Đảng và đứng trên lập
7
trường giai cấp. Đối với chúng ta phải dựa vào lập trường, quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Chúng ta khơng thể tách rời tính khoa học ra khỏi tính Đảng và ngược lại,
bởi vì làm như vậy bản thân khoa học sẽ mất hiệu lực và không thể giải quyết
những vấn đề quan trọng mà khoa học lịch sử đã đặt ra. Kết hợp đúng đắn giữa
tính khoa học và tính Đảng sẽ làm cho việc nghiên cứu lịch sử hiệu quả hơn. Từ
sự nhận thức mối quan hệ giữa tính Đảng khoa học và tính Đảng địi hỏi người
nghiên cứu lịch sử phải đồng thời rèn luyện lập trường, quan điểm chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các
nguyên tắc Mácxít - Lêninnít vào nghiên cứu, nâng cao nghiệp vụ, bồi dưỡng
chuyên môn khoa học [1].
2.2.4. Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
Mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn là luận điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung thực chất của mối quan
hệ đó là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn
mù qng. Lý luận mà khơng có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (2). Vấn đề
này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải hiểu trên tinh thần biện chứng: Thực tiễn
cần tới lý luận khoa học soi đường, dẫn dắt, định hướng để không rơi vào mù
quáng, mò mẫm. Còn lý luận khoa học phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nảy sinh từ
thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn. Lý luận khoa học
phải được hình thành, bổ sung, phát triển bằng con đường tổng kết thực tiễn, nếu
khơng lý luận đó chỉ là lý luận sng, giáo điều, xa rời cuộc sống. Chúng ta cần
chú ý rằng: một lý luận khoa học có thể được nảy sinh từ những luận điểm khoa
8
học đã có làm tiền đề. Nhưng xét đến cùng thì những lý luận đó cũng xuất phát
từ thực tiễn. Vì vậy, ta có thể khẳng định rằng: mọi lý luận đều trực tiếp hoặc
gián tiếp bắt nguồn từ thực tiễn.
Từ sự phân tích trên ta thấy, về bản chất nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn đòi hỏi: thực tiễn và lý luận đều cần đến nhau, nương tựa vào nhau, bổ
sung cho nhau, khơng có thực tiễn thì sẽ khơng có lý luận chân chính; ngược lại
khơng có lý luận khoa học thì thực tiễn sẽ mất phương hướng sớm muộn sẽ mắc
bệnh kinh nghiệm hoặc bệnh giáo điều [2].
2.2.5. Xác đinh rõ đối tượng nghiên cứu
Cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung
nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói
chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh.Đối tượng nghiên
cứu của Triết học trong từng thời kì:
Ngay từ khi mới ra đời: Triết học được xem là hình thái cao nhất của tri
thức, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực khơng có đối tượng riêng.
Thời kỳ này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó
cịn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu. Thời kỳ trung
cổ: Ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội
thì triết học trở thành nô lệ của thần học. Triết học lúc này phát triển một cách
chậm chạp trong môi trường chật hẹp của đêm trường trung cổ. Vào Thế kỷ XV,
XVI: Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một cơ sở
tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Sự phát triển xã hội được thúc đẩy
bởi sự hình thành và củng cố quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, bởi những phát
hiện lớn về địa lý và thiên văn cùng những thành tựu khác của cả khoa học tự
nhiên và khoa học nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển triết học.
9
Thế kỷ XVII – XVIII: Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức
của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật
thế kỷ XVII – XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như
Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…
V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này
đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác. Đầu thế
kỷ XIX: Hoàn cảnh kinh tế – xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào
đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với
quan niệm “khoa học của các khoa học”, triết học mácxít xác định đối tượng
nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy [3].
2.2.6. Tính sáng tạo của triết học Mác-Lênin
Tính sáng tạo trong triết học Mác được thể hiện qua: Sáng tạo ra chủ nghĩa
duy vật lịch sử - Phát kiến vĩ đại của C.Mác. Một đặc điểm có ý nghĩa to lớn của
cuộc CM trong triết học là mở rộng CNDV sang lĩnh vực lịch sử xã hội lồi
người, hình thành nên CNDV lịch sử. Lenin đánh giá rằng: “Trong khi nghiên
cứu sâu và phát triển CNDV triết học Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị
và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã
hội loài người. CNDV lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn
và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và
chính trị…”. CNDV lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của
10
lịch sử xã hội loài người, sự thay thế các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình
lịch sử-tự nhiên.
Trong xã hội hiện đại, sản xuất vật chất vẫn là nền tảng của đời sống xã
hội. Nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng vẫn là sản xuất và tái sản
xuất ra đời sống xã hội. Nguồn gốc và động lực phát triển của toàn bộ đời sống
xã hội, xét đến cùng vẫn là sự tác động biện chứng của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức
xã hội. Ngoài ra, trong xã hội có giai cấp thì đấu tranh giai cấp vẫn là một trong
những động lực phát triển của xã hội. Sự phát triển của xã hội từ hình thái kinh tế
- xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác được thực hiện thông qua các
cuộc cách mạng xã hội (với những hình thức và phương pháp cách mạng phong
phú và thích hợp). Nói một cách ngắn gọn, quan điểm của triết học Mác về hình
thái kinh tế - xã hội, giai cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, Nhà nước,
con người... vẫn là cơ sở khoa học cho việc xem xét và giải quyết những vấn đề
căn bản của xã hội hiện đại.
❖ V.I.Lênin phát triển triết học Mác
V.I.Lênin (1970 – 1924) đã vận dụng sáng tạo học thuyết của Mác để giải
quyết những vấn đề của cách mạng vô sản trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và
bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ơng đã có đóng góp to lớn vào sự phát
triển lý luận của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng. Làm phong
phú phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng: Tác phẩm “Bút ký triết học” –
gồm những ghi chép và nhận xét của Lênin khi đọc các tác phẩm của nhiều nhà
triết học, được thực hiện chủ yếu trong những năm từ 1914 – 1915, cho thấy ông
đặc biệt quan tâm nghiên cứu về phép biện chứng, nhất là triết học Heghen.
11
Lênin đã tiếp tục khai thác cái “hạt nhân hợp lý” của triết học Heghen để làm
phong phú thêm phép biện chứng duy vật, đặc biệt là lý luận về sự thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập. Tinh thần sáng tạo của tư duy biện chứng cũng đã
giúp cho Lênin có những đóng góp quan trọng vào kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác về triết học xã hội như vấn đề nhà nước, cách mạng bạo lực, chun
chính vơ sản, lý luận về Đảng kiểu mới, v.v…Luận điểm của Lênin về khả năng
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội bắt đầu ở một số nước, thậm chí ở một nước riêng
lẻ, được rút ra từ sự phân tích quy luật phát triển khơng đều của chủ nghĩa tư
bản, đã có ảnh hưởng rất lớn tới tiến trình cách mạng ở nước Nga cũng như trên
tồn thế giới [3].
2.3.
Ý nghĩa thực tiễn của các đặc điểm cơ bản trong triết học Mác – Lênin.
2.3.1. Ý nghĩa và ảnh hưởng của triết học Mác – Lênin đến tư tưởng Hồ Chí
Minh từ đó quyết định đến sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo
của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu
nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu bản chất khoa học
và cách mạng của học thuyết này. Từ đó trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết
thành công những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Thứ nhất, thế giới quan Hồ Chí
Minh là thế giới quan khoa học. Trong đó, thế giới quan triết học Mác - Lênin
đóng vai trị quyết định bản chất khoa học, cách mạng. Thế giới quan của Người
còn ảnh hưởng của tư tưởng triết học dân tộc, của tinh hoá văn hoá, triết học
phương Đông, phương Tây. Về khuynh hướng tư duy, tư tưởng triết học Hồ Chí
12
Minh đi sâu lý giải các vấn đề xã hội và nhân sinh. Bởi lẽ, xuất phát từ hoài bão
lớn lao và mục đích chính trị cao cả là “cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc”
nên Người đặc biệt chú trọng xây dựng lý luận về chính trị - xã hội, đạo đức cách
mạng nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn hơn là hình thức học thuyết triết học,
nhận thức và logic học như các nhà triết học vẫn thường làm. Thứ hai, quan điểm
duy vật biện chứng trong triết học Mác – Lênin đã hình thành phương pháp luận
của Hồ Chí Minh. Phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử. Về thực chất, đó là phép biện chứng của Hồ Chí
Minh, là phương châm xem xét và hành động khoa học được Hồ Chí Minh đúc
kết từ sự tiếp thu, kế thừa, vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển phép biện
chứng duy vật mác-xít, kết hợp với kế thừa truyền thống tư duy dân tộc, tư duy
triết học phương Đông và thực tiễn giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt
Nam. Thứ ba, sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện
chứng trong triết học Mác – Lênin đã hình thành tư duy duy vật biện chứng của
Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, triết học duy vật biện chứng trong Mác – Lênin vốn là
tư duy khoa học, có hàm lượng trí tuệ cao, có sự trừu tượng hố và khái qt cao,
sâu sắc, do đó việc vận dụng triết học duy vật biện chứng vào thực tế cách mạng
Việt Nam là vơ cùng khó khăn. Việc nắm vững thực chất phép biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống triết học phương Đông, nắm
vững ngôn ngữ của quần chúng nhân dân và quan hệ mật thiết với họ đã giúp Hồ
Chí Minh diễn đạt tư tưởng triết học duy vật biện chứng một cách phổ thông, dễ
hiểu, dễ làm đối với cách mạng Việt Nam mà vẫn giữ được bản chất khoa học,
cách mạng của nó. Thứ tư, đặc điểm thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học
của triết học Mác – Lênin đã hình thành nên tư duy triết học của Hồ Chí Minh.
Tư duy triết học Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính khoa học và
13
tính cách mạng (tính Đảng), giữa lập trường, quan điểm và phương pháp nhận
thức, hành động. Sự kết hợp này vừa là đặc trưng tư duy triết học Hồ Chí Minh
vừa là nguyên tắc của Hồ Chí Minh về nhận thức và hành động. Thể hiện sự nhất
quán trong tư tưởng triết học của Người [4,5].
2.3.2. Ý nghĩa của triết học Mác -Lênin lên sự hình thành cơ sở thế giới quan và
phương pháp luận trong nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp vô sản.
Ra đời trong thực tiễn đấu tranh của phịng trào cơng nhân, chủ nghĩa Mác
–Lênin khẳng định mối liên hệ hữu cơ, biện chứng giữa lý luận cách mạng và
thực tiễn cách mạng. C. Mác viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bởi lực
lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”.
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin phơi bày bản chất sâu xa nhất, những
mâu thuẫn cố hữu nhất tồn tại trong chế độ tư bản chủ nghĩa và dự đốn chính
xác xu hướng vận động của các hình thái kinh tế - xã hội để đi đến khẳng định
tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Vì vậy, đây là học thuyết
khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp,
giải phóng xã hội, giải phóng con người và chỉ rõ lực lượng, con đường, phương
thức nhằm đạt được mục tiêu đó. Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản trên thế giới
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, sự phát triển không đồng đều giữa các
nước khiến mâu thuẫn gia tăng và chiến tranh xảy ra là điều tất yếu, trong khi
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ
thuộc diễn ra mạnh mẽ. Vì vậy, Lênin đã vận dụng và phát triển sáng tạo học
thuyết Mác để giải quyết những vấn đề phát sinh trong thời đại của mình. Ơng
14
chỉ ra khả năng thắng lợi của cách mạng vô sản; làm rõ mối quan hệ giữa cách
mạng vô sản với cách mạng giải phóng dân tộc; sáng lập học thuyết đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân và lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng
Mười Nga, đưa Đảng Cộng sản lần đầu tiên trở thành đảng cầm quyền tại nước
Nga Xô Viết.
Thứ hai, triết học Mác - Lênin cung cấp phương pháp luận. Theo C.Mác,
trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp
và tầng lớp bị trị. Các giai cấp, tầng lớp bị trị không những bị chiếm đoạt kết quả
lao động mà họ còn bị áp bức về chính trị, tư tưởng và tinh thần. Đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới đấu tranh giai cấp. Nguyên nhân sâu xa dẫn tới đấu tranh
giai cấp, theo C.Mác là mâu thuẫn giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất với quan hệ sản xuất đã lỗi thời. Sự phát triển khách quan của lực lượng sản
xuất tất yếu dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ bằng cách này hay cách khác quan
hệ sản xuất cũ và thay thế nó bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây chính là đấu tranh giai cấp.
Thứ ba, triết học Mác – Lênin chỉ ra phương pháp cải tạo thế giới của giai
cấp vơ sản. Tiến trình của cuộc đấu tranh giai cấp mà C.Mác chỉ ra diễn ra theo
hai bước. Bước đầu tiên, giai cấp vô sản liên hiệp lại, thành lập các đoàn thể, tạo
điều kiện cho sự ra đời chính đảng vơ sản. Dưới sự lãnh đạo của chính đảng vơ
sản, giai cấp vơ sản dùng bạo lực lật đổ tồn bộ chính quyền tư sản. Sau đó, khi
đạt được chính quyền “giai cấp vơ sản sẽ dùng sự thống trị của mình để từng
bước đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những
công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là giai cấp vô sản đã được tổ chức thành
giai cấp thống trị”. Tuy nhiên, C. Mác đã có những bổ sung lý luận về đấu tranh
giai cấp cụ thể hơn khi ông khẳng định: nông dân là đồng minh tự nhiên với giai
15
cấp vô sản, “công nhân Pháp không thể tiến lên được một bước nào, và cũng
không thể đụng đến một sợi tóc nào của chế độ tư sản, trước khi mà đông đảo
nhân dân đứng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, tức là nông dân và giai
cấp tiểu tư sản” và trong cuộc đấu tranh giai cấp sắp tới, giai cấp vơ sản khơng
phải là hồn thiện bộ máy nhà nước sẵn có mà phải “đập tan” bộ máy nhà nước
đó, đồng thời phải tiến hành cách mạng không ngừng [4,5].
2.3.3. Ý nghĩa của triết Mác - Lênin học đối với khoa học tự nhiên và tư duy lí
luận.
Các đặc điểm trong thế giới quan và phương pháp luận của Triết học Mác
– Lênin không chỉ có vai trị to lớn đối với cách mạng vơ sản mà cịn có vai trị
to lớn đối với sự phát triển khoa học tự nhiên hiện đại. Vai trò đó thể hiện ở chỗ:
Triết học Mác – Lênin tổng hợp tồn bộ tri thức của nhân loại, trong đó có những
thành tựu của khoa học tự nhiên hiện đại để xây dựng thế giới quan và phương
pháp luận khoa học, tìm ra quy luật vận động, phát triển của nhận thức nói chung
và của nhận thức khoa học tự nhiên nói riêng. Trên cơ sở đó triết học Mác –
Lênin xây dựng một thế giới quan và phương pháp luận khoa học, giúp khoa học
tự nhiên xác định đúng vị trí và phương hướng hoạt động của mình, giải phóng
khoa học tự nhiên khỏi sự ràng buộc của thế giới quan và phương pháp luận duy
tâm, siêu hình, sai lầm của các hệ thống triết học lỗi thời.
Việc khắc phục cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự
nhiên đầu thế kỷ XX là một bằng chứng thực tế, thể hiện rõ vai trò của triết học
Mác – Lênin đối với sự phát triển khoa học tự nhiên hiện đại. Lênin đã phân tích
sự phát triển của khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XX, chỉ ra nguyên nhân đưa đến
cuộc khủng hoảng về mặt thế giới quan của khoa học tự nhiên thời kỳ đó là: Thứ
16
nhất, phủ nhận sự tồn tại khách quan của các sự vật bên ngoài cảm giác, ý thức
của con người; thứ hai, không hiểu phép biện chứng duy vật mácxit, khơng phân
biệt được tính chất tương đối của q trình nhận thức với biện chứng của quá
trình nhận thức.
Bên cạnh đó, ý nghĩa thực tiễn của triết học Mác – Lênin còn thể hiện ở tư
duy lý luận thực tiễn. Tư duy là quá trình vận động của tư tưởng phản ánh hiện
thực khách quan bằng các biểu tượng, khái niệm, phạm trù trừu tượng. Tư duy
của con người có nhiều trình độ khác nhau: có tư duy kinh nghiệm, tư duy lý
luận, tư duy duy cảm, tư duy duy lý… Tư duy lý luận là hình thức tư duy có tính
hệ thống và tính khái qt cao hơn tư duy kinh nghiệm. Tư duy lý luận không
phải là cái có sẵn, tồn tại ở đâu đó trước con người, mà tư duy lý luận được hình
thành trong quá trình con người hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức.
2.3.4. Triết học Mác – Lênin – nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành
động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngay từ khi ra đời năm 1930, Đảng ta đã khẳng định, nền tảng tư tưởng
của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin. Hai đặc điểm của triết học Mác – Lênin được
Đảng ta sử dụng làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động đó là:
Kinh tế chính trị Mác – Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học Mác – Lênin. Thứ
nhất, kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, các quan hệ sản xuất, chỉ rõ bản chất, những quy luật kinh tế chủ yếu của
sự hình thành, phát triển và đưa phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tới chỗ
diệt vong (bản chất bọc lột của chủ nghĩa tư bản); chỉ ra những quy luật phát
triển của quan hệ sản xuất mới, con đường xây dựng một xã hội khơng có áp bức
bất cơng, vì tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người – xã hội cộng sản chủ nghĩa,
17
giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, chủ nghĩa xã hội khoa học là hệ
thống tri thức chung nhất về cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình hình thành,
phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Lực lượng xã hội
thực hiện sự chuyển biến đó chính là giai cấp vô sản và nhân dân lao động; chỉ ra
sứ mệnh lịch sử tồn thế giới của giai cấp cơng nhân là lật đổ chủ nghĩa tư bản
xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa [5].
2.4.
Liên hệ bản thân và rút ra các bài học.
Năm 2021, chúng ta đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4. Đảng và nhà nước ta đã nhìn nhận rất đúng đắn cơ hội này với nhiều chính
sách quyết liệt, nổi bật là quá trình chuyển đổi số quốc gia đang diễn ra mạnh mẽ
từng ngày, hứa hẹn sẽ thay đổi bộ mặt quốc gia và giúp chúng ta đạt mục tiêu trở
thành nước phát triển thu nhập cao vào năm 2045. Tuy vậy, các rủi ro trong cuộc
CMCN 4.0 này là khơng hề nhỏ, đặc biệt khi đó là cuộc cách mạng của thông
tin, của công nghệ và các nền tảng thông tin mới. Nếu mỗi con người trẻ không
được rèn luyện bản lĩnh chính trị một cách vững vàng, việc bị tác động bởi các
thông tin xấu độc là điều cần được quan tâm một cách sâu sắc. “Dân ta phải biết
sử ta – Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, câu nói này của Bác Hồ sống
mãi với thời gian, nhắc nhở chúng ta về các bài học lịch sử, để chúng ta luôn
cảnh giác với các thế lực thù địch, ngay cả khi trong thời bình như bây giờ.
Ngoài việc rèn luyện để giữ vững bản lĩnh chính trị là người Cộng sản.
Thế hệ trẻ cần phấn đấu trở thành những người làm chủ khoa học công nghệ.
Lúc này, sự vận dụng các đặc điểm trong triết học Mác – Lênin về thế giới quan
duy vật biện chứng, thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học, thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, kèm theo đó là tính sáng tạo là vơ cùng quan trọng. Với vị
18
trí là một người con của Việt Nam trong thời kỳ hịa bình và xây dựng đất nước.
Nhận thức về tầm quan trọng của việc áp dụng triết học Mác – Lênin vào hành
động cụ thể của bản thân đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển
và bảo vệ tổ quốc. Do đó, bản thân khơng chỉ rèn luyện về trình độ chun mơn
tốt mà cần phải rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng.
19
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Nói tóm lại, nhờ khái quát được những thành tựu của khoa học tự nhiên
hiện đại, gắn với thực tiễn xã hội và kế thừa, phát triển được những thành tựu
của tư duy lý luận trong lịch sử, triết học Mác — Lênin có nhiều đặc điểm nổi
bật. Đặc điểm thức nhất là sự thống nhất giữa tính đảng và tính khách quan khoa
học của chủ nghĩa Mác Lênin. Đặc điểm này bảo vệ lập trường của chủ nghĩa
duy vật biện chứng, đấu tranh kiên quyết chống lại chủ nghĩa duy tâm, siêu hình,
bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, bảo vệ và mang lại lợi ích cho giai cấp vô sản và
quần chúng nhân dân lao động. Thứ hai, chủ nghĩa Mác Lênin có sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn. Được phát triển thông qua quá trình tổng kết kinh
nghiệm thực, triết học Mác Lênin lại trở lại chỉ đạo, hướng dẫn cuộc đấu tranh
của giai cấp vô sản mà bổ sung và phát triển, mà làm trịn sứ mệnh của mình.
Thứ ba, triết học Mác Lênin có tính sáng tạo, những ngun lý, quy luật phổ biến
khi vận dụng vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể phải đúng đắn, sáng tạo.
Như vậy, nhờ những đặc điểm nêu trên, ta có thể khẳng định rằng triết học
Mác Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận trong nhận thức và cải tạo
thế giới của giai cấp vô sản là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn của các Đảng
cộng sản. Nó cung cấp hệ thống tri thức khoa học về thế giới, trang bị phương
pháp luận khoa học, là cơ sở để hình thành niềm tin khoa học và những phẩm
chất cao quý của người cách mạng. Ngoài ra, triết học Mác Lênin đóng vai trị to
lớn trong con đường nghiên cứu khoa học. Nó trang bị cho các ngành khoa học
khác thế giới quan và phương pháp luận khoa học đi sâu khám phá bản chất và
quy luật của sự vật, hiện tượng, đóng vai trị dẫn đường cho nghiên cứu khoa học
20
và là cơ sở khoa học chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm, hệ tư tưởng tư
sản xuyên tạc những phát minh khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trường chính trị Cao Bằng, 2019, Quán triệt nguyên tắc về sự thống nhất
giữa tính Đảng và tính khoa học trong giảng dạy môn lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam.
[2] Lý luận chính trị và truyền thơng, 2021, Vận dụng ngun tắc thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn để giảng dạy các mơn lý luận chính trị trong các trường
đại học - Một số vấn đề cần nhận thức.
[3] Bộ giáo dục và đào tạo, 2019, Giáo trình Triết học Mác – Lênin, nhà xuất bản
chính trị quốc gia.
[4] Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, 2020, Lý luận chính trị dành cho học viên
lớp Đối tượng kết nạp Đảng, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
[5] Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, 2020, Lý luận chính trị dành cho Đảng
viên mới, nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật.
21