Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

GIÁ TRỊ của LUẬT tục từ góc NHÌN PHÁP lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.46 KB, 8 trang )

VNH3.TB7.8528

GIÁ TR CỦA LUẬT TỤC TỪ GĨC NHÌN PHÁP LÝ
TS. Nguyễn Th Việt Hương
Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Khoa học xã hội Việt Nam

1. Từ phương diện khoa học pháp lý, giá trị của luật tục cần được xem xét trong mối
tương quan với vị trí, vai trị và giá trị của pháp luật.
Giá trị xã hội lớn nhất của pháp luật là chỗ: nó duy trì một trật tự xã hội mà trong
đó các giai cấp và các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, đấu tranh với nhau cùng tồn tại, tạo
tiền đề cần thiết cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, pháp luật mang tính giai cấp. Nó trước
hết là cơng cụ của giai cấp thống trị nhằm duy trì địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị, đàn áp mọi sự phản kháng của các giai cấp và các tầng lớp xã hội khác. Như
vậy, pháp luật là cơng cụ điều chỉnh và điều hịa các quan hệ xã hội trong xã hội có sự phân
chia giai cấp với những lợi ích khác biệt nhau.
Pháp luật của bất cứ xã hội nào cũng có vai trị điều chỉnh và điều hòa các quan hệ xã
hội. Những vai trị đó khơng phải là bất biến. Xã hội càng phát triển thì vai trị nói trên của
pháp luật càng lớn, mà vai trò xã hội của pháp luật càng lớn thì càng tạo ra các tiền đề, điều
kiện cho sự tiêu vong của chính nó: tính cưỡng chế giảm, phạm vi các quan hệ xã hội được
chuyển từ lĩnh vực điều chỉnh của pháp luật sang lĩnh vực điều chỉnh của các quy phạm xã
hội (tự quản) càng tăng.
Pháp luật của chúng ta là pháp luật của dân, do dân và vì dân. Do vậy, pháp luật được
thực hiện trước hết và chủ yếu là tự giác. Tuy nhiên, không phải bất cứ quy định nào của
pháp luật được ban hành cũng đều được thực hiện. B i lẽ, không phải mọi quy định của
pháp luật đều đảm bảo được tính chất của dân, do dân và vì dân. Để đảm bảo tính chất này,
pháp luật chẳng những phải phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của nhân dân, mà cịn phải
phù hợp với trình độ phát triển của xã hội. Hơn nữa, pháp luật ln mang tính thống nhất,
trong khi đó mức độ phát triển của xã hội trong phạm vi từng vùng, từng địa phương, từng
dân tộc lại không đồng đều về nhiều mặt. Do vậy, không phải lúc nào pháp luật cũng có
hiệu lực như nhau các phạm vi lãnh thổ khác nhau, với những điều kiện xã hội khác nhau.
Điều đó lý giải tại sao nhiều quy định của pháp luật đã ban hành nhưng khơng có hiệu lực


một số vùng nhất định.
Luật tục, một phạm vi nhất định cũng có vai trị, giá trị xã hội quan trọng như pháp
luật, đó là điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì và ổn định một trật tự xã hội của cộng đồng,
đảm bảo cho cộng đồng tồn tại và phát triển. Nhưng luật tục lại không phải là pháp luật.
1


Luật tục là những chuẩn mực xã hội, giới hạn hành vi ứng xử của mỗi cá nhân và cả
cộng đồng sao cho phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng. Luật tục khơng phản ánh ý chí
và nguyện vọng của một giai cấp một tầng lớp xã hội mà phản ánh ý chí và nguyện vọng
của tồn thể cộng đồng, vì thế nó khơng phải cơng cụ nhằm duy trì địa vị thống trị xã hội
của một giai cấp, mà là cơng cụ điều chỉnh và điều hịa các quan hệ xã hội giữa cá nhân với
cá nhân, giữa cá nhân với gia đình - dịng họ, giữa cá nhân với buôn làng, với xã hội, với tự
nhiên và cả với các lực lượng siêu nhiên... nhằm ổn định một trật tự có lợi cho tồn thể cộng
đồng. Luật tục bao hàm và cụ thể hóa các chuẩn mực về đạo đức, pháp lý xã hội, tạo nên các
giá trị văn hóa, tinh thần, truyền thống của dân tộc, khơng ngừng được củng cố trong tiến
trình phát triển lịch sử. Trên thực tế, luật tục là cơ chế tự phê chuẩn các điều luật và quy
định quá trình vận hành của nó. Luật tục khơng phải là kết quả ban hành của một cá nhân
hay một quyền lực tối thượng với bộ máy đặc biệt để bắt buộc thực hiện, mà nó là một tập
hợp những điều luật liên quan đến niềm tin và tính thực thi của cả cộng đồng. Nó được chấp
nhận một cách đương nhiên và những ngư i thi hành cũng như những ngư i phải tuân thủ
đã không đặt ra những nghi ng về nó. Nó tồn tại dai dẳng từ đ i này sang đ i khác, là sự
tiếp diễn, sự kế cận của các thế hệ, một sự hợp thành ôm đồm cả ngư i sống, ngư i chết và
thế giới thần thánh. Luật tục, do đó được nhận thức và thừa nhận như một giá trị s hữu và
thừa kế của một chuỗi các thế hệ. Trong luật tục có một sự giải thích các nghi lễ thần bí tạo
nên một bộ phận khơng tách được của q trình thi hành. Mọi hành vi vi phạm luật tục đều
có thể bị coi là hành vi chống lại một khía cạnh nào đó của thần thánh.
Cũng như pháp luật, luật tục có tính phổ biến, tính quy phạm và tính cưỡng chế. Tuy
nhiên, các tính chất này của luật tục và pháp luật khơng đồng nhất với nhau, thể hiện trình
độ phát triển khác nhau. Nếu như tính phổ biến của luật tục giới hạn trong phạm vi một tộc

ngư i, hoặc một nhóm tộc ngư i gồm nhiều bn, bản, làng của đồng bào dân tộc, thì pháp
luật có hiệu lực đối với toàn xã hội trong phạm vi một quốc gia. Tính quy phạm của pháp
luật được xác định chặt chẽ cả về hình thức và nội dung, cịn luật tục thì khá đơn giản và
thiếu chặt chẽ. Cưỡng chế trong pháp luật là sự cưỡng chế của Nhà nước mang tính giai cấp,
cịn luật tục được thực hiện chủ yếu do tự giác, và nếu phải cưỡng chế thì đó cũng là cưỡng
chế của cộng đồng, b i lẽ luật tục là ý chí của cả cộng đồng. đây, tính cộng đồng của luật
tục, xét trên một bình diện nhất định, cao hơn so với pháp luật.
Xét về hình thức thì pháp luật là một hệ thống lý luận, phản ánh bản chất của hiện
tượng và được thể hiện dưới hình thức văn bản Nhà nước, có kết cấu lơgíc chặt chẽ, với
những trình tự, thủ tục ban hành nghiêm ngặt. Còn luật tục được lưu truyền chủ yếu là bằng
miệng thơng qua các “l i nói có vần” như bài hát, hát cúng, trư ng ca... hoặc qua hoạt động
thực hành xã hội thậm chí có thể đã được văn bản hóa, song nhìn chung đều có kết cấu giản
đơn được nhận thức b i trực giác, cảm nhận của con ngư i trước các hiện tượng xã hội, và để
lý giải về cách ứng xử mà luật tục quy định, luật tục buộc phải dựa vào thần linh, huyền bí.
Như vậy, giữa luật tục và pháp luật, một mặt cùng thực hiện vai trò là duy trì và ổn
định một trật tự cần thiết cho phát triển xã hội, điều chỉnh và điều hòa các quan hệ xã hội.
Mặt khác, luật tục khác với pháp luật cả về nguồn gốc nảy sinh, đối tượng áp dụng, cách
2


thức thi hành và thang bậc của sự phát triển. Tuy nhiên, nếu chúng ta gị bó luật tục theo
nghĩa khơng phải luật pháp Nhà nước, thì thực tế lại không đúng. Trong mọi lý thuyết về
pháp luật (cả quan niệm nhất nguyên về luật và cả quan niệm đa dạng luật pháp), mặc dù
khơng có sự đồng nhất về vị trí của luật tục trong mối tương quan với pháp luật Nhà nước
nhưng vai trò của luật tục chưa bao gi bị phủ nhận hoàn toàn.
2. Giá trị của luật tục cũng cần được xem xét trong mối quan hệ với điều kiện phát
triển kinh tế - xã hội của mỗi xã hội cụ thể.
Với tính chất là những hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, pháp luật và luật tục
chỉ có thể tồn tại trên những cơ s hạ tầng, những nền tảng kinh tế - xã hội phù hợp. Tách
khỏi các cơ s này, pháp luật cũng như luật tục mất khả năng tồn tại.

Luật tục truyền thống của các dân tộc thiểu số nước ta được hình thành trên cơ s
những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Nền tảng kinh tế quyết định nội dung và hình
thức của luật tục chính là một nền sản xuất có dáng dấp của kinh tế nguyên thủy, mang tính
chất khép kín, tự cung, tự cấp với trình độ phân cơng lao động thấp, hình thức phân phối
bình quân bằng hiện vật và lối sống du canh du cư. Nền tảng xã hội quyết định sự hình
thành luật tục là một kết cấu xã hội chưa có sự phân hóa thành giai cấp nhưng đã có sự phân
biệt giàu nghèo và trên cơ s đó đã hình thành các tầng lớp xã hội có địa vị và quyền lợi
khác nhau và do đó làm nhen nhóm những mâu thuẫn, đối lập nhất định giữa họ với nhau.
Toàn bộ thực tế xã hội đó đã được phản ánh trong luật tục thơng qua một lối tư duy
cịn mang nặng tính cụ thể, trực quan, kinh nghiệm. Và cũng chính trong những điều kiện
đó mà luật tục - trong một th i gian rất dài - đã bao hàm và thay thế hầu như tất cả những tư
tư ng xã hội, đạo đức, pháp quyền... tr thành một phạm trù ý thức truyền thống, đồng th i
là một phương thức điều chỉnh chủ yếu tác động đến các yếu tố khác trong đ i sống xã hội
buôn làng.
Những năm vừa qua, cùng với những chuyển biến trong cơ cấu kinh tế - xã hội các
vùng dân tộc, luật tục đương nhiên cũng có những biến đổi cả về nội dung và hiệu lực của
nó. Một số quy định của luật tục đã tự tiêu vong, một số quy định khác bị biến đổi về nội
dung hay bị giảm hiệu lực mức độ nhất định. Tuy nhiên, do trình độ phát triển kinh tế - xã
hội các dân tộc thiểu số ít biến đổi và chậm phát triển như hiện nay, nên về cơ bản luật tục
với những nội dung truyền thống của nó vẫn tồn tại. Điều đó có nghĩa là, trong giai đoạn
hiện nay, việc áp dụng ngay một lúc và triệt để pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong cộng đồng đồng bào các dân tộc thiểu số (đồng nghĩa với việc phủ nhận ngay lập tức
và tồn bộ vai trị điều chỉnh của luật tục) là điều hết sức khó, nếu khơng nói là khơng thể
thực hiện được. Chính sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các tộc ngư i, tính giản đơn
và ràng buộc chồng chéo của các quan hệ xã hội cũng như sự tồn tại của những yếu tố mang
tính chất tàn dư của hình thái kinh tế công xã nguyên thủy trong bản thân mỗi tộc ngư i, sức
ỳ của thói quen ứng xử theo tập tục có sẵn và hiệu lực tác động thực thế hiện nay của luật
tục đã khiến cho pháp luật không thể và không cần thiết phải điều chỉnh tất cả các quan hệ
3



xã hội, các lĩnh vực của đ i sống tộc ngư i. Như vậy, sẽ là cứng nhắc khi đặt vấn đề “luật
hóa” mọi ngõ ngách của đ i sống xã hội.
Thực tế đó cho thấy: trong giai đoạn hiện nay, sự tồn tại của luật tục mang tính khách
quan và hiệu lực của luật tục cũng được đảm bảo b i các điều kiện khách quan của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác thì chính thực tế tồn tại của luật tục hiện nay đã chứng
tỏ rằng trong xã hội đang tồn tại những điều kiện kinh tế - xã hội khách quan và các quan hệ
xã hội phù hợp với sự điều chỉnh của luật tục.
3. Giá trị của luật tục được xác định b i chính sự vận hành và vai trị hiện thực của
nó trong mối quan hệ với pháp luật và đối với đ i sống xã hội đương đại.
Nói về giá trị và vai trị của luật tục với tính cách là một bộ phận của hệ thống các
quy phạm xã hội, giới khoa học và quản lý đã có nhiều cơng trình nghiên cứu. Về cơ bản, ý
kiến của các nhà khoa học và quản lý tập trung vào các hướng sau: Một là, do tính ưu việt
của pháp luật so với luật tục và do yêu cầu đảm bảo pháp chế, cần hướng tới việc sử dụng
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản trong các tộc ngư i một cách triệt để; Hai
là, phải thừa nhận sự tồn tại của luật tục và duy trì nó đồng th i với pháp luật; Ba là, giữ lại
và thừa nhận các quy phạm của luật tục phù hợp với tinh thần và nội dung của pháp luật,
loại bỏ những quy phạm trái với pháp luật. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng vấn đề tìm giải
pháp nhằm thực hiện các ý tư ng nói trên cịn ít được bàn tới.
Để giải quyết vấn đề này, trước hết cần nhận diện chính xác vai trị và giá trị đích
thực của luật tục trong mối quan hệ của chính nó với pháp luật, sau đó xác định phương
hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ đó trên cơ s tính đến khả năng thực hiện giải
pháp đề ra.
Trong mối quan hệ với pháp luật, giá trị của luật tục được thể hiện ba phương diện:
Một là, luật tục, trong những phạm vi nhất định và một số lĩnh vực nhất định có khả năng
thay thế pháp luật; Hai là, luật tục có vai trị bổ sung cho pháp luật trong những điều kiện
nhất định; Và ba là, luật tục có tác dụng hỗ trợ cho pháp luật trong nhiều lĩnh vực.
Trong thực tế hiện nay, giá trị thay thế pháp luật của luật tục trong vai trò điều chỉnh
quan hệ xã hội trong phạm vi cộng đồng dân tộc được thể hiện rất rõ nét. Pháp luật, với tính
cách là quy phạm chung của tồn xã hội, không phải lúc nào và bất cứ phạm vi, lĩnh vực

gì cũng phản ánh đúng thực tại khách quan của sự pháp triển xã hội. Trong điều kiện mà
trình độ phát triển của các cộng đồng tộc ngư i cịn đang rất khác biệt nhau (đặc biệt là tình
trạng khá lạc hậu của các tộc ngư i thiểu số) thì các quy phạm pháp luật trình độ khái quát
cao sẽ khó xâm nhập vào các lĩnh vực cụ thể của đ i sống cộng đồng. Chẳng hạn, các quy
định chặt chẽ, phức tạp về chế độ s hữu với nhiều hình thức khác nhau, với đối tượng s
hữu đa dạng, phong phú của Luật dân sự sẽ tr nên khơng thực tế, thậm chí xa lạ trong một
cộng đồng mà tư liệu sản xuất chủ yếu thuộc về cả cộng đồng, tư liệu sinh hoạt và sản xuất
giản đơn thuộc về một dịng họ hay một đại gia đình... Những quy định pháp luật về quyền
sử dụng tài nguyên, quyền sử dụng, chuyển nhượng đất đai... cũng sẽ tr nên khó chấp nhận
đối với một tộc ngư i sống du canh, du cư, trình độ sản xuất cịn thấp kém và phải phụ
4


thuộc nhiều vào thiên nhiên thông qua các hoạt động săn bắt, chăn nuôi, làm nương rẫy...
Nhưng trong cộng đồng tộc ngư i này và giữa các cộng đồng tộc ngư i với nhau vẫn tồn tại
quan hệ s hữu, quan hệ sản xuất thông qua việc sử dụng tài ngun, đất đai, đồng cỏ...
Chính trong điều kiện đó luật tục đã thể hiện giá trị thay thế pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội cụ thể. Chẳng hạn, ngư i M’nông sinh sống chủ yếu dựa vào mơi trư ng tự
nhiên rừng nói với việc canh tác nương rãy là chính, đã có những quy định cụ thể về đốt
nương, đốt rẫy, tập tục làm rẫy, trồng tỉa, các hoạt động săn bắt thú rừng, đánh cá, tín
ngưỡng, lễ nghi liên quan đến việc làm rẫy; quy định việc chặt phá rừng, bán đất rừng, bảo
vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ rừng thiêng...
Vai trò thay thế của luật tục có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay,
khi mà pháp luật chưa tìm được cách thức truyền tải có khả năng tác động sâu sắc đến ý
thức của các cá nhân trong cộng đồng đồng bào dân tộc. Hơn nữa, tổ chức quản lý từ phía
Nhà nước đối với các cộng đồng dân tộc mới chỉ mức tổng thể, chưa thâm nhập sâu vào
thực tế đ i sống của các tộc ngư i. Trong điều kiện đó, luật tục phát huy vai trị thay thế đối
với pháp luật không chỉ một vài lĩnh vực, mà rất nhiều lĩnh vực. Nội dung của các luật
tục mà các nhà nghiên cứu dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự, tố tụng, khai thác tài ngun
và khống sản, bảo vệ rừng, đất đai, tín ngưỡng... Xem xét, so sánh nội dung của các quy

định luật tục với pháp luật, có thể thấy là rất nhiều quy định của luật tục phù hợp với tinh
thần của pháp luật. Cùng một nội dung, nếu được thể hiện dưới hình thức luật tục thì các
quy định này có hiệu lực thi hành cao, ngược lại, nếu trình bày dưới hình thức pháp luật thì
vấn đề lại tr nên bất cập.
Giá trị của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật khơng chỉ dừng lại vai trị thay
thế mà nó còn được thể hiện khả năng bổ sung và hỗ trợ cho pháp luật. Pháp luật, dù hoàn
thiện đến mức nào thì cũng khơng thể dự liệu được hết các tình huống cụ thể. Trong thực tế
ln tồn tại những vấn đề cụ thể mà pháp luật hoặc chưa quy định, hoặc quy định chưa đầy
đủ. Trong những trư ng hợp đó, các quy phạm xã hội khác có tác dụng bổ sung và hỗ trợ
pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội. Trong các cộng đồng dân tộc nước ta, có nhiều
quan hệ xã hội - thậm chí là hiện tượng xã hội - phức tạp mà pháp luật chưa dự liệu hết.
Nhưng việc điều chỉnh các quan hệ này lại là yêu cầu khách quan, vì vậy, vai trò bổ sung
của luật tục trong những trư ng hợp này có ý nghĩa rất lớn.
Giá trị hỗ trợ của luật tục đối với pháp luật được thể hiện nhiều phương diện khác
nhau, trong đó nổi bật nhất là hỗ trợ cho việc thực hiện và áp dụng các quy định pháp luật,
cho việc chi tiết hóa, cụ thể hóa pháp luật.
Các quy định của pháp luật (ngay cả trong trư ng hợp quy định đó có tính cụ thể và
phù hợp với điều kiện của một cộng đồng tộc ngư i) hoặc các quyết định của cơ quan Nhà
nước, bản án của tịa án,... chưa hẳn đã có thể áp dụng, thi hành, mặc dù để áp dụng các quy
định này pháp luật đã đề ra chế tài cụ thể. Nhưng nếu được sự hỗ trợ của luật tục, với tính
cộng đồng cả về nội dung lẫn chế tài của nó, các quy định nói trên của pháp luật có thể được
thi hành, áp dụng với hiệu quả cao. Vai trò hỗ trợ của luật tục còn thể hiện chỗ nó chi tiết
hóa, cụ thể hóa điều luật cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Chẳng hạn, pháp luật
5


về đánh bắt hải sản nghiêm cấm sử dụng một số phương tiện và phương pháp đánh bắt gây
nguy hại cho nguồn cá. Luật tục cụ thể hóa các quy định này bằng các quy tắc về cách thức
đánh bắt cá, nghiêm cấm thuốc cá (đánh bắt cá bằng các chất hóa học), nghiêm cấm đánh
bắt cá con,...

Việc tách bạch các vai trò thay thế, bổ sung và hỗ trợ của luật tục trong mối quan hệ
với pháp luật chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trong thực tế các giá trị này của luật tục ln hịa
quyện với nhau trong một mối liên hệ chặt chẽ khó có thể tách r i. Những giá trị này có ý
nghĩa hết sức quan trọng và mang tính khách quan trong điều kiện hiện nay nước ta.
Từ các phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, nếu giá trị và vai trò của luật tục trong mối quan hệ với pháp luật hiện hành
mang tính khách quan thì việc tiếp thu, kế thừa và phát huy giá trị đó là cần thiết và cũng
mang tính khách quan;
Hai là, vai trò và giá trị thay thế, bổ sung, hỗ trợ của luật tục dù lớn đến đâu cũng
không vượt qua vai trị chủ đạo của pháp luật. Vì vậy, việc tiếp thu, kế thừa và phát huy giá
trị của luật tục phải đảm bảo không mâu thuẫn với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật;
Ba là, do tính ưu việt, tiên tiến của pháp luật nên quá trình tiếp thu, kế thừa, và phát
huy giá trị của luật tục cần phát triển theo hướng từng bước chuyển tải nội dung của pháp
luật và hình thức của nó vào trong đ i sống cộng đồng các dân tộc. Nghĩa là, “pháp luật hóa
luật tục” có thể được thực hiện cả về hình thức lẫn nội dung, cịn theo hướng ngược lại là
“luật tục hóa pháp luật” thì chỉ có thể thực hiện về mặt hình thức (cách thức biểu hiện).
4. Một trong những vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng nhưng ít được
đề cập là: tiếp thu, kế thừa và phát huy các giá trị của luật tục như thế nào cho phù hợp với
điều kiện hiện nay của nước ta?
Kinh nghiệm sử dụng tập quán pháp của các nước trong khu vực và trên thế giới cho
thấy, hương ước, luật tục có thể được sử dụng theo hai cách:
Cách thứ nhất, Nhà nước trao cho chính quyền địa phương thẩm quyền xây dựng và
ban hành hương ước quy định về một số vấn đề nhất định có hiệu lực trong phạm vi một
đơn vị dân cư, phù hợp với các quy định của pháp luật. Hương ước đây chỉ là công cụ tự
quản địa phương chứ khơng phải là pháp luật (ví dụ Trung Quốc).
Cách thứ hai, Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của luật tục và coi luật tục như một bộ
phận của pháp luật. Luật tục trong trư ng hợp này điều chỉnh các quan hệ xã hội với tính
cách là pháp luật, nhưng chỉ có hiệu trong phạm vi địa phương. Giữa luật tục và pháp luật
Nhà nước có mối quan hệ tương hỗ chặt chẽ: pháp luật chỉ giải quyết những vấn đề phát
sinh địa phương khi luật tục không giải quyết được, và ngay cả trong trư ng hợp này,

pháp luật cũng phải tính đến các quy định của luật tục (ví dụ Indonexia).

6


các nước mà phong tục, tập quán là một nguồn quan trọng của pháp luật (như nước
Anh chẳng hạn), Nhà nước xem xét các phong tục, tập quán, nếu thấy phù hợp với lợi ích
chung của giai cấp thống trị và với tiến trình phát triển của xã hội thì Nhà nước thừa nhận
và ghi nhận nó như là một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật chung.
nước ta, luật tục xuất hiện từ rất sớm và tồn tại cho đến ngày nay. Suốt chặng
đư ng lịch sử đó, chắc chắn là luật tục đã có nhiều thay đổi. Rất tiếc là đến nay có ít tài liệu
nói về luật tục cũng như cách thức cai trị của chính quyền phong kiến đối với các dân tộc ít
ngư i. Trong th i kỳ cai trị của thực dân Pháp, nhiều ngư i Pháp đã nghiên cứu luật tục của
các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Trong đầu thập kỷ XX, chính quyền thực dân Pháp đã tổ
chức thu thập, hiệu chỉnh các luật tục của đồng bào Tây Nguyên, biên dịch thành sách phát
hành trong các buôn làng. Trong các bản luật tục này, ngư i Pháp đã lồng ghép những nội
dung và điều luật phục vụ cho mục đích cai trị của họ. Cũng trong th i kỳ này, ngư i Pháp
đã thành lập Tòa án phong tục Tây Nguyên để xét xử những vụ việc vi phạm luật tục và
luật pháp nếu ngư i vi phạm là ngư i dân tộc thiểu số, hoặc vụ việc liên quan đến dân tộc
thiểu số Tây Nguyên. Đến trước năm 1975, chính quyền Ngụy Sài Gịn tiếp tục duy trì Tịa
án phong tục cấp tỉnh và quận. Luật tục th i kỳ này được chính quyền cai trị thừa nhận
cùng với một số quy định bổ sung nhằm phục vụ cho sự thống trị của họ.
Hiện nay, một số địa phương, Tòa án phong tục thực chất vẫn tồn tại bên cạnh tịa
án của chính quyền. một số nơi khác, Tịa án phong tục tuy khơng cịn, nhưng thay vào đó
là các tổ hịa giải hoạt động trên cơ s luật tục.
Như đã nói trên, trong điều kiện thực tế nước ta hiện nay, việc tiếp tục sử dụng
luật tục để điều chỉnh các quan hệ xã hội cộng đồng dân tộc là cần thiết, nhưng phải có
chọn lọc và cách thức sử dụng phù hợp. Trước hết cần xác định phạm vi các quy định của
luật tục có thể tiếp thu. Theo chúng tôi, những quy định này phải đáp ứng các yêu cầu sau:
Một là, không trái với tinh thần của pháp luật; Hai là, quy định tương ứng của pháp luật

(nếu có), chưa thể thâm nhập vào đ i sống thực tế của cộng đồng dân tộc; Ba là, quy định
này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng trên những phương diện nào đó.
Bên cạnh các quy định đáp ứng yêu cầu nói trên (các quy định phù hợp), trong luật
tục cịn nhiều các quy định mà mức độ này hoặc mức độ khác, không đáp ứng yêu cầu
(các quy định không phù hợp). Đối với các quy định này có thể xem xét, giải quyết theo các
hướng sau:
- Các quy định mâu thuẫn sâu sắc với tinh thần của pháp luật, cần nhanh chóng khắc
phục và loại bỏ;
- Các quy định chưa thật sự phù hợp với pháp luật, nhưng nếu các quan hệ xã hội mà
chúng điều chỉnh có thể còn tồn tại tương đối lâu dài mà pháp luật chưa có quy định cụ thể
hoặc chưa thâm nhập được, thì có thể dung hịa, duy trì tạm th i và khắc phục dần;
- Các quy định tuy không mâu thuẫn với pháp luật nhưng không thúc đẩy tiến bộ xã
hội, có thể duy trì khắc phục dần về nội dung.
7


Quá trình tiếp thu, kế thừa và phát huy giá trị của luật tục là một quá trình lâu dài và
phức tạp, vì vậy, cần xây dựng một cơ chế sử dụng và cải biến luật tục linh hoạt, có khả
năng thích ứng cao trong những điều kiện và hồn cảnh khác nhau. Với tinh thần đó, quan
điểm xây dựng một Luật Dân tộc tỏ ra là hợp lý. Trong Luật này - thiết nghĩ nên dành một
phần để quy định những nguyên tắc chung nhất về luật tục, những nguyên tắc sử dụng luật
tục, bao gồm việc thừa nhận các quy định phù hợp và cách thức, mức độ sử dụng các quy
định không phù hợp.

8



×