Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

PHÂN TÍCH đặc điểm cơ bản của TRIẾT học PHƯƠNG tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.91 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHƯƠNG
TÂY
VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP
Mở đầu..........................................................................................................................1
Nội dung........................................................................................................................3
1.

Khái niệm “Triết học phương Tây”....................................................................................3

2.

Các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây và dẫn chứng...........................................3
2.1.
2.2.
2.3.
2.4.
2.5.
2.6.
2.7.

3.

Gắn liền với những thành tựu khoa học tự nhiên....................................................................4
Thế giới quan tổng thể............................................................................................................. 6
Có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu, trường phái..........................................7
Quan tâm đến vấn đề con người............................................................................................. 8
Nghiêng về tính động, đấu tranh; vận động đi lên theo hình xốy ốc....................................10
Mang tính “chủ biệt”.............................................................................................................. 13
Có hệ thống thuật ngữ, khái niệm phạm trù..........................................................................14


Ý nghĩa của phương pháp luận........................................................................................15

Kết luận........................................................................................................................21
Tài liệu tham khảo........................................................................................................22


Mở đầu
Ra đời vào khoảng thế kỉ VIII đến thế kỉ thứ VI TCN, triết
học luôn được xem là đỉnh cao của trí tuệ, là sự nhận thức sâu
sắc về thế giới, nắm bắt được chân lí, hiểu được bản chất của
sự vật, hiện trượng. Triết học phương Đông và Triết học
phương Tây được xem là hai nhánh triết học lớn của thế giới.
Trong đó triết học phương Tây là nhánh triết học phát triển rực
rỡ và có nhiều đóng góp lớn trong sự phát triển rực rỡ của
triết học thế giới.
Triết học phương Tây ra đời vào khoảng thế kỉ VII – VI
TCN khi chế độ nô lệ đã được xác lập và phát triển. Khi đó,
triết học được coi là hệ thống những quan điểm, quan niệm
của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế
giới. Trải qua hơn hai nghìn sáu trăm năm hình thành và phát
triển, triết học phương Tây gồm năm điểm sáng chính: triết
học Hy Lạp cổ đại, triết học Tây Âu thời trung cổ, triết học thời
kỳ Phục Hưng, triết học Tây Âu cận đại và triết học cổ điển
Đức. Ra đời sớm nhất tại một trong những cái nôi của nền văn
minh cổ đại, triết học Hy Lạp cổ đại là sự khởi đầu cho sự ra
đời và phát triển của triết học phương Tây sau này. Được sinh
ra để làm ngọn cờ lý luận của giai cấp chủ nô khi chế độ
chiếm hữu nô lệ đã được xác lập và phát triển, nên ngay từ
đầu triết học Hy Lạp cổ đã mang tính giai cấp sâu sắc. Thế
giới quan bao trùm triết học giai đoạn này là duy vật và vô

thần. Chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và thành tựu
1


của khoa học tự nhiên là đặc điểm nổi bật của lịch sử triết học
Hy Lạp cổ đại. Sau chế độ chiếm hữu nô lệ trong thời kỳ cổ
đại, xã hội Tây Âu thời kỳ trung cổ là thời kì thống trị của giai
chế độ phong kiến. Đi liền với sự thay đổi của xã hội, triết học
phương Tây bước sang giai đoạn mới - triết học Tây Âu thời kì
trung cổ. Thê giới quan bao trùm triết học phương Tây thời
trung cổ là duy tâm và tôn giáo; trong đó chủ nghĩa kinh viện
trung cổ Tây Âu chỉ bàn đến những vấn đề viển vông, tách rời
cuộc sống hiện thực. Vào thế kỉ XV – XVI, thời kì mà các quan
hệ tư bản chủ nghĩa nảy sinh và khai hình thành, triết học thời
kì Phục hưng là giai đoạn phục hồi của chủ nghĩa duy vật gắn
liền với sự phát triển của thời kì tự nhiên đương thời, có giá trị
đấu tranh chống tôn giáo, nhà thờ và chủ nghĩa duy tâm. Lý
luận của các nhà triết học thời kì này có nhiều yếu tố biện
chứng và duy vật. Họ khẳng định tính tương đối của nhận
thức, chỉ ra vai trò quan trọng của kinh nghiệm, khẳng định
cảm giác, trực giác là nguồn gốc đầu tiên của nhận thức. Bước
qua thời kỳ cận đại, triết học Tây Âu là thế giới quan và ngọn
cờ lí luận của giai cấp tư sản đang lên với chủ trương phát
triển chủ nghĩa tư bản, chống lại trật tự phong kiến và giáo
hội. Triết học duy vật thời kì này gắn liền với con người và nhu
cầu giái phóng con người. Từ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX,
triết học cổ điển Đức ra đời khi Đức vẫn là nước phong kiến
lạc hậu bị quan hệ phong kiến chèn ép và giai cấp tư sản Đức
không đủ mạnh, không thống nhất, thậm chí hèn nhát bộc
phải thỏa hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. Triết học cổ

điển Đức là đỉnh cao của sự phát triển trong lịch sử triết học
2


trước Mác với tư tưởng biện chứng đạt tới trình độ một hệ
thống lí luận.

3


Nội dung
1.

Khái niệm “Triết học phương Tây”

Triết học phương Tây có thể hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa
rộng, triết học phương Tây là hệ thống quan điểm, quan niệm
của người phương Tây thể hiện qua các trào lưu, tư tưởng triết
học phương Tây ngày nay. Theo nghĩa hẹp, triết học phương
Tây được xem như các trào lưu, quan điểm triết học đương đại
và thường được hiểu là triết học ngoài mácxít. Theo đó, khái
niệm “triết học phương Tây” mang sắc thái chính trị và tính
giai cấp rõ nét. Ở một khía cạnh nào đó, có được hiểu theo
nghĩa đối lập với triết học mác xít với cái tiên gọi “triết học tư
sản hiện đại” hay “triết học phi mác xít hiện đại”. Các thuật
ngữ đó thường được xem là đồng nghĩa với nhau dù mỗi cách
biểu hiện ngơn ngữ có những ý nghĩa riêng của nó và thậm
chí trở thành đề tài tranh luận chưa có hồi kết.

2.


Các đặc điểm cơ bản của triết học phương

Tây và dẫn chứng
Triết học phương Tây có cội nguồn từ triết học Hy Lạp cổ
đại. Đó là thời kỳ mà Hy Lạp là một quốc gia có vùng lãnh thổ
rộng lớn với rất nhiều thành tựu về khoa học tự nhiên, văn
học, nghệ thuật,… Bên cạnh đó, chế độ chiếm hữu nơ lệ cũng
được thiết lập và phát triển mạnh trong thời kỳ này. Từ hồn
cảnh đó, phương pháp luận của triết học phương Tây được
hình thành nên một cách rất sâu sắc sắc và triệt để bởi mục
4


tiêu chính của nó là phải giải quyết được mâu thuẫn giữa giai
cấp thống trị và giai cấp bị thống dựa trên cơ sở phải xóa bỏ
được giai cấp thống trị đương thời. Do đó, triết học phương
Tây có khá nhiều điểm khác biệt so với triết học phương Đông
và có thể được coi là nguồn cảm hứng để làm phong phú và
sâu sắc hơn tư tưởng triết học phương Đơng. Triết học phương
Tây có những chức năng cơ bản giải là quyết những mâu
thuẫn gay gắt trong lĩnh vực tự nhiên và xã hội cũng như là
chỉ ra những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và của
tư duy con người. Những điều này được thể hiện cụ thể ở qua
những đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây.

2.1.

Gắn liền với những thành tựu khoa học tự


nhiên
Đối tượng của triết học phương Tây rất rộng, nó bao gồm
toàn bộ mọi lĩnh vực như tự nhiên, xã hội, tư duy, chủ yếu lấy
tự nhiên làm gốc, làm cơ sở. Triết học và khoa học tự nhiên
xuất hiện, tồn tại, vận động và phát triển trên cở sở những
điều kiện kinh tế - xã hội và chịu sự chi phối của những quy
luật nhất định. Đồng thời, giữa chúng có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển. Triết học có vai trị rất lớn đối với sự phát triển của
khoa học cụ thể. Và ngược lại, với mỗi giai đoạn phát triển của
khoa học, nhất là khoa học tự nhiên thì triết học cũng có một
bước phát triển.

5


Triết học phương Tây có khởi nguồn từ triết học Hy Lạp –
La Mã cổ đại. Nền khoa học tự nhiên mới hình thành ở thời kỳ
cổ đại thì cịn sơ khai và nằm trong chính triết học, triết học
tự nhiên. Khoa học tự nhiên phụ thuộc vào triết học. Bên cạnh
đó, khoa học tự nhiên tác động đến sự phát triển của các
quan niệm triết học khi mà những kiến thức của khoa học tự
nhiên cịn rời rạc, ít ỏi và chưa có tính hệ thống đã hình thành
một quan niệm thô sơ về thế giới – quan niệm duy vật tự
phát, về sau đã bị quan niệm siêu hình thế chỗ. Có nhiều nhà
khoa học nổi tiếng như Talét, Pitago, Ơclít, Ácsimét, Arixtác,…
với những thành tựu về các mặt toán học, thiên văn học, vật
lý học, y học,…. Ví dụ như: tỉ lệ thức của Talét, định lý Pitago
của Pitago, sách tốn học sơ đẳng của Ơclít, phát hiện
nguyên lý đòn bẩy của Ácsimét,…

Sự phát triển của triết học kinh viện vào thời trung đại đã
nâng cao sức mạnh của niềm tin tơn giáo, đánh gục lý trí –
vốn được đề cao vào thời cổ đại trước đó. Điều này đã làm thủ
tiêu khoa học, trước hết là khoa học tự nhiên, mở đường cho
thần học phát triển. Qua đó, ta thấy rõ ảnh hưỡng của quan
niệm triết học lên sự phát triển của khoa học.
Vào thời phục hưng, quan niệm coi triết học là “người mẹ”
của các khoa học xuất hiện thời cổ đại, bị lãng quên thời
trung cổ, bây giờ được khơi phục. Sau đó, quan niệm này phát
triển thành quan niệm coi triết học là “khoa học của các khoa
học” trong thời cận đại. Thời nay, triết học phát triển nhanh
kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, một
6


lẫn nữa lý trí triết học và hiểu biết khoa học vượt lên trên lý lẽ
thần học và niềm tin tôn giáo(phù hợp với nguyên tắc phủ
định biện chứng trong triết học Mac-Lenin: Lý trí – niềm tin – lý
trí).
Thời hiện đại, đặc biệt là khoa học tự nhiên đầu thế kỷ XIX
đã có bước phát triển mới, chuyển từ giai đoạn thực nghiệm
sang giai đoạn khái quát lý luận. Quan điểm siêu hình đã
khơng cịn thích hợp với sự phát triển của khoa học tự nhiên,
cản trở sự phát triển của khoc học tự nhiên.
Để khoa học tự nhiên thốt khỏi phương pháp tư duy siêu
hình, tất yếu phải thay đổi quan niệm về thế giới, cần phải
khái quát những thành tựu mới của nó để xây dựng quan
điểm biện chứng duy vật trong nhận thức về tự nhiên, tức
chuyển từ quan niệm siêu hình sang quan niệm biện chứng.
Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của khoa học tự nhiên

đến việc thay đổi những quan niệm triết học. Đây chính là cơ
sở cho chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời. Sự ra đời và phát
triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các
thành tựu của khoa học hiện đại, vừa là sự khái quát lại những
thành tựu của khoa học hiện đại, vừa đóng vai trị to lớn đối
với sự phát triển của khoa học hiện đại.
2.2.

Thế giới quan tổng thể

Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người
về thế giới, bản thân, con người và vị trí của con người trong
thế giới đó. Nó đóng vai trị định hướng đối với toàn bộ cuộc
7


sống của con người, từ thực tiễn cho đến hoạt động nhận thức
thế giới cũng như tự nhận thức bản thân, xác định lý tưởng,
hệ giá lối sống cũng như nếp sống của mình
Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống; là kết quả
trực tiếp của quá trình nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế
giới quan là kết quả của cả hoạt động thực tiễn với hoạt động
nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ
thể nhận thức.
Trong triết học phương tây, đối tượng nghiên cứu rất rộng
gồm toàn bộ tự nhiên, xã hội, tư duy mà nguồn gốc là tự
nhiên. Điều này ngả theo hướng lấy ngoại(ngồi con người) để
giải thích trong(con người), mang xu hướng tách chủ thể với
khách thể để nhận thức cho khách quan, mà xu hướng nổi trội
là duy vật.

Triết học phương Tây ngả về tư duy duy lý. Cái mạnh của
phương Tây là cho khoa học, kỹ thuật và về sau là công nghệ
phát triển,… và nhận thức luôn hướng đến nhận thức cái chân
lý vô hạn cùng. Triết học phương Tây đi gần mãi đến chân lý
qua hàng loạt những trừu tượng, khái niệm, quy luật,… của
toàn thể vũ trụ, liên tiếp đi từ cấp độ bản chất thấp đến mức
độ bản chất cao hơn, cũng do vậy có xu hướng cơ lập hóa,
cách ly hóa, làm mất đi tính tổng thể.
Phương tiện nhận thức cảu triết học phương Tây là khái
niệm, mệnh đề, biểu thức logic để đối tượng mô tả rõ ràng,
thống nhất hơn.
8


Triết học phương Tây theo đổi theo hướng nhảy vọt về
chất, nên càng tiến hóa càng phong phú hơn, xa rời gốc ban
đầu. Thậm chí có xu hướng cái sau phủ định hoàn toàn cái ở
giai đoạn trước.
Khái quát chung, triết học phương Tây thiên về hướng
ngoại, chủ động, tư duy lý luận, đấu trang sống còn, hiếu
chiến, cạnh trang, bành trướng, cá thể, phân tích, tri thức suy
luận, khoa học, tư duy cơ giới, chú ý nhiều đến thực thể.
2.3. Có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các
trào lưu, trường phái
Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng, trào lưu ,
trường phái thiết hộc luôn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội và nhu cầu phát triển của thực tiễn xã hội. Đồng thời
các tư tưởng triết học luôn phụ thuộc vào cuộc đấu tranh giữa
hai khuynh hướng triết học cơ bản - chủ nghĩa duy vật và chũ
nghĩa duy tâm. Do đó có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa
các trào lưu, trường phái trải qua theo từng giai đoạn triết học

phương Tây. Các trào lưu, trường phái chính triết học phương
Tây bao gồm:
-

Triết học Duy tâm (Idealism): Tinh thần, ý thức, nhận

thức là trung tâm. Mọi sự vật hiện tượng đều được phản ảnh
bởi tâm trí. Các Triết gia tiêu biểu: Socrates, Plato, Augustine,
Descartes, Kant, Hegel, Royce...
- Triết học Khắc kỷ (Stoicism): Tập trung vào rèn luyện bản
thân: Đức hạnh, bao dung, và tự chủ. Các Triết gia tiêu biểu:
Zeno, Marcus Aurelius, Seneca, Epictetus...
9


-

Triết học Hiện thực (Realism): Sự vật hiện tượng bên

ngoài là tồn tại độc lập khách quan với ý thức, tâm trí. Các
Triết gia tiêu biểu: Aristotle, Aquinas, Bacon, Hobbes, Locke,
Hume, Berkeley, Whitehead, Russell...
- Triết học Thực dụng (Pragmatism): Lý thuyết triết học
phải gắn liền với thực tế và áp dụng được vào thực tế. Những
vấn đề suy tưởng, siêu hình và phi thực tế nên bỏ qua khơng
xét đến. Các Triết gia tiêu biểu: Rousseau, Darwin, Dewey...
- Triết học Tái thiết (Reconstructionism): Tập trung nghiên
cứu các lý thuyết ứng dụng vào mơ hình xã hội, mơ hình giáo
dục, chính trị...nhằm thay đổi, tái thiết, tạo sự tiến bộ và đi
lên của xã hội loài người. Các Triết gia tiêu biểu: Freire,

Counts, Illich, Brameld...
- Triết học tâm lý:
o Nội tại (Depth psychology): Tập trung nghiên cứu
sâu vào nhận thức, tiềm thức, tâm lý bên trong mỗi người.
Tức từ bên trong xuất phát ra biểu hiện, hành vi bên ngoài.
Các nhà tâm lý học, triết gia tiêu biểu: Sigmund Freud, Carl
Jung...
o Hành vi (Behaviorism): Tập trung vào các lý thuyết
về tâm lý học hành vi, phản xạ của con người và các loài động
vật trước các tác động bên ngoài. Các Triết gia tiêu biểu:
Pavlov, Watson, Skinner...
- Triết học hiện sinh (Existentialism): Tối ưu khả năng, giá
trị tiềm ẩn của mỗi người thông qua sự tự do phát triển bản
thân và môi trường để con người phát triển tốt nhất. Các Triết
gia tiêu biểu: Kierkegaard, Buber, Nietzsche, Sartre, Maxine
Greene...
10


2.4. Quan tâm đến vấn đề con người
Con người luôn là vấn đề triết học quan tâm đến, trong
đó, trong triết học phương Tây có nhiều quan niệm khác nhau
về con người với các trường phái khác nhau:
-

Trường phái triết học tôn giáo phương Tây: Theo Ki-tô

giáo, cuộc sống con người do đấng tối cao an bài, sắp đặt.
Bản chất con người là kẻ có tội. Con người gồm hai phần là
thể xác và linh hồn, trong đó, linh hồn là thứ có giá trị cao

nhất trong con người và tồn tại vĩnh cửu. Ki-tô giáo khuyên
con người cần nuôi dưỡng linh hồn để hướng đến nơi Thiên
đường. Triết học tơn giáo phương Tây cịn nhận thức vấn đề
con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm thần bí.
Triết học Hy Lạp cổ đại: Khác với Ki-tô giáo, triết học Hy
Lạp cổ đại cho rằng con người là điểm khởi nguồn của tư duy
triết học. Con người và thế giới xung quanh là tấm gương
phản chiếu lẫn nhau. Chẳng hạn như Aristotle có quan niệm
rằng chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ
thuật là làm cho con người nổi bật lên, con người là thang bậc
cao nhất của vũ trụ. Như vậy, triết học Hy Lạp cổ đại bước
đầu đã có sự phân biệt con người với tự nhiên. Tuy nhiên, sự
hiểu biết về con người mới chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài.
- Triết học Tây Âu trung cổ: Triết học Tây Âu trung cổ xem
con người là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo. Thượng đế
chi phối, sắp xếp đối với số phận của con người, kể cả niềm
vui, nỗi buồn, sự may rủi. Theo đó, ý chí của Thượng đế là tối
thượng, trí tuệ con người thấp hơn lý chí anh minh của
Thượng đế.
11


-

Triết học thời kỳ phục hưng – cận đại: Triết học thời kỳ

này đặc biệt đề cao vai trị trí tuệ, lý tính của con người, xem
con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: Trong Triết học cổ điển Đức, những
nhà triết học nổi tiếng như Can tơ, Hegel đã phát triển quan

niệm con người theo khuynh hướng chủ nghĩa duy tâm. Hegel
cho rằng con người là hiện thân của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm
tuyệt đối hình thành trong quá trình tự ý thức của tư tưởng
con người, quá trình này đưa con người trở về với giá trị tinh
thân, giá trị bản thể và cao nhất trong đời sống con người.
Bên cạnh đó, Hegel cịn trình bày một cách hệ thống các quy
luật của quá trình tư duy của con người, làm rõ cơ chế đời
sống tinh thần cá nhân trong mọi hoạt động của con người. Từ
đó, khẳng định vai trị chủ thể của con người đối với lịch sử.
Ngược lại, Phoiơbắc lại phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi
vật chất, phi thể xác về bản chất con người trong triết học
Hegel, đồng thời khẳng định con người do sự vận động của
thế giới vật chất tạo nên. Phoiơbắc đề cao vai trị và trí tuệ
của con người với tính cách là những cá thể người. Từ đó
nhằm giải phóng cá nhân con người. Tuy nhiên, quan điểm
này cũng bộc lộ hạn chế, đó là khơng phản ánh được bản chất
xã hội trong đời sống con người, tách co người khỏi những
điều kiện lịch sử cụ thể.
Qua các quan niệm về con người trong triết học phương
Tây, mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng
nhìn chung các quan niệm đều xem xét con người một cách
trừu tượng, tuyệt đối hóa mặt tinh thần hoặc thể xác con
12


người, tuyệt đối hóa mặt tự nhiên – sinh học mà chưa phản
ánh được bản chất xã hội của con người.
2.5. Nghiêng về tính động, đấu tranh; vận động đi
lên theo hình xốy ốc
Khác với triết học phương Đơng, triết học phương Tây có

tính vận động và đấu tranh rất mạnh. Tính vận động được thể
hiện rõ ràng nhất ở việc triết học phương Tây đã trải qua rất
nhiều thời kỳ khác nhau từ triết học Hy Lạp cổ đại cho đến
triết học phương Tây hiện đại của ngày nay. Sự vận động
trong triết học phương Tây ở mỗi thời kỳ thường đi kèm theo
với sự đấu tranh cả ở lĩnh vực tự nhiên và xã hội bới lẽ chức
năng cơ bản của triết học phương Tây là để giải quyết những
mâu thuẫn gay gắt trong các lĩnh vực tự nhiên và xã hội. Việc
kết hợp cả tính động và đấu tranh khiến cho sự vận động của
triết học phương Tây đi lên theo hình xoắn ốc. Như trong triết
học Mác - Lênin, sự vận động này được gọi là “quy luật phủ
định của phụ định”. Quy luật này chỉ ra khuynh hướng của sự
phát triển, theo đó, sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu
hướng, khuynh hướng lăp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ
cao hơn. Điển hình là việc mỗi thời kỳ sẽ có một hệ thống
quan điểm, lý luận phù hợp với các mối quan hệ giai cấp lúc
bây giờ sao cho phục vụ tốt nhất cho quyền lợi của giai cấp
thống trị ở thời điểm đó. Sự đấu tranh khơng chỉ thể hiện ở
mâu thuẫn của giai cấp mà còn thể hiện rõ ràng giữa 2 trường
phái triết học duy vật và triết học duy tâm. Bên cạnh đó, bộ
máy chính trị, xã hội cũng như các hệ thống thống quan điểm,
13


lý luận ở các thời kỳ sau đều sẽ được cải thiện hơn so với thời
kỳ trước đó. Mỗi khi sự mâu thuẫn cơ bản về giai cấp được giải
quyết hoặc được chuyển sang một dạng mới thì một thời kỳ
triết học mới cũng được hình thành với một hệ thống tư
tưởng, quan điểm và lý luận sâu sắc hơn:
-


Thời kỳ triết học Hy Lạp cổ đại: chế độ chiếm hữu nơ lệ

phát triển khá mạnh nên đã hình thành nên sự đấu tranh giai
cấp mãnh liệt giữa giai cấp chủ nơ và giai cấp nơ lệ. Bên cạnh
đó, sự đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy
tâm xung quanh vấn đề bản nguyên thế giới cũng hình thành
ở thời kỳ này. Bộ máy chính trị, xã hội ở thời kỳ này khá thô sơ
khi mà dân cư chỉ được chia thành các thành bang để quản lý.
Ở thời kỳ này, các phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời
và phát triển trong triết học Hy lạp cổ đại cùng với chủ nghĩa
duy vật mộc mạc, chất phác. Ví dụ, Hêraclit khẳng định trong
thế giới, khơng có sự vật, hiện tượng đứng im tuyệt đối; tất cả
đều trong trạng thái biến đổi và chuyển hoá thành cái khác và
ngược lại, trong đó lửa là nguyên nhân chính của sự vận động
đó. Vũ trụ thống nhất ở bản nguyên Lửa.
- Triết học Tây Âu thời trung cổ. Đây là thời kỳ thống trị
của chế độ phong kiến với sự mâu thuẫn và đấu tranh kịch liệt
của 2 giai cấp cơ bản là địa chủ - lãnh chúa và nơng dân chứ
khơng cịn đơn giản chỉ là chủ nơ và nơ lệ nữa. Bộ máy chính
trị , xã hội cũng phức tạp hơn khi đã hình thành các vương
quốc nhỏ sở hữu nhiều điền trang, thái ấp. Trong thời kỳ này,
kỹ thuật, thủ công nghiệp và dân cư tăng nhanh, cùng với đó
là nhiều thành phố đã ra đời và nhà thờ Kitô giáo cũng phát
14


triển mạnh. Điều này làm ảnh hưởng khá lớn đến đời sống
tinh thần của xã hội và triết học phong kiến Tây Âu thời kỳ
trung cổ đã ra đời, tồn tại và phản ảnh thực tiễn kinh tế- xã

hội Tây Âu thời đó.Việc uy quyền của giáo hội tăng cao đã cản
trở khoa học kỹ thuật phát triển và triết học bị phụ thuộc vào
thần học.
- Triết học thời kỳ phục hưng: Ở thời kỳ này, uy quyền của
giáo hội khơng cịn lớn như trước do đó, các yếu tố duy tâm
và tơn giáo khơng cịn bao trùm thế giới quan của triết học
như trước mà thay vào đó là chủ nghĩa duy vật thời cổ đại.
Cùng với đó, các quan hệ tư bản chủ nghĩa nảy sinh và phát
triển trong lịng của xã hội phong kiến giúp hình thành nên
các giai cấp tư sản mới. Tuy nhiên, triết học thời kỳ này cịn có
điểm hạn chế là cịn có nhưng xyếu tô duy tâm, thảo hiệp với
tôn giáo.
- Triết học Tây Âu thời cận đại: Ở thời kỳ này, các dân tộc
tư sản hình thành, giai cấp tư sản bước lên đài vũ trang chính
trị để chống lại chế độ phong kiến. Khác với triết học thời kỳ
phục hưng, triết học duy vật thười kỳ này gắn bó chặt chẽ với
khoa học, nhất là khoa học tự nhiên nhằm chống lại thế giới
quan duy tâm và tôn giáo; đặc biệt là chống lại triết học kinh
viện thời trung cổ.
- Triết học cổ điển Đức: Đây là thời kỳ mà Anh và Pháp đã
là những nước tư bản còn Đức vẫn là nước phong kiến lạc hậu.
Chính điều này đã thức tỉnh tinh thần phản kháng cách mạng
của giai cấp tư sản Đức. Triết học thười kỳ này tập tủng khá
nhiều vào tính chất duy tâm nhưng lại là nhưng tư tưởng biện
chứng đạt tới trình độ một hệ thống lí luận với hệ thống khái
15


niệm, phạm trù, quy luật,… Đây là điều mà phép biện chứng
thời cổ đại Hy Lạp chưa thể đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế

kỷ XVII – XVIII ở Tây Âu cũng khơng có khả năng tạo ra.
Như vậy, có thể thấy rằng, ở mỗi thời kỳ, thường đều sẽ tồn
tại sự mẫu thuẫn của giai cấp và từ đó hình thành nên sự đấu
tranh mạnh mẽ trong tư tưởng của con người dẫn đến hệ
thống tư tưởng, quan điểm, lý luận cũng sẽ phải phản ánh
được sự mâu thuẫn và đấu tranh đó. Cũng chính sự đấu tranh
đó đã thúc đẩy xã hội phải phát triển lên một thời kỳ mới và
từ đó cũng giúp cho hệ thống tư tưởng, quan điểm và lý luận
của triết học được hoàn thiện và sâu sắc hơn sao cho phải
phản ảnh đúng với cuộc sống của xã hội đương thời.

2.6.

Mang tính “chủ biệt”

Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn
tại của xã hội và đặc biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông
khác hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự nhiên, địa lý dân
số mà hơn cả là phương thức của sản xuất của phương Đông
là phương thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức
sản xuất của tư bản do vậy mà cái phản ánh ý thức cũng
khác: phương Đơng mang nặng tính chất cộng đồng cịn
phương Tây mang tính cá thể hay cịn gọi “chủ biệt”. Triết học
phương Tây nói chung và Triết học từ cổ đại đến cận đại là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối
tượng của triết học phương Tây nói chung ngồi phần siêu
16


hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản thể, ý thức,

hư vơ... cịn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có
liên quan tới con người như cảm giác, nhận thức, đạo đức...
Thời kỳ Hy Lạp, các vấn đề về con người như tri thức của con
người, vai trò của con người trong quá trình nhận thức...Hay
những vấn đề về xã hội hay cá nhân như quan hệ giữa cá
nhân và nhà nước... là trọng tâm trong quan điểm triết gia
phương Tây. Đạo đức phải gắn liền với hành vi của con người,
tiêu chuẩn đánh giá một cá nhân có đao đức hay khơng phải ở
lời nói và hành động. Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết
học Phương Tây cổ đại tới cận đại sụp đổ của đế quốc La Mã
phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quả chấm
dứt hình thái kinh tế - xã hội nơ lệ cổ đại, và chế độ phong
kiến Tây Âu ra đời. Đây là thời kỳ hình thành và phát triển
PTSX phong kiến phương Tây. Nền kinh tế trong xã hội phong
kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc bởi vì sản phẩm
làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và
thái ấp. Các thái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu
ruộng đất và tư liệu sản xuất cũng như sản phẩm làm ra
không hồn tồn thuộc về người lao động (nơng dân hay nông
nô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Tư tưởng con
người, Xã hội trong triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại
thần quyền, có khà năng chi phối cả quyền lực chính tri. Bởi
vậy trong suốt nhiều thế kỷ qua, triết học và khoa học đã trở
thành nơ tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai người
ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác,
loại bỏ các tư tưởng dị giáo, đa thần và các quan niêm vô
17


thần tiến bộ. Xét về bản chất kinh tê, thời kỳ phục hưng là giai

đoạn quá độ PTSX TBCN. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu
tiên được mở rộng. Triết học phương tây ít quan tâm đến mặt
xã hội của con người, đề cao cái tự nhiên - mặt sinh vật trong
con người, chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức,
không chú ý đến nguyên nhân kinh tế xã hội, cái gốc để giải
phóng con người. Triết học Phương Tây thiên về trí tuệ phù
hợp với sự phát triển của Chủ nghĩa tư bản, dựa trên nguyên
tắc của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vị lợi.
2.7. Có hệ thống thuật ngữ, khái niệm phạm trù
Hệ thống thuật ngữ của triết học phương Tây được chia
thành 3 mảng:


Về bản thể luận: Phương Tây sử dụng các thuật ngữ “giới

tự nhiên”, “bản thể”, “vật chất”. Vật chất và Ý thức không
phải là các bản thể . Vật chất là một phạm trù nền tảng cuả
chủ nghĩa duy vật triết học. Bản thân quan niệm chủ nghĩa
duy vật về phạm trù vật chất cũng trải qua lịch sử phát triển
lâu dài, gắn liền với những tiến bộ của khoa học và thực tiễn.
Cịn ở phương Đơng lại dùng thuật ngữ “thái cực” đạo sắc,
hình, vạn pháp,… hay ngũ hành: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ…
Để nói về bản chất của vũ trụ đặc biệt là khi bàn về mối quan
hệ giữa con người và vũ trụ thì phương Tây dùng phạm trù
khách thể – chủ thể; con người với tự nhiên, vật chất với ý
thức, tồn tại và tư duy. Cịn phương Đơng lại dùng Tâm – vật,
năng – sở, lí – khí, hình – thần. Trong đó hình thần là những
phạm trù xuất hiện sớm và dùng nhiều nhất.
18





Nói về tính chất, sự biến đổi của thế giới là các thuật

ngữ “biện chứng”, “siêu hình”, “thuộc tính”. “Biện chứng”
khơng chỉ nhìn thấy những sự vật cụ thể mà cịn thấy mối
quan hệ qua lại giữa chúng; khơng chỉ thấy sự tồn tại của sự
vật mà còn thấy cả sự sinh thành, sự diệt vong của chúng;
không chỉ thấy trạng thái tĩnh mà còn thấy cả trạng thái động
của sự vật. “Siêu hình” thì, sự vật hoặc tồn tại, hoặc không
tồn tại; hoặc là thế này, hoặc là thế khác. Đối với phương
Đông dùng thuật ngữ động – tĩnh, biến dịch, vơ thường,
thường cịn, vơ ngã và lấy cái thống nhất, lấy cái tĩnh làm gốc
là vì phương Đơng triết học được xây dựng trên quan điểm vũ
trụ là một, phải mang tính nhịp điệu.
 Khi diễn đạt về mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng
trên thế giới thì phương Tây dùng thuật ngữ “liên hệ”, “quan
hệ” “quy luật”. Cịn phương Đơng dùng thuật ngữ “đạo” “lý”
“mệnh” “thần”, cũng xuất phát từ thế giới quan thiên nhân
hợp nhất nên tất cả phải mang tính nhịp điệu, tính quy luật,
tính soắn ốc của vũ trụ như thái cực đến lưỡng nghi… Có nhịp
điệu là hài hồ âm dương, còn vũ trụ là tập hợp khổng lồ các
xoắn ốc…

3.

Ý nghĩa của phương pháp luận
3.1. Triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại là ngọn cờ lý luận của giai cấp chủ


nô, ngay từ đầu đã mang tính giai cấp sâu sắc. Về thực chất,
đó là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị, là
cơng cụ lý luận để duy trì và bảo vệ trật tự xã hội đương thời,
19


phục vụ cho giai cấp chủ nô. Cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ
nô và nô lệ không chỉ tác động đến đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của triết học
và quá trình phấn đấu giữa hai đường lối duy vật và duy tâm.
Nhờ chế độ chiếm hữu nô lệ mà giai câp chủ nơ Hy Lạp có
được đặc quyền đặc lợi và điều kiện để nghiên cứu, sáng tạo,
cống hiến cho triết học.
Triết học thời kỳ này gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy
giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nó thuộc loại
hình triết học tự nhiên, nhà triết học đồng thời là nhà khoa
học tự nhiên. Muốn hiểu biết sâu sắc nền triết học này cần
phải có tri thức khoa học tự nhiên vững chắc. Thế giới quan
bao trùm triết học Hy Lạp cổ đại là duy vật và vơ thần, nó là
vũ khí lý luận cần cho giai cấp chủ nơ chống lại những thế lực
chống đối, những điều mê tín, dị đoan.
Triết học Hy Lạp cổ đại là sự kết tinh những gì tinh tuý
nhất của nhận thức nhân loại từ PTSX thứ nhất đến PTSX thứ
hai ở phương Tây. Vì vậy, ở đó đã dung chứa hầu hết các vấn
đề cơ bản của thế giới quan và là một hệ thống tập hợp các tri
thức về tự nhiên, về con người, mặc dù chưa thốt khỏi trạng
thái phơi thai mộc mạc nhưng cũng vơ cùng phong phú, mn
hình mn vẻ… Ph. Ăngghen nhận xét như sau: “... từ các
hình thức mn vẻ của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và

đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”.
Con người chính là vấn đề được quan tâm nhất của triết học
thời kỳ này - khẳng định con người là vốn quý, là trung tâm
20


hoạt động của thế giới. Mặc dù vậy, con người ở đây cũng chỉ
là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo
đức, giao tiếp và nhận thức. Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính
chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai, cố gắng giải thích
các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên
vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư
tưởng biện chứng của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành
hình thức đầu tiên của phép biện chứng.
3.2. Triết học Tây Âu thời trung cổ (V – XV)
Sự hình thành vơ số những điền trang thái ấp phong kiến
Tây Âu đã tạo ra một chế độ phong kiến cát cứ phân quyền.
Trong điều kiện đó, tơn giáo nhất thần đã có cơ hội phát triển
với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp
phong kiến thống trị. Thiên chúa giáo - một dịng tơn giáo giữ
truyền thống bảo thủ nhất của Cơ đốc giáo – đã trở thành một
tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sự thống trị
của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở
sự phát triển của khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ
thuộc vào thần học. Bản chất của CNDV gắn liền với khoa học,
thời kì này đã khơng có điều kiện để phát triển. Vì vậy, thế
giới quan bao trùm nền triết học thời kỳ này là duy tâm và tôn
giáo.
Triết học trung cổ là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự
biện minh của thần học. Trục trung tâm của tư tưởng triết học

Trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức. Cuộc đấu
tranh giữa CNDV và CNDT không diễn ra quyết liệt như thời cổ
21


đại mà ẩn mình trong xung đột giữa chủ nghĩa duy thực và chủ
nghĩa duy danh. Con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ
động, trĩu nặng trong tội tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp
làm người.
3.3. Triết học Tây Âu thời phục hưng và cận đại
(XV – XVIII)
Trong thời đại Phục Hưng, các nhà tư sản đã bênh vực
triết học duy vật, vận dụng nó làm vũ khí lý luận của giai cấp
tư sản trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp phong kiến và
giáo hội. Cuộc đấu tranh của chủ nghĩa duy vật chống chủ
nghĩa duy tâm thường được biểu diễn dưới hình thức đặc thù
là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với
những lập luận kinh viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của
giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện Trung Cổ đã
không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực
nghiệm và triết học duy vật. Đối với triết học duy tâm hữu
thần, phiếm thần và tự nhiên thần được coi là biểu hiện của
sự thỏa hiệp và cũng là tính hai mặt của các nhà triết học duy
vật Tây Âu thời kì Phục Hưng. Tơn giáo khơng cịn độc quyền
chi phối xã hội. Luận điểm con người là thước đo tất thảy mọi
vật được coi là phương châm tư tưởng của thời kỳ này và
trung tâm của các vấn đề triết học. Các giá trị văn hoá, nhất
là các giá trị nghệ thuật đặc biệt được đề cao. Như vậy,
phương pháp luận thời kì Phục Hưng như là một bước khởi
đầu, đánh dấu sự trở lại của chủ nghĩa duy vật dưới ảnh

hưởng của sự phát triển khoa học tự nhiên, giảm vị thế độc
22


tôn của tôn giáo, nâng tầm giá trị con người, tiền đề cho
những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học
trong các thế kỉ tiếp theo.
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển kế thừa,
tiếp tục các tư tưởng triết học thời kỳ Phục hưng trong giai
đoạn mới – giai đoạn cách mạng tư sản và sự phát triển mạnh
mẽ của khoa học tự nhiên. Đây là thời kỳ tiếp tục diễn ra cuộc
đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm và
tôn giáo, đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối
với chủ nghĩa duy tâm, của khoa học đối với tôn giáo. Chủ
nghĩa duy vật thời kỳ này là thế giới quan của giai cấp tư sản
cách mạng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc
đấu tranh chống phong kiến. Những quan điểm triết học về
lĩnh vực xã hội trong thời kì này có những tiến bộ đáng kể,
nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm
trong việc giải thích xã hội và lịch sử. Thời kỳ này diễn ra cuộc
đấu tranh giữa phái duy cảm với phái duy lý; giữa phương
pháp quy nạp với phương pháp diễn dịch; giữa chủ nghĩa kinh
nghiệm và chủ nghĩa duy lý. Trên thực tế, chủ nghĩa duy lý
cùng các phương pháp của nó chiếm ưu thế và được sử dụng
rộng rãi. Cuộc đấu tranh này đã đóng một vai trị quan trọng
trong việc tìm kiếm các phương pháp nhận thức khoa học,
góp phần thúc đẩy khoa học phát triển. Như vậy, phương
pháp luận thời kì này chủ yếu vẫn nghiêng về chủ nghĩa duy
vật và khoa học, là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong


23


cuộc đấu tranh với giai cấp phong kiến, góp phần lớn xúc tiến
sự phát triển của khoa học công nghệ.
3.4. Triết học cổ điển Đức (nửa cuối thế kỷ XVIII và
nửa đầu thế kỷ XIX)
Đánh giá một cách tổng quát, triết học cổ điển Đức đã
mở ra những tư tưởng lý luận mới mẻ, tiến bộ về con người và
lịch sử. Theo đó, con người trong thời kỳ này được nhìn nhận
như nền tảng của triết học, là đối tượng mà triết học hướng
đến. Bên cạnh đó, các nhà triết học cịn khẳng định con người
sở hữu sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động, bởi vậy con
người có thể làm chủ hoặc thay đổi vận mệnh của mình, xa
hơn nữa là cải tạo thế giới. Con người vừa là chủ thể, vừa là
kết quả của toàn bộ nền văn minh do mình tạo ra. Triết học cổ
điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã
tạo ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước
hết, nó đã từng bước khắc phục những hạn chế siêu hình của
triết học duy vật thế kỷ XVII, XVIII. Thành quả lớn nhất của nó
là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới trình độ một hệ thống
lý luận – điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt
tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII cũng khơng có khả
năng tạo ra. Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển
Đức là tính chất duy tâm khách quan của Hêghen, cịn về chủ
nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực chất khơng vượt
qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu.
Như vậy, triết học cổ điển Đức tuy có những hạn chế nhất
định nhưng thành quả cũng rất đáng kể. Những hạn chế và
24



×