Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
------
------
TIỂU LUẬN
MÔN: QUẢN TRỊ HỌC
ĐỀ TÀI:
CHÍNH SÁCH QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN
LƯỢC KINH DOANH CỦA TẬP ĐOÀN MICROSOFT
GVHD
: T.S NGUYỄN THANH HỘI
SV THỰC HIỆN
: ĐÀO THỊ MỸ LINH
LỚP
: CAO HỌC N3K16
Page 1
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
LỜI MỞ ĐẦU
Từ một công ty sáng lập bởi hai chàng trai trẻ là Bill Gates và Paul Allen
mới ở đầu tuổi 20, sau gần 35 năm Microsoft đã trở thành công ty lớn nhất thế
giới đạt giá trị 500 tỷ đô la trên thị trường chứng khốn. Thành cơng vang dội có
một khơng hai trong lịch sử này chính là nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của ban lãnh
đạo Công ty đứng đầu là Bill Gates và hoạt động sáng tạo, nhiệt tình của một đội
ngũ các nhà lập trình và quản lý cũng cịn rất trẻ.
Cùng với sự lớn lên của cơng ty, hàng ngàn nhân viên Microsoft đã trở
thành triệu phú và trên một chục người đã thành tỷ phú. Tuy nhiên, sự thành công
của Microsoft không chỉ được đánh giá bằng tiền bạc mà còn bằng những phát
minh khoa học và cơng nghệ, những sản phẩm trí tuệ, văn hóa tinh thần cao cho
nhân loại.
Ngày nay trên thế giới hàng triệu người, trong đó có chúng ta, đang sống,
làm việc và làm bạn với những sản phẩm của Microsoft, ngưỡng mộ Bill Gates
và những con người đã sáng tạo ra chúng. Một cách tự nhiên chúng ta tự hỏi: Đâu
là những bí quyết thành cơng của Microsoft và Bill Gates?
Trước sự thành công không thể nào phủ nhận được của Microsoft thì việc
nghiên cứu để tìm ra những nguyên nhân dẫn đến thành cơng trên rất có ý nghĩa
đối với các nhà quản trị, nhất là các nhà quản trị Việt Nam, khi chúng ta đang
chuẩn bị bước vào quá trình hội nhập tồn cầu hóa với nền kinh tế thế giới, đang
đứng trước khả năng cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường năng động và
khốc liệt này.
Mặc dù có rất nhiều quan điểm cũng như cách nhìn nhận về các ngun
nhân dẫn đến thành cơng của Microsoft nhưng do khả năng và thời gian hạn chế
nên trong đề tài này chúng tôi chỉ xin đề cập đến một số vấn đề chủ yếu xoay
quanh hai nội dung: chính sách quản trị nhân sự và hoạch định chiến lược. Sau
đây là một số vấn đề liên quan đến các nội dung trên.
Page 2
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
NỘI DUNG CHÍNH
PHẦN 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ
QUẢN TRỊ NHÂN SỰ VÀ MARKETING
1.1. Đánh giá nguồn lực
Sự cam kết của đội ngũ nhân viên.
Một nhiệm vụ lớn đối với ban lãnh đạo là làm thế nào để mọi nhân viên
hiểu rằng cách tốt nhất đạt được các mục tiêu cá nhân là giúp doanh nghiệp hòan
thành mục tiêu đề ra. Nhiệm vụ này có thể địi hỏi các nhà quản trị phải sử dụng
nhiều phương cách và công cụ từ các lĩnh vực có tính ngun tắc như thay đổi
cách quản trị lãnh đạo và động cơ khuyến khích.
Tinh thần thực hiện.
Tinh thần hăng hái thực hiện phổ biến khắp nọi nơi cũng là một điều qí
giá, vì nó có nghĩa rằng mọi người có chí hướng tiến lên phía trước. Một điều lí
tưởng là mọi cá nhân đều hăng hái phấn đấu vì thành tích cá nhân cũng như thành
tích của tổ chức. Thái độ như vậy làm nảy nở tinh thần sẵn sàng hậu thuẫn và
phấn đấu vì các mục tiêu của tổ chức và chấp nhận, thậm chí có sáng kiến đề ra
những thay đổi thích hợp, người cơng nhân có y muốn làm việc tốt hơn chứ
khơng phải làm theo lệnh cấp trên.
Điều chỉnh nguồn lực.
Điều chỉnh về số lượng và chất lượng nguồn lực. Có thể phải nâng cao tay
nghề, trình độ chun mơn cho nguồn nhân lực để thực hiện hiệu quả một chiến
lược nào đó.
Đảm bảo nguồn lực.
Nhiệm vụ hàng đầu của ban lãnh đạo là đảm bảo sao cho có đủ nguồn lực
phục vụ cho hoàn thành chiến lược. Một sai lầm thường mắc phải là cung cấp các
nguồn lực không tương ứng với các chiến lược cụ thể nhất định. “Cửa sổ
Page 3
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
chiến lược” nghĩa là những cơ hội nhất định chỉ tồn tại trong một khoảng thời
gian ngắn. Nếu doanh nghiệp chưa chuẩn bị sẵn sàng để đảm bảo các nguồn lực
cần thiết trong khoảng thời gian ngắn nói trên thì cửa sổ sẽ khép lại, chỉ có những
tổ chức hành động mau lẹ mới có khả năng tranh thủ được cơ hội đó.
1.2. Phân khúc thị trường
Phân khúc thị trường có thể được định nghĩa là “sự chia nhỏ thị trường
thành các nhóm khách hàng riêng biệt theo nhu cầu và thói quen mua hàng”.
Phân khúc thị trường là một biến số quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
vì:
Thứ nhất, những chiến lược phát triển thị trường, phát triển sản phẩm,
thâm nhập thị trường và đa dạng hóa địi hỏi sự gia tăng doanh số bán hàng thông
qua những sản phẩm và thị trường mới.
Thứ hai, sự phân khúc thị trường cho phép doanh nghiệp có thể họat động
với những nguồn lực có hạn, ví nó khơng địi hỏi phải sản xuất đại trà, phân phối
rộng rãi, và quảng cáo rầm rộ, nên có thể thúc đẩy một cơng ty nhỏ cạnh tranh
với cơng ty lớn nhờ tối đa hóa lợi nhuận trên một đơn vị và doanh số bán hàng
trên một phân khúc. Việc đánh giá các phân khúc thị trường tiềm năng đòi hỏi
các nhà quản trị chiến lược phải xác định đặc điểm và nhu cầu của người tiêu
dùng, phân tích giống nhau và khác biệt về người tiêu thụ, và phát triển hình ảnh
về các nhóm khách hàng.
1.3. Định vị sản phẩm
Một sai lầm nghiêm trọng mà các công ty thường mắc phải là họ cho rằng
họ biết những khách hàng mong muốn cái gì. Nhiều cơng ty đã thành cơng nhờ
lấp đầy khỏang trống giữa những gì khách hàng có nhu cầu và nhà sản xuất cho
là một sản phẩm tốt. Cái mà khách hàng cho là dịch vụ tốt là điều quan trọng nhất
chứ không phải cái mà nhà sản xuất tin rằng đó mới là dịch vụ tốt. Việc xác định
các khách hàng mục tiêu và dựa vào đó để tập trung các nỗ lực marketing đã thiết
lập quyết định: làm như thế nào để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của nhóm
khách hàng đặc biệt, là mục đích của định vị sản phẩm.
Page 4
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Một chiến lược định vị sản phẩm hữu hiệu thỏa mãn 2 tiêu chuẩn: (1) nó
phân biệt doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, và (2) nó khiến cho khách
hàng mong đợi một lượng dịch vụ hơi ít hơn lượng mà cơng ty có thể cung cấp.
Các cơng ty khơng nên tạo ra sự mong đợi lớn hơn lượng dịch vụ công ty có thể
hay sẽ cung cấp. Điều này ln là một thách thức đối với các nhà tiếp thị. Các
công ty cần thông báo cho khách hàng cái mà họ mong đợi và sau đó thực hiện
tốt hơn lời hứa; hứa ít và sau đó làm nhiều.
Page 5
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN 2: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MICROSOFT
2.1. Bước đầu thành lập
Microsoft là một tập đoàn phần mềm lớn nhất thế giới, được thành lập năm
1975 bởi Willam H.Gates, III và Paul Allen, hai người bạn từ thời niên thiếu cùng
có chung niềm đam mê đối với lập trình máy tính. Ngày 01-01-1975, sau khi đọc
tờ tạp chí Điện tử phổ thơng đăng tin về việc sản xuất máy tính Altair 8800, Bill
Gates - đang là sinh viên năm thứ hai của trường Harvard - đã gọi cho nhà sản
xuất MIST (Micro Instrumentation and telemetry Systems) đề xuất viết ngơn ngữ
lập trình cho máy này.
Gates chẳng có một trình thơng dịch cũng như một hệ thống Altair nào.
Ông và Paul đã phải tranh thủ làm việc 8 tuần trên máy tính của trường để hồn
thành bản demo của BASIC - ngơn ngữ lập trình đầu tiên được viết cho máy tính
cá nhân. Kết quả là bản demo đã chạy tốt và được MIST chấp nhận. Sau đó, Paul
Allen gia nhập MIST, trở thành giám đốc phần mềm; còn Bill nhận ra giá trị to
lớn của ngành phát triển phần mềm từ thành cơng ban đầu đó, anh hiểu rằng thời
cơ của mình đã đến.
Bill quyết định bỏ học và ngày 04-04-1975, Microsoft (tên viết tắt của
Microcomputer software - Phần mềm cho máy tính cá nhân) ra đời tại
Albuquerque, New Mexico. Khơng ít bạn bè người thân khi đó đã chỉ trích việc
bỏ học của Bill, nhưng cho tới bây giờ, thực tế đã chứng minh được rằng Bill đã
đúng.
Ngày 29-10-1975, cái tên Microsoft lần đầu tiên xuất hiện xuất hiện trong
một bức thư của Bill Gates gửi cho Paul Allen. Ngày 26-10-1976, Microsoft
chính thức được đăng ký thương hiệu như chúng ta đã biết ngày nay.
Những khách hàng đầu tiên của Microsoft phải kể đến hãng sản xuất máy
tính non trẻ Apple, nhà sản xuất máy tính PET Comodore và Tandy Corporation
chuyên về loại máy tính Radio Shack TRS-80. Năm 1997, Microsoft cho ra mắt
Page 6
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
sản phẩm ngơn ngữ lập trình thứ hai là Microsoft Fortran. Cũng trong năm này,
Bill Gates chính thức trở thành chủ tịch Microsoft Corp, cịn Paul Allen là phó
chủ tịch.
2.2. Những bước phát triển
Trong suốt hơn 30 năm qua, tập đoàn Microsoft đã tăng trưởng không
ngừng với một tốc độ đáng kinh ngạc, luôn nhận được sự chú ý cũng như ngưỡng
mộ của công chúng. Rất nhiều thanh niên Mỹ đã xem Bill như một tấm gương
sáng noi theo. Lịch sử hình thành và phát triển của Microsoft luôn gắn với những
bước ngoặt mang tính đột phá trong việc tạo ra các sản phẩm công nghệ phần
mềm thế hệ mới.
2.2.1. MS – DOS
Năm 1979, Gates và Allen dời công ty tới Bellevue, Washington. Với 25
nhân cơng, một vài sản phẩm ngơn ngữ máy tính mới và doanh thu hàng năm đạt
khoảng 2,5 triệu đô la, Microsoft đã xin được giấy phép sử dụng hệ điều hành
UNIX và phát triển hệ XENIX - hệ điều hành cho máy tính thu nhỏ. Năm 1980,
IBM chọn Microsoft viết hệ điều hành cho máy tính cá nhân của họ. Dưới áp lực
về thời gian, Microsoft đã chọn mua lại 86-DOS từ một công ty nhỏ tên là Settle
Computer Products với giá 50000 đơ la rồi cải tiến nó thành MS-DOS (Microsoft
Disk Operating System).
Là một phần trong hợp đồng với IBM, Microsoft được phép cấp phép sử
dụng hệ điều hành này cho các công ty khác. tới năm 1984, Microsoft đã cấp
phép sử dụng MS-DOS cho 200 nhà sản xuất máy tính cá nhân, biến MS – DOS
trở thành hệ điều hành chuẩn cho máy PC và giúp Microsoft có bước phát triển
vượt bậc trong thập kỷ 80. Năm 1983, Allen rời khỏi cơng ty nhưng vẫn có chân
trong ban giám đốc tới năm 2000 và tiếp tục là cổ đơng chính của Microsoft.
2.2.2. Phần mềm ứng dụng
Cùng với sự thành công của MS-DOS, Microsoft bắt đầu phát triển các
phần mềm ứng dụng cho máy tính cá nhân. Năm 1982, họ cho ra đời Multiplan,
Page 7
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
một chương trình bảng tính, năm tiếp theo là chương trình xử lý văn bản,
Microsoft Word. Năm 1984, Microsoft là một trong số ít các công ty phần mềm
phát triển các ứng dụng cho máy Macintosh – máy tính cá nhân do Apple
Computer sản xuất. Những phần mềm này bao gồm Word, Excel và Work (Một
bộ phần mềm tích hợp) đã đạt được thành công to lớn.
2.2.3. Windows
Năm 1985, Microsoft cho ra đời sản phẩm Windows, một hệ điều hành sử
dụng giao diện đồ họa người dùng với những tính năng mở rộng của MS-DOS
trong nỗ lực cạnh tranh với Apple Computer. Windows khởi đầu được phát triển
cho những máy tính tương thích với IBM (dựa vào kiến trúc x86 của Intel), và
ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều được tạo ra cho kiến trúc này
(tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ thống xuyên cấu trúc cho bộ
xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các cấu trúc PowerPC và DEC
Alpha.
Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý của Intel trở nên phổ biến hơn
và ngược lại. Năm 1987, Windows 2.0 ra đời với cách làm việc được cải tiến và
hình thức mới hơn. Năm 1990 là phiên bản Windows 3.0 mạnh hơn, rồi kế đó là
Windows 3.1 và 3.11. Những phiên bản này được cài sẵn trong hầu hết các máy
tính cá nhân nên đã nhanh chóng trở thành hệ điều hành được sử dụng phổ biến
nhất. Trong năm này, Microsoft đã trở thành hãng sản xuất phần mềm máy tính
đầu tiên đạt kỷ lục 1 tỷ đơ la doanh thu hàng năm.
Năm 1993, Microsoft tung ra sản phẩm Windows NT, một hệ điều hành
cho môi trường kinh doanh. Một năm sau đó họ đạt được thừa thuận với bộ tư
pháp trong việc thay đổi cách các hệ điều hành được đăng ký và bán cho các nhà
sản xuất máy tính.
Năm 1995, Windows 95 đã được ra mắt với một giao diện hoàn toàn mới
với nút và menu Start, cho người dùng truy nhập các chương trình đã cài đặt và
nhiều chức năng khác của hệ điều hành. Hàng triệu bản copy của Windows 95 đã
được bán hết chỉ trong bốn ngày đầu. Vào tháng 9, chính phủ Trung Quốc đã
Page 8
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
chọn Windows làm hệ điều hành được sử dụng ở nước này và thừa thuận với
Microsoft chuẩn hóa phiên bản tiếng Trung của hệ điều hành này.
2.2.4. Những thành công gần đây
Bất chấp những rắc rối trên pháp đình về tội lạm dụng độc quyền,
Microsoft vẫn tiếp tục có những thành cơng bước đường kinh doanh của mình.
Tới giữa thập kỷ 90, Microsoft đã bắt đầu mở rộng sang các lĩnh vực giải trí,
truyền hình và truyền thơng... Năm 1995, Microsoft thành lập Microsoft Network
chun cung cấp thơng tin, tin tức, giải trí và thư điện tử cho người dùng máy
tính cá nhân.
Năm 1996, Microsoft liên kết với hãng truyền thông NBC cho ra đời
MSNBC. Cũng trong năm này, Microsoft giới thiệu sản phẩm Windows CE dành
cho PDA. Năm 1997, Microsoft trả 425 triệu đô la để mua WebTV Networks,
nhà cung cấp các thiết bị kết nối TV với Internet giá rẻ. Microsoft cũng đầu tư 1
tỷ đô la vào Comcast Corporation, nhà điều hành truyền hình cáp
ở Mỹ như một phần trong nỗ lực mở rộng khả năng kết nối Internet tốc độ cao.
Tháng 6/1998, Microsoft tung ra phiên bản Windows 98 có kết hợp các
tính năng hỗ trợ Internet.
Năm 1999, Microsoft trả 5 tỷ cho công ty truyền thông AT&T Corp để sử
dụng hệ điều hànhWindows Ce cho các thiết bị cung cấp cho khách hàng với
truyền hình cáp, điện thoại và các dịch vụ Internet tốc độ cao. Cũng năm 1999
công ty phát hành Windows 2000, phiên bản cuối cùng của Windows NT. Tháng
một năm 2000, Bill Gates chuyển giao vai trò điều hành cho Steve Ballmer. Bản
thân Bill Gates vẫn giữ ghế chủ tịch, đồng thời là kiến trúc sư trưởng chuyên phát
triển các sản phẩm và công nghệ mới.
Năm 2001 Microsoft phát hành Windows XP, hệ điều hành cho người tiêu
dùng đầu tiên không dựa trên MS-DOS. Cũng trong năm này Microsoft giới thiệu
Xbox, một thiết bị Video game của cơng ty. Trong chiến lược cơng ty cũng có sự
chuyển hướng khi tuyên bố một chiến lược mới mang tên .Net (Dot Net). Chiến
lược này tìm kiếm khả năng cho phép các thiết bị đa dạng như PC, PDA,
Page 9
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
điện thoại di động kết nối với nhau qua Internet, đồng thời tự động hóa các chức
năng của máy tính.
Trong thế kỷ 21, Microsoft sẽ phát triển các chương trình kinh doanh bao
gồm các phiên bản mới của Microsoft Network, kết nối không dây cho Internet.
Năm 2003, công ty bắt đầu chú trọng vào “máy tính đáng tin cậy” địi hỏi các lập
trình viên phải cải thiện khả năng bảo vệ của phần mềm trước sự tấn công của
virus và các phần mềm gián điệp. Gần đây nhất là hệ điều hành Windows Vista
đã được khá nhiều người chấp nhận với tốc độ nhanh gấp hai lần so với Windows
XP, cụ thể chỉ trong tháng đầu tiên phát hành đã bán được 20 triệu bản.
Sự thành cơng của Microsoft cịn được thể hiện qua sự gia tăng liên tục gấp
nhiều lần qua các năm của giá cổ phiếu và các chỉ tiêu tài chính của cơng ty như
tổng doanh thu và thu nhập rịng.
Một số chỉ tiêu tài chính của Microsoft trong ba năm gần đây.
Chỉ tiêu
30 - 06 - 2004
30 - 06 - 2005
30 - 06 - 2006
Tổng doanh thu
36,835,000
39,788,000
44,282,000
Thu nhập ròng
8,168,000
12,254,000
12,599,000
Từ những thành cơng trên, người ta thấy được đằng sau nó là hình bóng
của một phong cách quản trị riêng rất Bill Gates, thể hiện ở nhiều mặt. Sau đây
là một số nghệ thuật quản trị của Microsoft trong lĩnh vực nhân sự và chiến lược.
Page 10
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN 3: QUẢN TRỊ NHÂN SỰ
Quản trị nhân sự là một lãnh vực phức tạp và khó khăn, nó bao gồm nhiều
vấn đề như tâm lý, sinh lý, xã hội, triết học, đạo đức và thậm chí cả dân tọc học.
Nó là một khoa học nghệ thuật - nghệ thuật quản trị con người. Đối với Mricosoft
quản trị nhân sự là nhân tố quan trọng đưa đến thành cơng của cơng ty. Chính
sách quản trị nhân sự chủ yếu nằm trong chính sách tuyển dụng, kiến tạo mơi
trường làm việc và chính sách đãi ngộ.
3.1. Chính sách tuyển dụng
Cũng như một đồn qn khi ra trận, yếu tố thành bại ở đây là nhân tố con
người với trí thơng minh và lịng quả cảm của họ. Chính sách tuyển dụng người
tài bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu tại Microsoft.
Microsoft cố gắng thuê được những người thơng minh, hay cịn có thể gọi
là khôn ngoan cũng được, tùy theo cách hiểu của mỗi người về hai từ này. Tiêu
chuẩn được nói một cách ước lệ ở đây là: những người nằm trong số 5% thông
minh nhất hành tinh trong lĩnh vực chuyên môn của họ.
Vậy thông minh nhất được hiểu như thế nào? Điều đó tùy thuộc vào cơng
việc mà họ sẽ làm, là người quản lý sản phẩm hay lập trình, là luật sư hay kế
tốn... của cơng ty. Phải hiểu là chọn những người khôn ngoan nhất cho công
việc của họ và từ khóa là khơn ngoan chứ khơng phải biết nhiều.
Người thơng minh là người có khả năng khởi động sớm bộ não để suy
nghĩ. Họ có vai trị quan trọng chủ chốt, bởi vì những người này có thể nắm bắt
được lỗi lầm sớm nhất và sẽ bắt kịp với cách làm việc hiệu quả hơn trong công
việc, do vậy tiết kiệm thời gian trong hoạt động của chính mình cũng như tiết
kiệm thời gian, tiền bạc của cơng ty.
Tại Microsoft phải thật thơng minh mới có thể thành công được. Những
con người thông minh chỉ luôn mong được làm việc với những người thông
minh. Các nhân viên tại Microsoft phải là những người thật giỏi bởi rồi họ sẽ
phải làm việc với những người cũng rất thông minh. Một trong những điều thú
Page 11
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
vị là làm việc tại Microsoft cho dù là người thông minh đến mức nào thì họ vẫn
ln phải cố gắng hàng ngày tương xứng với cơng việc của mình.
Để tuyển được các nhân tài cho hãng, bộ phận nhân sự do David Pritchard
làm giám đốc đặt nhiệm vụ áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhất để tuyển và đào
tạo ra các siêu nhân. Việc lựa chọn người được tiến hành dưới nhiều hình thức.
Hàng chục nhân viên làm việc theo kiểu săn đầu người chuyên theo dõi các
chuyên gia giỏi nhất của các hãng nổi trội trong công việc mà bản lĩnh và tài năng
đã được thừa nhận. Các nhân viên của Microsoft tiếp xúc cơng khai hoặc bí mật
với họ; lơi kéo, mua chuộc bằng các ưu thế vật chất và tinh thần của Microsoft, vì
biết rằng riêng cái tên Microsoft đã có sức lơi kéo rất lớn đối với đa số các
chuyên gia tin học ở Mỹ cũng như ở nước ngồi. Những nhân tài này cịn có thể
tiềm ẩn trong số các sinh viên của các trường đại học, thông qua bảng điểm và
khả năng sáng tạo qua các kỳ thi hay các hội chợ lớn. Nhưng việc lựa chọn khơng
chỉ bó hẹp trong ngành chun mơn tin học. Là một cơng ty hàng đầu, năng động,
Microsoft cịn nhắm cả vào đội ngũ các chuyên gia tài chính, marketing, tổ chức
mạng lưới thương mại.... Điều bắt buộc đó là những người
cực kỳ giỏi vì Pritchard đã từng nói: Khi tuyển nhầm những người có khả năng
trung bình thì đó là chuẩn bị cho ngày tàn của Microsoft!
Sau khi lọc lựa hàng nghìn hồ sơ để chọn một, nhờ có hệ thống xử lý thông
tin tin học đánh giá một cách tổng hợp, các ứng cử viên phải qua một đợt phỏng
vấn. Một nhóm 4-5 người của bộ phận nhân sự sẽ tiến hành phỏng vấn đối với
những người dự tuyển. Mỗi người phỏng vấn một giờ và từng người phỏng vấn
lần lượt. Tất nhiên câu hỏi rất khó, có thể làm nản lòng những người tự tin nhất.
Song các giám khảo không cho câu trả lời đúng hay sai là quan trọng. Cái họ
quan tâm là năng lực tư duy để xác định cách ứng xử thông minh và nhanh nhạy
của mỗi ứng cử viên trước mỗi tình huống khó cần giải quyết. Đối với cuộc
phỏng vấn kỹ thuật có những câu hỏi về lập trình, câu hỏi nọ nối tiếp câu hỏi kia,
trong lúc đó các ứng cử viên này phải viết ra một chương trình ngắn để trả lời.
Đối với vị trí của người quản lý phần mềm thì thí sinh này được
Page 12
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
trao cho các tình huống và cách họ sẽ giải quyết các tình huống đó như thế nào.
Nếu những câu trả lời chung chung thì ứng cử viên sẽ được đẩy vào các tình
huống đặc biệt và chứng tỏ ứng cử viên không biết rõ chủ đề. Mỗi người phỏng
vấn ngay khi cuộc phỏng vấn kết thúc đều phải gửi e-mail cho tất cả những người
phỏng vấn khác với chỉ một từ “thuê” hay “không thuê”.
Microsoft tuyển dụng nhân viên, đánh giá con người không dựa vào bằng
cấp của họ bằng chứng là họ tuyển cả người còn chưa tốt nghiệp được trung học
cũng như ngành tin học. Nhưng những người này lại được trả lương như những
người có bằng cấp. Khơng có lý do gì trong bất kỳ một ngành cơng nghiệp nào
mà lại khơng th một người có phẩm chất đơn thuần chỉ vì họ khơng có bằng
cấp cả, tất cả vấn đề là những người ấy có thể thực hiện cơng việc tốt đến đâu.
Được nhận vào Microsoft, có thể ai đó đã tự hào là một nhân tài rồi đấy.
Nhưng chưa phải là đã yên vị, còn phải biết cố gắng liên tục để giữ ghế. Cứ 6
tháng một lần, mọi người phải trải qua các cuộc đánh giá hiệu quả làm việc.
Những cuộc đánh giá như vậy sẽ cho thấy một người có làm tụt hậu cơng ty
khơng, nếu có chắc kết quả sẽ là gì rồi. Kết quả đánh giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến việc thăng tiến nghề nghiệp của bạn, mức lương, số cổ phiếu được phân phối.
Để minh chứng cho việc tuyển dụng này xin giới thiệu về quy trình tuyển
dụng của Microsoft, được biết đến với tên gọi “vở kịch ba màn”. Màn thứ nhất –
chỉ đơn thuần là việc phỏng vấn tuyển lựa sơ bộ qua điện thọai. Người phỏng vấn
gọi điện cho ứng viên và nói chuyện với anh ta khoảng chừng 30 phút. Trong
cuộc phỏng vấn mở màn này, ứng viên thường gặp phải những câu hỏi truyền
thống, còn những bài tốn đố rất ít khi được áp dụng ở đây. Đôi khi, ứng viên
cũng sẽ gặp những câu hỏi kiểu như “Bạn sẽ kiểm nghiệm lọ rắc muối tiêu như
thế nào?”. Những câu trả lời qua điện thoại của ứng viên sẽ giúp nhà tuyển dụng
ra quyết định, liệu có nên mời ứng viên đến trụ sở chính của Microsoft ở
Redmond hoặc ở những nơi khác để tham dự vào các màn tiếp theo của vở kịch
hay không.
Page 13
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Vở kịch phỏng vấn thường kéo dài cả một ngày. Buổi sáng, các nhân viên
tuyển dụng của Microsoft nhận được danh sách ứng viên mà họ cần phải phỏng
vấn, đương nhiên, ứng viên không thể biết được danh sách này. Thông thường,
mỗi một ứng viên sẽ phải trải qua 6 cuộc phỏng vấn Trong danh sách họ tên của
chuyên gia phỏng vấn cuối cùng thường có kèm thêm dịng chữ “nếu cần thiết”,
nghĩa là trong tất cả các cuộc phỏng vấn trước, nếu ứng viên đã “trả bài” một
cách xuất sắc, gần như chắc chắn là anh ta sẽ được nhận vào làm. Thông thường,
người phỏng vấn “nếu cần thiết” này chính là sếp của ứng viên mới và là người
ra quyết định cuối cùng có tiếp nhận họ vào làm việc hay khơng.
Trong quá trình phỏng vấn, nhân viên tuyển nhân sự của Microsoft thường
bí mật trao đổi ý kiến với nhau thơng qua thư điện tử hoặc các cách khác mà họ
quy ước với nhau. Họ thường dẫn ứng viên đến phòng làm việc của người phỏng
vấn tiếp theo và có thể trao đổi thơng tin qua cái bắt tay. Tín hiệu thường là ngón
tay cái chỉ lên hoặc cụp xuống. Trong mọi trường hợp, mỗi nhân viên phỏng vấn
phải gửi thông tin “phản hồi” cho các đồng nghiệp. Thông thường, đánh giá tóm
tắt về ứng viên được gửi qua e-mail đến tất cả các phỏng vấn viên đã và sẽ phỏng
vấn. Trong nhiều trường hợp, thơng tin đó đến với người nhận lúc đang giữa cuộc
phỏng vấn.
Các đánh giá, nhận xét về ứng viên thường tuân theo một nguyên tắc nhất
định: chỉ có 2 phương án - “nhận” hoặc “khơng nhận” vào làm việc. Và sự đánh
giá này được mã hóa bằng hai số 0 hoặc 1.
Sau 3 cuộc phỏng vấn đầu mà nếu như nhân viên tuyển dụng cảm thấy
chẳng đi đến đâu, buổi phỏng vấn tiếp theo (được tổ chức nguyên cả buổi chiều)
thường bị hủy mà nguyên nhân thường được hiểu là do tắc đường, chậm máy bay,
sự vắng mặt của nhân viên hoặc vô vàn các lý do cá nhân đột xuất khác. Những
diễn biến tiếp theo có thể so sánh với một cuộc tìm kiếm vơ vọng. Chuyên gia
phỏng vấn với tâm trạng ngao ngán, thất vọng sẽ vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện với
ứng viên khi quyết định loại bỏ họ chưa hoàn toàn trở nên quá lộ liễu. Có thể là
hơi lạ lùng, nhưng việc từ chối thông thường xảy ra vào bữa ăn
Page 14
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
trưa (người ta mua cho ứng viên bánh mỳ kẹp thịt, đưa ra vài lý do bào chữa cho
việc hỗn phỏng vấn, và rồi “Chúng tơi có số điện thoại của bạn. Khi cần chúng
tôi sẽ gọi điện”).
Hiển nhiên, các ứng viên khi đến dự phỏng vấn ở Microsoft đều không thể
biết rằng màn diễn đó thường xun xảy ra. Tình huống này cũng xuất hiện trong
danh sách dài ngoằng những lời khuyên dành cho ứng viên chuẩn bị phỏng vấn ở
Microsoft trên trang web của tập đồn: “Nếu trong tiến trình phỏng vấn bạn có ý
nghĩ muốn đánh giá xem việc trả lời của mình diễn ra có thuận lợi hay khơng, thì
hãy cố quân nó đi. Đừng thất vọng nếu bạn trả lời khơng đúng một câu hỏi nào
đó... có thể cảm giác của bạn khác với sự thật. (Chuyện này vẫn thường xảy ra
trong các cuộc thi, khi mà bạn cảm thấy mình đang làm sai bét nhưng thực tế lại
khơng hẳn vậy, hoặc ngược lại). Đừng đánh mất bản thân - những ứng viên như
vậy mới chính là những người mà chúng tôi cần”.
3.2. Môi trường làm việc
3.2.1. Sự liên kết các nhóm nhỏ năng động
Người ta thường nói đến Microsoft như là một công ty độc quyền khổng lồ
sẵn sàng nuốt chửng những gì nó gặp phải trên đường tiến. Tuy nhiên, do quy mô
lớn, các công ty loại này thường kém năng động hoặc chậm thay đổi để thích nghi
với thị trường hơn các cơng ty nhỏ, dẫn tới việc các cơng ty lớn thường trì trệ,
tăng trưởng chậm. Cịn Microsoft lại là ngoại lệ, mặc dù có quy mô khá lớn
nhưng công ty lại tăng trưởng như những cơng ty nhỏ. Vậy bí quyết nằm ở đâu?
Rõ ràng là nếu coi hiệu suất công việc là quan trọng thì nhóm làm việc nhỏ
là cách tổ chức tốt nhất. Các nhóm làm việc nhỏ thường có rất nhiều sáng tạo
trong công việc, đổi mới công nghệ, cải tiến để làm tăng hiệu suất chung. Cấu
trúc tổ chức được thiết kế theo nhóm dự án là hợp lý, vừa sát với công việc lại rất
dễ dàng đổi mới khi cần thiết. Vì vậy, Microsoft được tổ chức như là tập hợp các
nhóm làm việc nhỏ gọn. Cơng ty dành mọi ưu tiên tối đa về thời gian và nguồn
lực, phương tiện cho các nhóm. Trong cơng ty chỉ có vài bộ phận như bộ phận
làm nhiệm vụ thư tín - điện thoại, thông tin quản lý hay trung tâm quảng
Page 15
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
cáo, luật để đảm bảo sự hiện diện của công ty như một bức tranh thống nhất. Các
bộ phận này được quản lý bởi một trung tâm điều hành, theo dõi sự phối hợp giữa
các nhóm trong cơng ty mẹ. Cơng ty cũng cai quản các dự án theo nghĩa trong
khi từng nhóm kiểm sốt cơng việc của mình trong dự án thì nó cũng nằm cả
trong một chiến lược lớn của công ty.
Công ty lớn nhưng hoạt động vẫn linh hoạt như một cơng ty nhỏ, đấy chính
là một bí quyết của sự tăng trưởng nhanh chóng của Microsoft.
3.2.2. Đồn kết là sức mạnh
Tinh thần của tồn cơng ty là một ưu thế cạnh tranh cực kỳ lớn của
Microsoft. Khi cần tham gia một trận đánh lớn thì lúc đó tinh thần tồn công ty
gồm trên 30.000 người được bộc lộ mãnh liệt nhất, như đã thể hiện trong việc cho
ra đời phần mềm Internet Explorer trong một thời lượng kỷ lục là 9 tháng để đuổi
kịp và vượt Netscape Navigator. Với tinh thần đồn kết đó, tất cả đều cố gắng để
hồn thành bất kỳ việc gì, đều tập trung để đạt đến cùng một mục tiêu.
Để gắn kết mọi người với cơng ty, Microsoft có một chính sách để tất cả
các nhân viên đều sở hữu một phần dự án của mình. Hiển nhiên là tất cả những
người này đều phải làm việc với nhau nhưng mỗi người vẫn sở hữu riêng một
phần kết quả cơng việc của mình.
Điều chủ chốt tượng trưng cho tinh thần của tồn cơng ty là sự tập trung
tối đa vào một đề án của mỗi người. Sự tập trung này tạo cho mỗi nhân viên một
cái gì đó để sống và chết. Các nhân viên có thể sống, ăn, ngủ và thở theo dự án
của họ và họ sẽ làm như vậy. Điều này không phải là nói quá. Mọi người tại
Microsoft vào mọi lúc sẽ làm một chút ít gì đó khác hơn là việc ngủ và làm việc.
Họ thường làm việc ngoài giờ mà đấy là sự tình nguyện của họ chứ khơng phải
bởi vì họ được yêu cầu phải làm. Cách làm việc tập trung cũng cho phép nhân
viên đạt được hiệu suất hơn. và một môi trường hiệu suất giúp tái tạo ra tinh thần
tồn cơng ty bởi vì mọi người hạnh phúc hơn, sung sướng hơn.
Trong công ty thường tổ chức những buổi họp, sinh hoạt chung với mục
đích duy nhất là giải trí, và ở đó đã diễn ra nhiều trò chơi như những cuộc đấu
Page 16
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
gươm giữa những người quản lý cấp dưới và cấp trên chẳng hạn. Mọi người đều
cùng cười vui với nhau, mọi người đều có điều gì đó để nói về những ngày sắp
tới, tham dự vào những sự kiện chung là một phần chủ chốt để xây dựng nên tinh
thần của tồn cơng ty bên trong tổ chức. Phần lớn những cuộc chơi này đều kết
thúc với một bữa tiệc với những thức ăn tươi, ngon.
Điều này làm cho mọi người một cơ hội phụ để nói chuyện với nhau và
xây dựng nên tinh thần nhóm. Chạy quanh và bắn bóng hay súng phun nước
trong các phịng hoặc làm một cái gì đó rất thú vị là chuyện bình thường ở cơng
ty. Mọi người đang làm việc cũng đều cảm thấy vui vẻ. Vấn đề là họ quyết định
làm theo cách của riêng mình nên mọi sự họ làm nói chung khơng thể tìm thấy
được làm ở đâu khác nữa.
3.2.4. Nơi làm việc là nhà bạn
Từ những ngày đầu thành lập công ty, Bill Gates và Paul Allen đã đưa tác
phong làm việc của chính mình thành “chuẩn mực” của Microsoft. Họ muốn làm
cho các nhân viên của mình thật là thoải mái, đạt hiệu suất và sung sướng nhất có
thể trong cơng việc. “Chuẩn mực” đó là gì vậy? Câu trả lời tìm ở đâu?
Bạn hãy nhìn về gia đình. Mọi người thiết kế gia đình của mình để thành
một nơi mình cảm thấy thoải mái và thích thú nhất. Họ thiết kế văn phịng của gia
đình để là một nơi có thuận tiện, dễ dàng làm việc, dễ đạt hiệu suất cao.
Microsoft tạo cho tất cả các nhân viên làm việc chính thức có văn phịng
riêng của mình, cịn những người làm việc hay thực tập nội trú thì dùng chung
một văn phịng thay cho phịng riêng cho mỗi người. Trong đó, tất cả mọi người
đều có khơng gian riêng tư của mình. Đó là của họ. Họ có thể đóng cửa lại, bật
nhạc lên, điều chỉnh ánh sáng và làm việc.
Tại Microsoft, văn phịng mới nói chung giống nhau cho tất cả mọi người.
Các tay lập trình, thiết kế và phó chủ tịch có được văn phịng rộng gấp đơi. Các
nhân viên có quyền tạo ra mơi trường làm việc ưa thích riêng của mình, họ có thể
bày biện văn phịng của mình để ứng với nhu cầu đặc biệt của họ. Bạn có thể
Page 17
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
treo lên những bức tranh ảnh, kim loại nặng lên tường, các đèn lên trên bàn làm
việc của mình, rồi các bức tranh, đồ hoạ... lên cửa nếu bạn quyết chọn như vậy.
Nhiều văn phịng ở Microsoft đều có cửa sổ. Một lần nữa điều này lại tuân
theo hướng dẫn về việc tưởng tượng ra một văn phịng gia đình vì thực tế khơng
ai có một văn phịng gia đình lại khơng có một cửa sổ nào cả. Theo quan điểm đó,
gần đây Microsoft xây thêm các toà nhà nhỏ hơn chứa khoảng 200 văn phòng và
được thiết kế để sao một nửa các văn phịng có cửa sổ. Kích cỡ tồ nhà nhỏ giúp
cho duy trì được mơi trường thân thiện hơn. Tồn bộ tổ dự án Windows 95 có một
tồ nhà riêng, nó có thể vận hành về mặt vật lý như một đơn vị tách biệt.
Trong khi tại một số công ty lớn chẳng hạn như IBM nhân viên phải tuân
theo những quy tắc ăn mặc rất nghiêm ngặt và sử dụng những loại xe vừa phải thì
tại Microsoft khơng có luật quy định về ăn mặc tại Microsoft. Thay cho các bộ
comlê và carvat mà ta thấy ở các công ty khác, ở Microsoft, trong mùa hè, ra lại
thấy các kiểu áo cộc, áo phông và mọi thứ khác. Cũng như vậy, bản tin
MicroNewws của cơng ty có đưa ra một lời thông báo rằng đi chân đất ở mọi nơi
đều chấp nhận được, thậm chí khi vào quán cafe. Tóm lại, làm việc tại nhà bạn
mặc gì thì các nhân viên có thể cũng mặc theo cách như thế ở chỗ làm việc. Mặc
dù chưa thấy ai mặc một bộ đồ tắm để làm việc, nhưng điều đó chắc cũng được
chấp nhận.
Ở Microsoft có một phịng cung cấp ln mở. Bất kỳ thứ gì thơng dụng
đều có sẵn để cho mọi người lấy dựng. Máy photocopy nếu bạn cần có thể tới đó.
Với bất kỳ cái gì ít được sử dụng thường xuyên thì nhận viên gửi e-mail tới chỗ
cung cấp và thứ yêu cầu đó sẽ được giao vào ngày hơm sau.
Ở Microsoft khơng có việc quy định giờ làm việc với các nhà lập trình và
điều hành. Tuy nhiên, một số vị trí cần làm đúng giờ như nhân viên hỗ trợ kỹ
thuật, nhân viên tiếp tân của tồ nhà. Các nhân viên có thể chọn giờ làm việc của
mình nhưng phải có những khoảng thời gian xác định hàng ngày. Mọi người có
thể bắt đầu vào những thời gian khác nhau và làm việc theo những giờ khác
Page 18
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
nhau mỗi ngày. Liệu điều này có dẫn đến mọi người làm việc ít hơn khơng?
Ngược lại phần lớn mọi người đều làm ít nhất 10 giờ một ngày. Khơng có hệ
thống ghi hay kiểm tra giờ giấc nhân viên. Nhân viên được đánh giá dựa trên
cơng việc họ phải hồn thành. Khơng cần địi hỏi nhiều hơn cũng khơng ít hơn.
Microsoft có nhiều quán cafe tại chỗ. Điều này quan trọng vì chúng giúp
các nhân viên không cần phải rời khỏi chỗ để đi ăn. Trong quán có cả món đặc
sản, cafe trong một tồ nhà này thì ăn chay,nơi khác phục vụ người sành ăn bánh
pizza, hay món ăn dân tộc. Tất nhiên cũng có những quán cafe cung cấp bánh mỳ
kẹp thịt, xa lát... ăn tại chỗ giúp ích cho cơng việc. Một lợi ích phụ xuất hiện là
các nhóm làm việc trên một dự án hoặc có cuộc họp mở rộng thì có thể kéo nhau
tới một qn cafe để thảo luận ở đó, khơng có sự gián đoạn trong những luồng
suy nghĩ nhóm, với cafe, thức ăn ngon lành, khơng khí thoải mái họ khơng có các
đặc điểm như ở khách sạn bốn sao nhưng phục vụ thì tốt hơn nhiều. Giống như
nước uống được cung cấp miễn phí, cafe cũng được dựng thoải mái trong môi
trường tốt hơn ở nhà với nhiều thứ dễ chọn. Bill cũng ăn trong những qn cafe
hay ngay tại phịng làm việc. Khơng có các phịng ăn cho khách đặc biệt vì các
chế độ đặc biệt cho các nhân viên cao cấp chỉ gây hại cho đạo đức cơng ty. Vì vậy
Bill khơng đi xe sang trọng, đi máy bay cũng chỉ ngồi ghế thường thay vì ngồi
ghế hạng nhất. Phịng làm việc của Bill cũng nhỏ và khiêm tốn, thậm chí trong
thời gian dài Bill đã không chấp nhận bãi đỗ xe dành riêng cho mình, cho đến đầu
thập niên 90.
Cách tổ chức nơi làm của công ty chỉ nhằm một mục đích là làm tăng thêm
tinh thần làm việc của nhân viên và do đó tăng thêm năng suất của từng thành
viên. Chế độ trả lương trực tiếp cũng giữa cho họ tập trung vào công việc. Thực
tế các nhân viên trong hãng sẽ dành nhiều giờ hơn cho công việc của họ, do đó,
Microsoft đã nhận được ích lợi tối đa từ từng nhân viên của mình.
Page 19
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
3.3. Chính sách đãi ngộ
3.3.1. Quan niệm về sai lầm
Ơng cha ta thường nói: "Một lần ngã là một lần bớt dại, ai nên khôn mà
chẳng dại đôi lần!". Ở Microsoft người ta không sợ thất bại và sai lầm, và đơi khi
cịn hơn thế nữa: sai lầm được coi là tất yếu, điều có thể xảy ra với tất cả mọi
người. Nói cách khác, thượng đế không ban cho ai đặc quyền tránh được sai lầm
hay thất bại. Các nhà lập trình làm sao lại khơng phạm lỗi vơ ý nào đó trong
chương trình máy tính được? Những lỗi này là do các điều kiện họ đã không xem
xét tới, không hiểu một cách đầy đủ vấn đề hay hệ thống, sai phạm khi gõ vào
máy... Các công ty phần mềm phải chấp nhận rằng các nhân viên của mình khơng
phải lúc nào cũng tuyệt đối hoàn hảo và rằng sai hỏng là một phần thường xuyên
của công việc tạo ra các phần mềm. Và chừng nào chúng khơng ngây ngơ q
đáng thì về cơ bản chúng sẽ bị quên đi và bỏ qua. Vấn đề mấu chốt là tìm ra các
hỏng hóc nhanh chóng nhất có thể được và tìm mọi cách để khắc phục chúng.
Để hiểu về những sai lầm được chấp nhận hay thậm chí cịn được khuyến
khích ở Microsoft ta hãy hình dung một tình huống có thể xảy ra tại các doanh
nghiệp khác về việc tổ chức triển lãm của hãng. Nếu người điều hành chấp thuận
một cuộc triển lãm và thế rồi cuộc triển lãm đó thất bại thì thường người này sẽ
bị sa thải, nhưng nếu người đó khơng chấp nhận việc triển lãm thì cơng việc của
người đó chẳng có rủi ro gì xảy đến cả. Đa số những công ty kinh doanh lớn đền
làm việc và đánh giá nhân viên theo phương châm: "Thành cơng là tốt, nhưng
thất bại thì khơng thể chấp nhận được".
Tại Microsoft nếu thất bại là nhanh chóng thì được chấp nhận nhưng thất
bại chậm chạp thì lại khơng chấp nhận được. Nhưng thậm chí cịn khơng chấp
nhận được hơn là không thất bại. Nếu người ta không bao giờ thất bại thì người ta
khơng thể cố gắng vươn lên. Thất bại có nghĩa là phải cố gắng làm theo một cách
khác hay làm một cái khác trước. Trong phần lớn các trường hợp, bạn sẽ
Page 20
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
tìm ra một cách tiếp cận khác, một hệ thống khác, một giải pháp khác tốt hơn mà
sẽ phải áp dụng.
Thất bại nhanh chóng thơng thường là dẫn tới việc tìm ra một giải pháp
khác thành cơng một cách nhanh chóng mà khơng đóng lại toàn bộ dự án. Phần
lớn dự án thất bại thì được coi là khơng thất bại vì khơng cịn cách nào có thể làm
cho chúng đi đến thành cơng. Chúng ta đã đi sai đường và khơng ai có thể thay
đổi hướng đi một khi đã thành một điều hiển nhiên rằng con đường đó mang định
mệnh duy nhất - thất bại.
Một việc trình bày về trạng thái của dự án cho cấp quản lý cũng phải bao
gồm một điều là các nhân tố rủi ro hiện có của dự án và các rủi ro thực tế sẽ được
đo lường như thế nào? Không ai trong cấp quản lý lại có thể chấp nhận một báo
cáo trạng thái mà khơng có một danh sách các rủi ro được biết tới và chính yếu.
Tại Microsoft thất bại là được dự kiến, khơng ai đã thành cơng ở đó mà khơng có
một thất bại điển hình nào. Trong một vài trường hợp người chịu trách nhiệm cho
thất bại lại đáng được nêu gương bởi những điều họ học được từ các thất bại đó.
Có những thất bại có thể tránh được. Đơi khi kết quả của việc khơng có khả năng
hoặc là của yếu kém, điều chủ chốt là bạn hiểu tại sao các thất bại đó xuất hiện.
Tại Microsoft khơng có sự trừng phạt cho những thất bại khơng thể hiểu
được. Trên con đường đi tới thành công, bên cạnh những điều ngu dốt quá đáng
là những phần thưởng xứng đáng cho sự thành công, cho nên những nhân viên
của Microsoft sẽ cố gắng hết sức từ thành công này đến thành công kia mà không
phải quá lo lắng về những nỗ lực đó có thể khơng dẫn tới thành công. Điều quan
trọng nữa là các nhân viên sẽ không phí phạm nhiều thời giờ vào các nhiệm vụ
mà khơng có hiệu suất, được mang nghĩa bao quát bất kỳ sự khiển trách nào về
những sai lầm dẫn đến thất bại.
Ngay lập tức sau khi mỗi dự án được hoàn tất, Microsoft cũng như nhiều
công ty kỹ nghệ cao sẽ họp tổng kết dự án. Trong các cuộc họp, người ta luận về
mọi điều đó làm, làm đúng hay sai và những điều có thể để làm tốt hơn. Mục
Page 21
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
đích cuộc họp là để vạch ra cách thức tiến hành đó tốt hơn, ít sai lầm nhất vào lần
sau.
Các bài học về sai lầm được phổ biến rộng rãi cho mọi người rút kinh
nghiệm. Thu được bài học từ những sai lầm của người khác bai giờ cũng phải trả
giá thấp nhất. Trong cơng ty có quy tắc bất thành văn là một tin tức xấu đều phải
được phát tán, loan báo nhanh chóng. Mọi điều cảnh báo chỉ có giá trị khi ta biết
trước khi chúng có thể xảy đến.
Tại Microsoft, các nhân viên khơng phải lo lắng gì về sự bất đồng đơn giản
có lý do hợp lý đều được trơng đợi và mọi người đều thực hiện điều đó. Sự sẵn
sàng tranh đấu này và việc khơng có bất đồng nghiêm trọng với cấp quản lý đen
lại cho các nhân viên quyền lực phi thường. Khi có sự bất đồng thì người nhân
viên phải có một lý dio hợp lệ, cụ thể hỗ trợ và phải đưa ra được giải pháp tốt
hơn. ở đây, bất đồng với thủ trưởng không phải là điều đáng sợ, mà sợ nhất là
mình khơng nhìn ra sai lầm của chính mình.
3.3.2. Chính sách đãi ngộ
Khơng có nhiều phần thưởng được trao tại Microsoft. Phần thưởng trong
mọi trường hợp là cổ phiếu Microsoft bổ sung. Việc mua bán cổ phiếu không
phải là mục tiêu chủ chốt để xây dựng nên tinh thần tồn cơng ty, nhưng là cách
hiệu quả nhất và dễ dàng thực hiện nhất. Việc mua bán cổ phiếu cũng quan trọng
tương đương trong việc giữ mọi người ở lại cơng ty. Có một thực tế là hơn 5000
nhân viên Microsoft đã trở thành các triệu phú thông qua hoạt động cổ phiếu ưu
đãi (stock-option) - một điều chưa từng có ở bất kỳ một công ty nào trên thế giới.
Lương không phải là điều hấp dẫn nhất tại Microsoft. Bill Gates từng nói:
“Tơi khơng trả lương cao cho nhân viên, nhưng ai nấy đều thấy khoan khối vì
có cảm giác rằng mình là người đang thay đổi thế giới”. Thực tế, tiền lương
Microsoft trả cho nhân viên kém các công ty khác đến 15%. Nhưng không sao,
cái quan trọng là thu nhập từ stock-option mà tổng trị giá lên đến 25 tỷ.
Page 22
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Vốn đầu tư của Microsoft tăng lên liên tục, giá cổ phiếu - do công ty ăn
nên làm ra tăng không ngừng. Trong không đầy 3 năm, giá cổ phiếu tăng từ 23,4
USD lên khoảng 140 USD hiện nay. Các phân phối stock-option của Microsoft
cũng làm các nhân viên toàn tâm, toàn ý với cơng ty dốc lịng, dốc sức đưa cơng
ty đi lên.
Nhìn chung, cách quản trị nhân sự của Microsoft từ quy trình tuyển dụng
khắt khe cho đến phong cách quản lý nhân viên làm việc đều nhằm hướng đến
mục tiêu tuyển chọn và sử dụng những nhân tài, những người có tài năng thực sự.
Đây có thể là những người thơng minh nhất trong các lĩnh vực vì vậy cách thức
quản lý họ cũng phải phù hợp để có thể giữ được họ phục vụ cho công ty. Mỗi
người trong công ty sẽ cùng nhau làm việc, trở thành những đồng nghiệp của
nhau, do đó khơng ai được trở thành gánh nặng cho người khác. Microsoft cho
rằng chất lượng nhân sự là quan trọng nhất, quyết định đến năng suất của cơng ty.
Khơng có hệ thống quản lý nào dự tốt đến đâu có thể bù đắp được sự thiếu thốn
lực lượng nhân viên giỏi, nhưng có thể ngược lại.
Page 23
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
PHẦN 4: HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC
4.1. Chính sách “sản phẩm hướng người dùng”
Trong một nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển mỗi cơng ty phải
chọn cho mình một chiến lược tạo, củng cố, phát triển và cao nhất là chiếm lĩnh
thị trường. Đấy ln là vấn đề mang tính ngun tắc số một cần phải giải quyết.
Trong trào lưu toàn cầu hố kinh tế, nhất là đối với các cơng ty tầm cỡ toàn cầu,
vấn đề chịến lược cạnh tranh và chinh phục thị trường lại mang một ý nghĩa
quyết định.
Microsoft, dưới sự lãnh đạo của Gates, đã đặt nhiệm vụ trọng tâm là liên
tục tạo ra và cải tiến các phần mềm sao cho chúng ngày càng "thân thiện" hơn,
hiệu quả cao hơn do đó là hấp dẫn hơn đối với người sử dụng. Đấy là chính sách
"sản phẩm hướng người dùng". Với chính sách này, Gates và Microsoft đã và sẽ
tham gia vào mọi cuộc chơi trong các trận đấu phần mềm cho máy PC và giải
pháp mạng, sẽ làm bất kỳ những gì cần thiết để giành chiến thắng. Công ty đã mở
rộng, thiết lập hàng chục mối quan hệ với các đối tác và mua lại được nhiều sản
phẩm nổi tiếng để phát triển đáp ứng các yêu cầu đa dạng của khách hàng.
Trong quá trình phát triển thần tốc hơn 20 năm, công ty Microsoft ln đặt
nhu cầu của khách hàng lên vị trí hàng đầu trong chiến lược phát triển của cơng
ty, chính vì họ luôn tập trung vào các nhu cầu của khách hàng, phát triển ra thị
trường phần mềm máy tính rộng lớn như ngày hơm nay, từ đó làm cho cơng ty
Microsoft trở thành người ban hành quy tắt cho ngành cơng nghiệp phần mềm
máy tính. Với Bill Gates khách hàng mãi mãi là thượng đế, hàng loạt các phần
mềm do ông phát triển, kể cả các phần mềm nhỏ bé, cũng ln quan tâm đến nhu
cầu và lợi ích của khách hàng. Khơng chỉ có vậy, vào lúc quan trọng khi mà công
ty Microsoft phải đối mặt với nguy cơ liên quan đến vụ kiện “độc quyền” của toà
án Mỹ, Bill Gates vẫn ln nhìn nhận sự mê hoặc của những khách hàng của
Microsoft đối với cơng ty có thể bị thay đổi là một số vấn đề vô cùng quan trọng.
Do đó chủ tịch hội đồng quản trị Bill Gates và tổng giám đốc kiem CEO,
Page 24
Tiểu luận Quản trị học
SV: Đào Thị Mỹ Linh – Lớp Cao học Đêm 3 Khóa 16
Steve Ballmer đã gửi thư cho các khách hàng của công ty vào ngày 6 tháng 9 năm
2000. Trong thư đã chỉ ra cho đến nay 38000 nhân viên của công ty này vẫn đồn
kết nhất trí, cùng nhau làm việc để cung cấp cho khách hàng những công nghệ
mới nhất, và những công nghệ mới này sẽ liên kết mọi người bằng một phương
thức mới, nâng cao hiệu quả đối với việc giáo dục trẻ em và người lao động trí
óc, đồng thời có lợi cho việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế Mỹ. Trong vụ kiện
chống độc quyền của toà án, Bill Gates hiểu rằng, người quyết định vận mệnh của
Microsoft quyết khơng phải là tồ án Mỹ mà chính là những khách hàng rộng lớn
của Microsoft. Gates coi trọng nhất hai đối tượng, một là bạn hợp tác, hai là các
khách hàng sử dụng phần mềm. Nếu nói, đối với các đối tác Bill Gates đã thực
hiện rắn mềm đủ cả (hết dỗ dành đến đánh đập), thì ngược lại, Microsoft chăm
sóc khách hàng rất chu đáo. Tháng 12 năm 1994, Microsoft quyết định hỗn thời
gian ra mắt sản phẩm Window 95 đến tháng 8 năm 1995 để tiến hành kiểm tra thử
nghiệm ngặt hơn, mặc dù việc trì hoãn làm cho mức tăng trưởng thu nhập của
Microsoft trong quý 1 và quý 2 năm 95 giảm xuống 5%, lại cịn tiêu tốn hết cả
triệu đơ la trong năm có mức thu nhập tiềm năng.
Trong một số sản phẩm do Microsoft sản xuất, những ý kiến khách hàng từ
lâu đã là những điểm xuất phát quan trọng cho công tác nghiên cứu phát triển;
chẳng hạn việc kiểm nghiệm đã được bắt đầu năm 1992, cũng không lâu sau khi
công ty Microsoft cho ra đời Window 3.1. Người sử dụng do các cơng ty lựa
chọn lập thành các tổ nhóm chuyên môn nghiên cứu thảo luận cùng các kỹ sư,
đưa ra những kiến nghị mới đối với những chức năng và đặc tính của máy tính,
căn cứ những kiến nghị này, các kỹ sư đã thiết kế 10 loại lệnh cho Window 95,
gồm cả các biểu đồ giúp người sử dụng cảm thấy thân thiện hơn.
Để có thể lấy ý kiến từ các khách hàng Gates đã vận dụng triệt để triết lý
chu kỳ phản hồi tích cực. Triết lý này có nghĩa là một sản phẩm khi có nhiều
khách hàng, sản phẩm đó sẽ trở nên có giá trị hơn, điều này sẽ lại làm cho sản
phẩm trở nên có giá trị hơn, làm tăng tính hấp dẫn của sản phẩm đối với nhiều
khách hàng hơn. Càng thu hút nhiều khách hàng thì càng có nhiều thơng tin
Page 25