Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Chính sách ưu đãi về thuế nhằm khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp xã hội Việt Nam dưới góc nhìn pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (463.5 KB, 6 trang )

Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI VỀ THUẾ NHẰM KHUYẾN KHÍCH,
HỖ TRỢ VÀ THÚC ĐẨY DOANH NGHIỆP XÃ HỘI VIỆT NAM
DƯỚI GĨC NHÌN PHÁP LÝ
PREFERENTIAL POLICIES ON TAX TO ENCOURAGE, SUPPORT AND
PROMOTE VIETNAMESE SOCIAL ENTERPRISES UNDER THE LEGAL VIEW
Lê Đình Quang Phúc
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng

TĨM TẮT
Doanh nghiệp xã hội là mơ hình giao thoa giữa doanh nghiệp truyền thống và tổ chức xã hội phi lợi nhuận
đang ngày càng trở nên phổ biến trên tồn thế giới. Tại Việt Nam, dưới góc độ pháp luật, doanh nghiệp xã
hội được ghi nhận lần đầu tiên tại Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 26
tháng 11 năm 2014. Với đặc trưng là được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, ngoài
mục tiêu sinh lợi như những doanh nghiệp truyền thống khác, còn nhằm giải quyết vấn đề xã hội, mơi
trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng phần lớn tổng lợi nhuận hằng năm (ít nhất 51%) để tái đầu tư nhằm
thực hiện mục tiêu xã hội hoặc môi trường như đã cam kết, doanh nghiệp xã hội là “người bạn đồng hành”
của Nhà nước trong việc phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay, số doanh nghiệp xã
hội đăng ký thành lập theo Luật Doanh nghiệp 2014 vẫn còn rất khiêm tốn. Một trong các nguyên nhân
dẫn đến thực trạng này là các chính sách ưu đãi đối với mơ hình doanh nghiệp này cịn chưa rõ ràng và cụ
thể, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả phân tích, làm rõ những bất cập
và đề xuất những khuyến nghị hồn thiện chính sách ưu đãi về thuế để khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy cho
doanh nghiệp xã hội, đảm bảo sự phát triển bền vững.
Từ khóa: Chính sách ưu đãi; Thuế; Doanh nghiệp xã hội; Phát triển bền vững.
ABSTRACT
Social enterprises which are a cross between traditional enterprises and non-profit social organizations, are
more and more popular all around the world. In Vietnam, from a legal perspective, social enterprises were
first recognized in the Law on Enterprises No. 68/2014/QH13 adopted by the National Assembly on
November 26, 2014. The characteristic of social enterprises is to be established in accordance with the law


on enterprises, in addition to the profitability goal of other traditional businesses, but also to solve social
and environmental issues for the benefit of the community. and use most of the total annual profit (at least
51%) to reinvest to meet the committed social or environmental goals. Thus, social enterprises are the
"companion" of the State in the sustainable socio-economic development of the country. However, so far,
the number of social enterprises registered under the Enterprise Law 2014 is still very small. One of the
reasons for this situation is that the preferential policies for this business model are not clear and specific,
especially tax incentives. From the research results, the author analyzes, clarifies inadequacies and
recommends recommendations to to complete the preferential policies on tax to encourage, support and
promote social enterprises.
Keywords: Preferential policies; Tax; Social enterprises; Sustainable development.

255


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

1. Đặt vấn đề
Sau hơn 30 năm Đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã có những tăng trưởng đáng kể, tốc độ tăng trưởng
kinh tế trung bình khoảng 7%, vốn đầu tư phát triển kinh tế không ngừng tăng lên (Trần Thị Tuyết Lan, 2019).
Tuy nhiên, khi nền kinh tế càng phát triển, các vấn đề xã hội càng phát sinh, đặc biệt là các vấn đề về môi
trường và công bằng xã hội. Nhận thức được vấn đề này, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong phát triển
kinh tế xã hội luôn đặt mục tiêu hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm
phát triển bền vững Việt Nam (Thủ tướng Chính phủ, 2012). Về vấn đề xã hội, Nghị quyết Hội nghị lần thứ
năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 đã
thể hiện quan điểm về việc xã hội hóa thực hiện an sinh xã hội: “Nhà nước bảo đảm thực hiện chính sách ưu
đãi người có cơng và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã
hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia”. Về vấn đề môi trường, nội dung các
giải pháp tổng thể trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được
ban hành kèm theo Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ cũng

nêu rõ: “Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, huy động sự tham gia của các thành phần kinh
tế đầu tư cho bảo vệ mơi trường. Có cơ chế, chính sách phù hợp để tăng cường huy động vốn cho bảo vệ môi
trường, nhất là các nguồn vốn ngồi ngân sách”. Như vậy, có thể thấy vai trò của các doanh nghiệp trong giải
quyết các vấn đề xã hội, môi trường là rất quan trọng.
Bên cạnh những nỗ lực nhằm nâng cao trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp, chính sách khuyến
khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xã hội cũng là một trong các giải pháp quan trọng để giải quyết các vấn đề
xã hội, môi trường. Từ khi Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2014 (sau đây gọi là Luật Doanh nghiệp 2014), doanh nghiệp xã hội đã được chính thức thừa nhận tại
Việt Nam. Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2014 không đưa ra định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp xã hội, tuy nhiên,
căn cứ vào các tiêu chí để xác định doanh nghiệp xã hội, có thể thấy rằng doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, ngoài mục tiêu sinh lợi như những doanh nghiệp
truyền thống khác, còn nhằm giải quyết vấn đề xã hội, mơi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng phần lớn
tổng lợi nhuận hằng năm (ít nhất 51%) để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội hoặc môi trường như đã
cam kết (Luật Doanh nghiệp 2014, Điều 10). Như vậy, doanh nghiệp xã hội là sự kết hợp giữa mơ hình doanh
nghiệp truyền thống và mơ hình tổ chức phi lợi nhuận nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường nhưng vẫn
đảm bảo được nguồn tài chính ổn định trong q trình hoạt động.
Mặc dù doanh nghiệp xã hội có vai trị quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường
và được Nhà nước khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy, số lượng các doanh nghiệp xã hội đăng ký hoạt động vẫn
còn đang rất hạn chế. Theo các nghiên cứu gần đây, tính đến cuối năm 2018, số lượng doanh nghiệp xã hội
đăng ký mới chỉ có 80 doanh nghiệp trên tổng số gần 50.000 doanh nghiệp tạo tác động xã hội (SIB) được ghi
nhận tại Việt Nam (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân & Chương trình phát triển Liên hợp quốc, 2018). Trên
cơ sở những vấn đề đã nêu ra ở trên, tác giả tập trung nghiên cứu chính sách về thuế nhằm khuyến khích, hỗ
trợ và thúc đẩy các doanh nghiệp xã hội dưới góc nhìn pháp lý. Từ đó, tìm ra các lý do cản trở doanh nghiệp
xã hội đăng ký thành lập hiện nay và đề ra các khuyến nghị.
2. Quy định hiện hành về ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp xã hội
Doanh nghiệp xã hội có khả năng phát hiện và giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường, góp phần giúp
Nhà nước giải quyết các vấn đề để phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nếu như khơng có chủ thể kinh doanh
này, Nhà nước phải trực tiếp giải quyết các vấn đề về xã hội, môi trường. Đương nhiên, để giải quyết được các
vấn đề đó, Nhà nước phải thực hiện các khoản chi, tạo gánh nặng lên ngân sách nhà nước. Như vậy, sự ra đời
của doanh nghiệp xã hội giúp chia sẻ bớt trách nhiệm với Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội,

mơi trường. Có thể nói, doanh nghiệp xã hội là “người bạn đồng hành” của Nhà nước trong việc phát triển bền
vững kinh tế - xã hội. Vì vậy, Nhà nước cần thiết phải có những chính sách ưu đãi để khuyến khích, hỗ trợ và
thúc đẩy mơ hình doanh nghiệp này phát triển.

256


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

Trong các chính sách ưu đãi để thu hút đầu tư, ưu đãi về thuế là hình thức được sử dụng phổ biến hiện
nay trên thế giới (Trương Bá Tuấn, 2019). Chính sách ưu đãi về thuế có thể làm tăng tính hấp dẫn của thị
trường, thu hút được nguồn vốn đầu tư, từ đó, góp phần thực hiện mục tiêu điều tiết vĩ mô nền kinh tế của Nhà
nước. Hệ thống thuế của quốc gia được cấu thành bởi nhiều loại thuế. Nếu căn cứ theo đối tượng chịu thuế,
thuế được chia thành 3 nhóm gồm: Nhóm thuế thu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ;
Nhóm thuế điều tiết vào thu nhập; Nhóm thuế điều tiết vào hành vi sử dụng một số tài sản của Nhà nước
(Nguyễn Thị Thủy và những người khác, 2012). Với xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế cũng như chính
sách khuyến khích nền kinh tế hàng hóa phát triển, vai trị của nhóm thuế thu vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh hàng hóa và dịch vụ ngày càng giảm. Ngược lại, nhóm thuế điều tiết vào thu nhập ngày càng có vai trò
quan trọng trong việc điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội và tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách
nhà nước. Vì vậy, chính sách ưu đãi về thuế dành cho đối tượng doanh nghiệp xã hội cũng tập trung vào nhóm
thuế này.
Hiện nay, chưa có văn bản quy định cụ thể chính sách ưu đãi về thuế dành cho đối tượng doanh nghiệp
xã hội. Tuy nhiên, căn cứ vào các quy định hiện hành, đặc biệt là pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp và
các đặc trưng của doanh nghiệp xã hội, có thể hệ thống hóa các chính sách ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp
xã hội, cụ thể như sau:
- Đối với doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh tại khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn hoặc khó khăn. Các hoạt động kinh doanh tại khu vực này góp phần giải quyết vấn đề việc
làm, thu nhập cho người dân khu vực này và góp phần thu hẹp khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội giữa khu
vực thành thị và nông thôn. Chính vì vậy, thu nhập của đối tượng doanh nghiệp này được hưởng các chính

sách ưu đãi về thuế. Tùy vào ngành nghề của doanh nghiệp là trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản, thủy
sản hay triển khai dự án đầu tư mới và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hay khó khăn
mà doanh nghiệp có thể được miễn thuế hay được ưu đãi về thuế suất, ưu đãi về thời gian miễn thuế, giảm
thuế theo quy định tại Điều 4, Điều 13 và Điều 14 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 ngày
03 tháng 6 năm 2008 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 32/2013/QH13 ngày 19 tháng 6 năm 2013 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014
sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế (sau đây gọi là Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 sửa
đổi, bổ sung). Ngồi ra, thu nhập từ chuyển giao cơng nghệ thuộc danh mục lĩnh vực ưu tiên chuyển giao cho
các đối tượng ở khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn của doanh nghiệp cũng được giảm thuế theo
quy định tại Điều 15 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 sửa đổi, bổ sung.
- Đối với doanh nghiệp thực hiện các hoạt động nhằm hỗ trợ người yếu thế như: sử dụng lao động
là phụ nữ, người dân tộc thiểu số, người nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở
người (HIV/AIDS), người khuyết tật, người sau cai nghiện; dạy nghề cho người tàn tật, người dân tộc
thiểu số, đối tượng tệ nạn xã hội, trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn. Các đối tượng này là những người
có hồn cảnh khó khăn và gặp các rào cản trong việc tự giải quyết các nhu cầu hằng ngày dự trên năng lực bản
thân. Các đối tượng này phải được Nhà nước quan tâm, hỗ trợ nhằm thực hiện chức năng tái phân phối và đảm
bảo công bằng xã hội của Nhà nước. Tuy nhiên, vì doanh nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
này vượt qua các rào cản, dẫn đến giảm áp lực nên ngân sách nhà nước. Cho nên, Nhà nước phải có chính sách
hỗ trợ trở lại doanh nghiệp trong trường hợp này. Tùy thuộc vào đối tượng người yếu thế và hoạt động cụ thể
của doanh nghiệp mà Nhà nước có chính sách miễn thuế, giảm thuế hoặc ưu đãi về thuế suất, ưu đãi về thời
gian miễn thuế, giảm thuế theo quy định tại Điều 4, Điều 13, Điều 14 và Điều 15 Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp 2008 sửa đổi, bổ sung.
- Đối với doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực như nông nghiệp,
giáo dục - đào tạo, dạy nghề, văn hóa, y tế, thể thao, mơi trường và lĩnh vực xã hội hóa khác. Các ngành
nghề hoạt động này của doanh nghiệp là các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Trong số các ngành nghề
kinh doanh của doanh nghiệp, có những lĩnh vực mà sự phát triển của nó khơng chỉ giúp doanh nghiệp thu lợi
mà cịn góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Vì vậy, với vai trị là người điều tiết vĩ mơ nền kinh tế,
Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào các ngành nghề này. Mặt khác, dưới góc độ
257



Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

doanh nghiệp, việc đầu tư vào các lĩnh vực góp phần phát triển bền vững kinh tế - xã hội cũng được xem là
một hình thức giải quyết vấn đề xã hội. Các quy định ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho đối tượng này
được quy định cụ thể tại các Điều 4, Điều 13 và Điều 14 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 sửa đổi, bổ
sung.
- Đối với doanh nghiệp nhận các khoản tài trợ để thực hiện các mục tiêu xã hội, môi trường. Doanh
nghiệp xã hội thường không tập trung vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận mà cịn phải giải quyết vấn đề xã hội,
mơi trường. Chính vì lẽ đó, trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp xã hội khó có thể bù đắp các chi phí để giải
quyết vấn đề xã hội, mơi trường của mình bằng lợi nhuận thu được. Vì vậy, nhận tài trợ là một trong các giải
pháp giúp bổ sung nguồn lực để doanh nghiệp xã hội có thể duy trì hoạt động. Việc nhận tài trợ này được quy
định cụ thể tại Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2015 Quy định chi tiết một số điều của
Luật Doanh nghiệp (sau đây gọi là Nghị định 96) và được miễn thuế theo quy định tại Điều 4 Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp 2008 sửa đổi, bổ sung.
3. Một số tồn tại và khuyến nghị hồn thiện chính sách ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp xã hội
Thứ nhất, các quy định về ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp xã hội còn nằm rải rác, chưa được hệ thống.
Pháp luật hiện hành chưa có quy định ưu đãi riêng dành cho doanh nghiệp xã hội nói chung mà chỉ có thể tổng
hợp từ các quy định về ưu đãi dành cho các đối tượng được quy định trước khi Luật Doanh nghiệp 2014 ra
đời. Tồn tại này gây ra những khó khăn nhất định cho những doanh nhân xã hội khi quyết định đăng ký thành
lập doanh nghiệp xã hội. Đây cũng là một trong các lý do dẫn đến số lượng doanh nghiệp xã hội được đăng ký
thành lập theo quy định của pháp luật doanh nghiệp, sau hơn 5 năm, vẫn còn rất hạn chế so với số lượng SIB
được ghi nhận tại Việt Nam.
Hiện nay, ở cấp độ văn bản luật, doanh nghiệp xã hội mới chỉ được quy định tại một điều luật của Luật
Doanh nghiệp 2014 (Điều 10). Thậm chí, mặc dù đa số doanh nghiệp xã hội là doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng
Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2017
(sau đây gọi là Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017) cũng khơng có quy định về mơ hình doanh nghiệp
này. Trên cơ sở quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định 96 quy định cụ thể
hơn về doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, các quy định này vẫn chưa thực sự làm rõ các chính sách ưu đãi về

thuế dành cho đối tượng doanh nghiệp này.
Để giải quyết vấn đề này, thiết nghĩ cần phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật riêng dành cho
doanh nghiệp xã hội, đặc biệt là các văn bản ưu đãi về thuế. Đồng thời, cũng cần phải định danh đối tượng
được ưu đãi là doanh nghiệp xã hội (Nhà nước vẫn có thể có chính sách ưu đãi riêng, đặc thù dành cho doanh
nghiệp xã hội trong những lĩnh vực nhất định) để khuyến khích các doanh nhân xã hội lựa chọn mơ hình doanh
nghiệp này khi đăng ký kinh doanh.
Thứ hai, các quy định về ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp xã hội chưa ràng buộc cam kết của đối tượng
này với mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường. Theo Điều 5 Nghị định 96, doanh nghiệp xã hội
phải công khai Cam kết thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường của mình cho cơ quan đăng ký kinh doanh để
công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Quy định này nhằm đảm bảo quản lý nhà
nước đối với các đối tượng đăng ký doanh nghiệp xã hội, đảm bảo công bằng, minh bạch giữa các doanh
nghiệp xã hội trong vấn đề hưởng ưu đãi từ Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có trường hợp doanh nghiệp cam kết
thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường nhằm mục đích hưởng các ưu đãi từ Nhà nước, đặc biệt là ưu đãi về
thuế. Sau khi được hưởng chính sách ưu đãi, các doanh nghiệp này lại thay đổi mục tiêu hoạt động hoặc không
thực hiện mục tiêu như đã cam kết.
Vì vậy, khi xây dựng các quy định ưu đãi nói chung và ưu đãi về thuế nói riêng đối với doanh nghiệp
xã hội, cần chú ý tính ràng buộc đối tượng doanh nghiệp này vào các mục tiêu xã hội, môi trường như đã cam
kết. Bất kể khi nào doanh nghiệp xã hội chấm dứt thực hiện mục tiêu xã hội, mơi trường thì chính sách ưu đãi
cũng phải chấm dứt theo. Tránh tình trạng ấn định số năm được hưởng ưu đãi một cách cố định như quy định
hiện hành. Hoặc như ở Hàn Quốc, thuế thu nhập doanh nghiệp được thu theo biểu thuế lũy tiến từ 10% đến

258


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng công nghệ”– DCFB 2020

25%, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không định hướng chủ yếu vào mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nâng
cao năng lực cạnh tranh (Thúy Nga, 2019).
Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa làm rõ các vấn đề xã hội, môi trường mà doanh nghiệp xã hội phải

giải quyết. Điểm khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp thông thường và doanh nghiệp xã hội là mục tiêu hoạt
động nhằm giải quyết các vấn đề xã hội, mơi trường vì lợi ích cộng đồng. Chính sự khác biệt này địi hỏi cần
phải có những ưu đãi dành cho doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, những vấn đề nào là vấn đề xã hội thì Luật
Doanh nghiệp 2014 và các văn bản hướng dẫn lại không xác định cụ thể. Các vấn đề xã hội rất phong phú và
dường như khơng có một giới hạn nhất định cho một vấn đề xã hội. Một số vấn đề xã hội có thể nêu ra như
vấn đề ùn tắt giao thơng, vấn đề an tồn thực phẩm, vấn đề giáo dục đạo đức cho giới trẻ, …. Như vậy, nếu
như không xác định cụ thể những vấn đề nào được xem là vấn đề xã hội theo quy định của Luật Doanh nghiệp
2014 thì rất khó khăn trong việc xác định một doanh nghiệp có phải là doanh nghiệp xã hội hay không.
Như vậy, việc cần phải quy định rõ doanh nghiệp giải quyết vấn đề xã hội, mơi trường nào thì được coi
là doanh nghiệp xã hội. Từ đó, các chính sách ưu đãi về thuế mới phát huy được hiệu quả, tránh lãng phí, thất
thốt ngân sách nhà nước.
Thứ tư, các ưu đãi về thuế hiện nay mới chỉ chủ yếu tập trung vào ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
mà chưa mở rộng ra các loại thuế khác. Mặc dù thuế thu nhập doanh nghiệp có vai trị quan trọng trong việc
điều tiết vĩ mơ nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, thu hút, định hướng hoạt động đầu tư.
Tuy nhiên, để tăng sự hấp dẫn để thu hút nhà đầu tư lựa chọn mơ hình doanh nghiệp xã hội, người làm chính
sách cũng cần phải suy nghĩ về việc mở rộng phạm vi ưu đãi về thuế. Chẳng hạn, có thể xem xét việc ưu đãi
thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ đầu tư vốn, thu nhập từ chuyển nhượng vốn,
thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh.
4. Kết luận
Luật Doanh nghiệp 2014 đã đặt bước ngoặt cho sự phát triển của doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam khi
chính thức thừa nhận địa vị pháp lý của đối tượng doanh nghiệp này. Tuy nhiên, để doanh nghiệp xã hội nói
riêng và các mơ hình doanh nghiệp nói chung phát triển bền vững thì cần phải có chính sách ưu đãi dành cho
đối tượng doanh nghiệp này, đặc biệt là ưu đãi về thuế. Với các chính sách hiện tại, mặc dù đã có những ưu
đãi nhất định dành cho doanh nghiệp xã hội. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải tiếp tục hồn thiện các chính sách
ưu đãi, đặc biệt là ưu đãi về thuế để khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam, góp
phần vào sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban chấp hành Trung ương Đảng (2012), Nghị quyết số 15-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020, ban hành ngày 01
tháng 6 năm 2012.

[2] Chính phủ (2015), Nghị định số 96/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp,
ban hành ngày 19 tháng 10 năm 2015.
[3] Quốc hội (2008), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12, ban hành ngày 03 tháng 6 năm
2008.
[4] Quốc hội (2013), Luật số 32/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh
nghiệp, ban hành ngày 19 tháng 6 năm 2013.
[5] Quốc hội (2014), Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13, ban hành ngày 26 tháng 11 năm 2014.
[6] Quốc hội (2014), Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế, ban hành ngày
26 tháng 11 năm 2014.
[7] Quốc hội (2017), Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14, ban hành ngày 12 tháng 6 năm
2017.
259


Hội thảo Khoa học quốc gia “Hệ thống Tài chính – Ngân hàng với sự phát triển kinh tế - xã hội
miền Trung – Tây Nguyên trong bối cảnh cách mạng cơng nghệ”– DCFB 2020

[8] Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 432/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược Phát triển bền vững Việt
Nam giai đoạn 2011-2020, ban hành ngày 12 tháng 4 năm 2012 .
[9] Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1216/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược Bảo vệ mơi trường
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, ban hành ngày 05 tháng 9 năm 2012.
[10] Nguyễn Thị Thủy và những người khác (2012), Giáo trình Luật Thuế, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia
Việt Nam, Hà Nội.
[11] Trường Đại học Kinh tế Quốc dân & Chương trình phát triển Liên hợp quốc (2018), Thúc đẩy Phát triển
phát triển khu vực doanh nghiệp tạo tác động xã hội tại Việt Nam, Hà Nội.
[12] Thúy Nga (2019), Ưu đãi thuế thu hút đầu tư nước ngoài lựa chọn theo đặc thù mỗi quốc gia, Tạp chí Tài
Chính, ngày 12 tháng 3 năm 2019.
[13] Trần Thị Tuyết Lan (2019), Thành tựu hơn 30 năm đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Tạp chí Cơng Thương, ngày 02 tháng 01 năm 2019.
[14] Trương Bá Tuấn (2019), Chính sách ưu đãi thuế tại Việt Nam: Những vấn đề đặt ra và khuyến nghị, Tạp

chí Tài Chính, ngày 04 tháng 02 năm 2019.

260



×