Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

bài thu hoạch TCCT ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.2 KB, 18 trang )

UBND TỈNH THANH HỐ
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

BÀI THU HOẠCH
Nội dung: Thực trạng thực hiện dân chủ ở Trường THCS Cẩm Tân trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Họ và tên: Bùi Văn Trung
Đơn vị công tác: Trường THCS Cẩm Tân - Cẩm Thuỷ - Thanh Hóa.
Học viên: Lớp Trung cấp LL - HC khóa IX – huyện Cẩm Thủy.
Dân chủ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Theo V.I.Lênin, dân
chủ là một hình thức tổ chức, một hình thái nhà nước, trong đó thừa nhận sự tham
gia của đơng đảo quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước để thực hiện
sự thống trị đối với những kẻ vi phạm dân chủ của nhân dân. Mức độ vi phạm thật
sự của quần chúng nhân dân vào công việc quản lý nhà nước phản ánh trình độ phát
triển của nền dân chủ, phản ánh vấn đề cốt lõi nhất của nền dân chủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng định rằng, dân chủ nghĩa là dân là chủ và
dân làm chủ, như vậy dân chủ là thuật ngữ dùng để chỉ bản chất của một chế độ xã
hội trong đó quyền lực bắt nguồn từ nhân dân, các lực lượng làm chủ thống trị xã
hội, dân chủ được xuất hiện khi xã hội có giai cấp, có nhà nước, đồng thời nó phản
ánh mức độ giải phóng con người để vươn tới tự do. Mặt khác dân chủ còn dược
hiểu với tính cách là nguyên tắc, là phương thức sinh hoạt của các tổ chức chính trị
xã hội.
Chế độ dân chủ bao giờ cũng có tính giai cấp và khơng gì khác là một hình
thức chun chính về chính trị của giai cấp thống trị. Trong xã hội có giai cấp đối
kháng, tức là xã hội phân chia thành những người bị áp bức bóc lột và những kẻ đi
áp bức bóc lột, quyền lực chính trị thuộc giai cấp bóc lột thì khơng thể có và khơng
bao giờ có được một chính quyền nhà nước nào thật sự của nhân dân.


Tư tưởng dân chủ xuất hiện từ khi xã hội có giai cấp, nó phản ánh khát
vọng được sống, được đối xử bình đẳng của đơng đảo quần chúng bị áp bức. Nhưng

1


cho đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời, những khái niệm “nhân quyền” “dân chủ”, “tự
do”, “bình đẳng”, “bác ái”,... mới có nội dung của đời sống hiện thực. Đó là nền dân
chủ tư sản.
1. Dân chủ tư sản.
Nền dân chủ tư sản dựa vào chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Do chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội, giai cấp tư sản trở
thành giai cấp thống trị xã hội về kinh tế; và do đó, nó thống trị xã hội cả về chính
trị, tư tưởng.
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, vào thời kỳ bùng nổ các cuộc cách mạng tư sản
thế kỷ XVIII ở châu Âu, do hoàn cảnh lịch sử - xã hội lúc bấy giờ, giai cấp tư sản đã
lợi dụng dân chủ, dùng “ dân chủ “ để tập hợp lực lượng quần chúng chống lại giai
cấp phong kiến.
Về một phương diện nào đó, “ Dân chủ “ được giai cấp tư sản sử dụng như
một cơng cụ, một hình thức thống trị xã hội mang tính hai mặt của giai cấp tư sản.
Một mặt, giai cấp tư sản soạn thảo ra Hiến pháp, thành lập nghị viện và các cơ quan
đại diện khác, ban hành quyền phổ thông đầu phiếu (do áp lực của nhân dân) và các
quyền ''tự do'' chính trị mang tính hình thức; nhưng mặt khác, giai cấp tư sản lại
dùng mọi thủ đoạn để ngăn cản, bằng mọi cách không cho đông đảo quần chúng
được hưởng đầy đủ những quyền lợi đó và khơng được sử dụng các cơ quan đại diện
do chính quần chúng đã bầu ra.
V.I. Lê-nin cũng chỉ ra rằng: trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, chế độ dân chủ
trong nhà nước tư sản đã chuyển sang một chế độ phản động chính trị. Thực tế hiện
nay có hai hình thức dân chủ đối lập nhau là: dân chủ tư sản, là thứ dân chủ giả hiệu,
bị cắt xén, và dân chủ vô sản.

2 - Dân chủ vô sản.
“ Dân chủ vô sản “, “ Dân chủ nhân dân “, “ Dân chủ xã hội chủ nghĩa “ là
những khái niệm đồng nghĩa, phản ánh cùng một nội dung, cùng một bản chất. Đó là
chế độ dân chủ của nhân dân do giai cấp cơng nhân mà đội tiên phong của nó là
Đảng Cộng sản lãnh đạo, dựa trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức. Tùy theo hồn cảnh của mỗi quốc gia, dân tộc và do nội

2


dung của cuộc cách mạng ở những giai đoạn cụ thể mà vận dụng những tư tưởng
trên cho phù hợp.
Dân chủ vô sản là dân chủ thực sự đối với đa số nhân dân, đối với đông đảo
quần chúng lao động, là một hình thức dân chủ mới. Mục đích cao nhất của chế độ
dân chủ vô sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa là đấu tranh giải phóng
con người và tồn thể lồi người, xây dựng một xã hội khơng có giai cấp, khơng có
áp bức bóc lột, mọi người đều bình đẳng và tự do của mỗi người là cơ sở tự do của
mọi người.
Cơ sở kinh tế của nền dân chủ vô sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Đó là điểm căn bản và là cơ sở để phân định sự khác nhau
về bản chất của nền dân chủ vô sản - dân chủ cho đại đa số quần chúng lao động với
nền dân chủ tư sản – dân chủ của giai cấp bóc lột, của thiểu số.
Hiến pháp của nhà nước vơ sản là một hiến pháp thật sự dân chủ. Tất cả mọi
quyền lực của nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân là nền tảng, là ngọn
nguồn, là mục đích của quyền lực nhà nước.
Sự xuất hiện của chế độ dân chủ vô sản gắn liền với thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917, và sự ra đời của Nhà nước Xô-viết - nhà
nước chun chính vơ sản đầu tiên trên thế giới.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa khơng có sự phân biệt nam hay nữ, không phân
biệt chủng tộc và dân tộc; mọi cơng đân đều bình đẳng trước pháp luật, đều có

quyền bình đẳng trong đời sống chính trị - kinh tế - văn hóa - xã hội; đều có quyền
và có nghĩa vụ tham gia cơng việc nhà nước.
3. Những nội dung về dân chủ và thực hiện dân chủ ở nước ta trong thời gian
qua.
Tổng kết 25 năm đổi mới và 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 - 2011), Đại hội XI của Đảng
(1/2011) khẳng định dân chủ là bản chất của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước.

3


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) xác định dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh và do nhân dân làm chủ là 2 trong 8 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là 1 trong 8 phương
hướng cơ bản cho việc thực hiện mục tiêu chiến lược đến giữa thế kỷ XXI và mục
tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Với tư cách là mục
tiêu của sự phát triển đất nước, dân chủ được đưa lên trước công bằng để trở thành
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Dân chủ trở thành
tiền đề cho cơng bằng và văn minh. Có dân chủ mới có cơng bằng, mới có văn minh.
Việc mở rộng dân chủ và phát huy tối đa nhân tố con người trong phát triển được
xem là 1 trong 5 quan điểm phát triển và mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020; là 1 trong 10 mục tiêu tổng quát 5 năm (2011 - 2015) và 1 trong
5 nhiệm vụ chủ yếu phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015.
Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
ta được thể hiện cụ thể ở quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện lợi ích
của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân
và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức đều phải tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hồn thành tốt chức trách và nhiệm vụ

được nhân dân giao phó. Mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi
dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc đều phải được phê phán
và nghiêm trị. Những tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và vơ trách nhiệm, lạm
quyền và xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân đều phải được ngăn ngừa và trừng
trị. Pháp chế xã hội chủ nghĩa cần được tăng cường, trách nhiệm công dân cần được
đề cao, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các cơ chế và biện pháp kiểm sốt quyền lực
nhà nước, phịng ngừa, ngăn chặn và xử lý nghiêm những sai phạm làm suy thoái và
biến chất quyền lực nhà nước của nhân dân.
Dân chủ được Đại hội XI của Đảng xác định là một nội dung quan trọng và
cần thiết trong hệ các mục tiêu chung của công cuộc đổi mới xuất phát từ những
4


thành tựu và hạn chế, thời cơ và thách thức trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước
ta những năm qua. Trong những thành tựu, trước hết phải nói đến sự phát triển và
hoàn thiện quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Năng
lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng
được nâng cao. Chúng ta đã tạo được những chuyển biến tích cực và tương đổi ổn
định trong nhận thức, phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử của cán bộ đảng
viên và nhân dân theo hướng dân chủ. Yêu cầu và điều kiện thực hiện dân chủ của
các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội ngày càng rộng lớn. Ý thức xã hội về vị
thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng cũng như mối tương quan
với các tổ chức, các thiết chế trong việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Các giá trị mới trong văn hố chính trị, văn hố dân
chủ, kỹ năng giao tiếp, ứng xử ngày càng cao. Dân chủ không dừng lại ở quan điểm
và định hướng mà còn trở thành phương pháp làm việc, phong cách giao tiếp và thái
độ ứng xử của cán bộ, đảng viên và công chức với nhân dân cũng như của nhân dân
đối với cán bộ, đảng viên và công chức.
Các thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, tính tích cực chính trị của cơng dân ngày tăng, khơng khí dân chủ ngày

càng lành mạnh và sự quan tâm và tham gia chính trị, tham gia quản lý nhà nước của
nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về quyền và
trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn quyền và
trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của nhân dân từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến trao đổi, phân phối và
hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận ngày càng hiện
thực hoá. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử
mỗi ngày một đầy đủ và hoàn thiện hơn.
Nội dung và hình thức, phương pháp và cơng cụ thực hiện dân chủ ngày càng
sâu sắc và đa dạng. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng mở rộng và
phát triển đến về các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và
chuẩn mực. Về hình thức, trong quá trình thực hiện dân chủ ngày càng tìm kiếm và
5


khẳng định được những quy tắc, quy định và quy trình mới cho dân chủ ở cả hình
thức dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp. Về tính chất, q trình thực hiện dân chủ
ngày càng tồn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả. Cùng với việc hồn thiện các
hình thức dân chủ gián tiếp, nhất là đổi mới và hoàn thiện tổ chức và hoạt động các
cơ quan dân cử, là quá trình xúc tiến mạnh mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp,
nhất là ở cơ sở.
Hệ thống các thể chế, cơ chế dân chủ hình thành và phát triển hơn, tạo nền
tảng pháp lý cho quá trình thực hiện dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở
thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế và thể chế về các quyền và lợi ích
của Nhà nước và của nhân dân. Đời sống xã hội ngày càng được tổ chức và vận
hành trên cơ sở các thể chế; tính ổn định của hệ thống ngày càng cao; tính chủ quan,
duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu. Trong chủ
trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung và
chương trình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, vấn
đề thể chế và xây dựng thể chế ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế quy định
tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức

xã hội, nghề nghiệp ngày càng hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy
định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trong các mối quan hệ
chính trị và xã hội làm cho dân chủ ngày càng được xác định, ngày càng được lượng
hoá, ngày càng được trở nên hiện thực.
Với việc xây dựng các quy chế và pháp lệnh dân chủ cơ sở, dân chủ khơng
cịn dừng lại ở những ngun tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp,
ngành, địa phương và đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở
nên thực chất hơn. Dân chủ ngày càng thiết thực, thật sự và có kết quả rõ ràng. Dân
chủ và nhất là dân chủ ở cơ sở đang là chiếc chìa khố vạn năng để giải quyết hết
thảy mọi vần đề khó khăn và bức xúc trong sản xuất và đời sống, trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

6


Tuy nhiên, tình trạng thiếu dân chủ vẫn cịn những biểu hiện và diễn biến
phức tạp. Cho đến nay không ít quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn bị vi phạm.
Tình trạng bng lỏng kỷ cương, pháp luật, dân chủ hình thức, cán bộ cửa quyền,
hách dịch vẫn cịn không nhỏ. Khi bị nhân dân phát hiện, khiếu kiện thì cá cơ quan
có trách nhiệm chậm giải quyết và giải quyết chưa dứt điểm, chưa khách quan. Tình
trạng tồn đọng trong xử lý khiếu kiện còn khá phổ biến, nhiều hiện tượng lợi dụng
dân chủ, coi thường kỷ cương phép nước vẫn tồn tại. Hiện tượng mất dân chủ, vi
phạm pháp luật diễn ra trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội với những
biểu hiện mới, tinh vi và phức tạp hơn. Thiếu dân chủ từ khâu chuẩn bị và ra quyết
định đến triển khai thực hiện và đánh giá quyết định, chính sách.
Tính phức tạp của đời sống xã hội tăng lên đòi hỏi phải tiếp tục đa dạng hố
hơn nữa các hình thức và cấp độ thực hiện dân chủ. Làm thế nào tạo ra những khả
năng và điều kiện để nhân dân ngày càng tham gia đầy đủ hơn, thực chất hơn vào
quá trình quản lý và phát triển đất nước là vấn đề lớn hiện nay. Trình độ dân trí thấp,
hiểu biết pháp luật ít, thiếu bình tĩnh trong xử lý các vụ việc tiêu cực lại bị kẻ xấu lợi

dụng kích động dẫn đến tình trạng vơ chính phủ, coi thường kỷ cương phép nước ở
một số địa phương, trong quá trình đấu tranh cho cái tốt lại bị kẻ xấu lợi dụng.
Nhiều hiện tượng quan liêu, tham nhũng vẫn chưa được ngăn chặn và xử lý. Nạn
hành chính, giấy tờ, quan liêu, nhũng nhiễu vẫn cịn. Khơng ít quyền dân chủ đương
nhiên của công dân vẫn chưa được thực hiện đầy đủ.
Trong những năm đầu thời kỳ đổi mới, hiện tượng mất dân chủ thường xảy ra
ở một số lĩnh vực như huy động quá mức và sử dụng sai mục đích những khoản
đóng góp của nhân dân, lạm dụng công quỹ, chia bán đất đai trái pháp luật, v.v.. Còn
hiện nay, hiện tượng thiếu dân chủ lại diễn ra ở những lĩnh vực như xây dựng và
thực hiện chính sách, trao quyền và trách nhiệm giải trình, chống quan liêu và tham
nhũng, quản lý đất đai và đầu tư, quy hoạch và xây dựng cơ bản, đền bù và giải
phóng mặt bằng, quản lý và xử lý các xung đột công nghiệp, quản lý và bảo vệ môi
trường, quản lý và điều hành các các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước, v.v..

7


Thể chế, quy chế dân chủ cịn chưa hồn thiện và đồng bộ. Những quy định
pháp lý để nhân dân được quyền phúc quyết hiến pháp và những công việc liên quan
đến vận mệnh quốc gia thông qua trưng cầu dân ý, lựa chọn phương án phát triển và
người lãnh đạo thông qua tranh cử trong tổng tuyển cử như là một nội dung và yêu
cầu cơ bản của dân chủ, v.v. cịn chưa hồn thiện. Các thể chế, quy chế cho các hoạt
động tự nguyện của các cộng đồng, các tầng lớp nhân dân nhằm phát huy nguồn lực
xã hội và phản biện xã hội theo hướng xây dựng xã hội dân sự còn nghèo nàn và hạn
chế.
Do thiếu những thể chế, cơ chế pháp lý cần thiết, nhiều cấp chính quyền vẫn
cịn lúng túng trong giải quyết các tình huống phức tạp về kinh tế, chính trị và xã
hội. Nhân dân vẫn thiếu những cơ sở pháp lý để đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, để tự vệ dân sự. Sự bất cập của các thể
chế, thiết chế pháp lý trong bước chuyển sang kinh tế thị trường trở thành nguyên

nhân của hiện tượng trật tự, kỷ cương bị vi phạm và mất dân chủ. Vẫn còn những
chậm trễ trong việc dỡ bỏ những quy định, những chính sách ít hoặc khơng cịn tác
dụng, lạc hậu với cuộc sống hiện tại.
Những điều kiện và tiền đề cho dân chủ còn chưa vững chắc. Nền kinh tế
nước ta phát triển vẫn chưa bền vững, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cịn
thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố cịn chậm; các
cân đối vĩ mô chưa vững chắc; chế độ phân phối chưa hợp lý và phân hố xã hội
tăng lên. Thu nhập bình quân đầu người còn cách xa với các nước phát triển. Nền
kinh tế thi trường, nền kinh tế tri thức đang trong giai đoạn hình thành và chưa phát
triển, nguy cơ rủi ro do cơ chế thị trường tạo ra còn lớn, v.v. là những yếu tố cản trở
và thách thức q trình thực hiện dân chủ. Nhiều nhóm dân cư ngày càng mất tư liệu
sản xuất, phải làm thuê và có nguy cơ mất đi quyền làm chủ trong thực tế của mình.
Sự phân hố giàu nghèo, bất cơng bằng xã hội gia tăng đang hạn chế và gây
khó khăn cho việc thực hiện dân chủ. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ chế và cơ
cấu kinh tế là chuyển đổi cơ cấu xã hội, nhiều tầng lớp xã hội mới hình thành trong

8


lúc các thể chế nhà nước và pháp luật vẫn còn những bất cập trong việc xác định,
bảo vệ và thực hiện quyền làm chủ của họ. Những hạn chế và chậm trễ trong q
trình cơng khai hố, minh bạch hố các lĩnh vực chính sách, hành chính, tài chính,
quản trị và dịch vụ công, v.v. cũng là những sức cản đối với quá trình thực hiện dân
chủ.
Trình độ dân trí cịn hạn chế, văn hố dân chủ, văn hố pháp luật, nhận thức
về pháp luật, pháp chế mới đang hình thành, chưa trở thành lối sống và nếp sống của
đại bộ phận dân cư. Nhận thức về dân chủ, kỷ cương và mối quan hệ giữa dân chủ
và kỷ cương còn nhiều bất cập dẫn đến những biểu hiện lợi dụng dân chủ, lạm dụng
dân chủ. Những tàn dư của các nền văn hoá gia trưởng, phong kiến và tư sản cũng
tác động không nhỏ. Trong lúc nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta chỉ có thể

hình thành và phát triển trong điều kiện chúng ta xây dựng và phát triển được nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; xã hội cơng dân hay xã hội dân sự
xã hội chủ nghĩa và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đồng thời, dân chủ còn được Đại hội XI của Đảng xác định là động lực của
đổi mới và phát triển đất nước. Thực hiện dân chủ, như thực tế cho thấy, đã làm cho
hệ thống chính trị nước ta ngày thêm vững mạnh, năng lực cầm quyền của Đảng ta
ngày càng được nâng cao. Q trình chính sách ngày càng được cơng khai và minh
bạch hố, tầm nhìn và chất lượng của các chủ trương và chính sách, chiến lược và
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ngày càng cao. Sự
tham gia của các tổ chức và cá nhân vào các quá trình chính trị, chính sách ngày
càng mở rộng và hiệu quả hơn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc cung cấp
các hàng hố, dịch vụ cơng theo hướng xã hội hoá, chuyển giao ngày càng nhiều
trách nhiệm này cho chính quyền cơ sở, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ và
người dân. Niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị được
khôi phục và củng cố.

9


Việc thực hiện dân chủ đã phát huy ngày càng nhiều sáng kiến của nhân dân,
khơi dậy ngày càng nhiều nguồn lực, huy động được những khối lượng của cải vật
chất và tinh thần to lớn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội
và văn hóa, cải thiện đời sống của phần lớn dân cư, nhất là nông thôn. Với việc thực
hiện dân chủ, quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự do làm ăn của nhân dân
ngày càng được bảo đảm. Các thành phần (khu vực) kinh tế tư nhân ngày càng phát
triển, đóng góp tích cực và có hiệu quả vào thu nhập quốc dân, vào tăng trưởng kinh
tế.
Việc thực hiện dân chủ cịn góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, hạn chế các xu hướng bất đồng xã hội. Xã hội có xu hướng ngày càng cởi mở

hơn, đề cao hơn sự tranh luận, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình nhà nước;
tăng cường sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với Nhà nước, nâng cao ý thức
trách nhiệm công cộng, phẩm hạnh cơng dân và lợi ích cộng đồng. Tình trạng thiếu
thông tin và bất đối xứng thông tin từng bước được khắc phục. Các tầng lớp xã hội
trở nên hiểu biết và chia sẻ, dân chủ và đồng thuận hơn. Dân chủ ngày càng trở
thành chiếc chìa khố giải quyết hết thảy mọi vấn đề.
Những tiến bộ về quy trình lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, cơng
chức; về trách nhiệm giải trình của chính quyền trước nhân dân, khả năng và tính
hiệu quả quản lý của chính quyền, chất lượng giám sát, xây dựng và thực thi chính
sách; về sự tơn trọng của người dân và Nhà nước đối với các thể chế chính trị và
pháp lý, cải cách hành chính, quy trình và chất lượng bầu cử các cơ quan dân cử; về
dân chủ hóa trong Đảng, v.v. thực sự là những động lực thúc đẩy cơng cuộc đổi mới
nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Việc thực hiện dân chủ ở nước ta
cịn làm tăng tình cảm và ý thức chính trị, sự tơn trọng và niềm tin của nhân dân vào
Đảng và Nhà nước, vào chế độ xã hội và thể chế nhà nước.
Những kết quả từ quá trình thực hiện dân chủ đã góp phần tích cực vào việc
đưa nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

10


hướng hiện đại, tăng trưởng kinh tế liên tục ở mức cao, thu nhập bình quân đầu
người liên tục tăng, tiềm lực kinh tế của đất nước không ngừng được củng cố, tích
luỹ và tái đầu tư từ nội bộ nền kinh tế khơng ngừng được tăng cường, việc xố đói
giảm nghèo khơng ngừng được phát triển, đời sống nhân dân ngày không ngừng
được cải thiện, v.v..
Việc Đại hội XI của Đảng xác định dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước là một chủ trương đúng đắn, thể
hiện tầm nhìn xa, trơng rộng và quyết tâm chính trị ở tầm chiến lược. Những quan

điểm và giải pháp, phương hướng và nhiệm vụ của Đại hội XI của Đảng về dân chủ
và thực hiện dân chủ ngày càng được bổ sung và phát triển theo hướng cụ thể hố,
khả thi hóa. Theo đó, dân chủ ngày càng được thể hiện cụ thể trong cuộc sống,
thông qua Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, với những nội dung và
hình thức ngày càng phong phú, đa dạng. Thực hiện dân chủ là trách nhiệm của tồn
bộ hệ thống chính trị; kết hợp phát triển và hồn thiện cả hai hình thức dân chủ gián
tiếp và dân chủ trực tiếp; gắn thực hiện dân chủ với ổn định chính trị - xã hội và phát
triển kinh tế, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống nhân dân; thực hiện dân chủ đi
đôi với kỷ cương, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm.
Thực hiện dân chủ hoá, do vậy, cần được tiến hành trên quan điểm nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật và đánh giá đúng sự thật; thực hiện dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra; thận trọng và vững chắc, bắt đầu từ việc giải quyết những vấn đề
bức xúc và chín muồi. Thực hiện dân chủ là việc làm cần thiết nhưng phức tạp và
nhạy cảm, vội vã sẽ làm nảy sinh những sai lầm, sẽ phải trả giá đắt, thậm chí khơng
thể cứu vãn nổi. Ngược lại, làm chậm chễ hay ngăn cản quá trình thực hiện dân chủ
cũng sẽ để lại những hậu quả tiêu cực, hạn chế các động lực phát triển đất nước.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, tác động của quá trình dân chủ từ các nước
đến nước ta là tất yếu khách quan, do vậy, chúng ta cần chủ động và thận trọng
trong việc tham khảo và kế thừa những giá trị, những kinh nghiệm về dân chủ ấy.
Dân chủ và thực hiện dân chủ cần phải xuất phát từ những yêu cầu nội tại của đất
nước, hướng vào sự ổn định và phát triển đất nước một cách bền vững. Thực hiện
11


dân chủ ở nước ta, do vậy, phải là một quá trình với những nguyên tắc, phương
châm, khâu đột phá và bước đi cụ thể trong hiện thực.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước, mở rộng hội nhập quốc tế, phát triển bền vững, thực hiện thành công mục tiêu
“tối thượng” của cách mạng: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
của Đảng đề ra, chúng ta phải coi trọng phát triển nền dân chủ XHCN vì nó là mục

tiêu cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đến lượt nó, nền dân chủ
XHCN được phát triển và hoàn thiện lại trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã
hội không ngừng phát triển. Chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ chỗ chưa chín muồi đến
chín muồi, từ chỗ chưa hồn thiện đến hồn thiện, từ chỗ chưa phát triển đến phát
triển. Quá trình này cần có thời gian và mơi trường ổn định, đặc biệt là ổn định
chính trị, xã hội. Muốn duy trì ổn định chính trị, xã hội để tiến lên phải phát triển
nền dân chủ XHCN và lấy đó làm động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện xã hội.
Bản chất chính trị của giai cấp cơng nhân địi hỏi phải dùng phương pháp dân
chủ để quản lý nhà nước, cải tạo xã hội. Nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới
trong tiến trình lịch sử, dân chủ XHCN là thực hiện quyền nhân dân làm chủ đất
nước, làm chủ xã hội. Đây là bản chất tốt đẹp của nhà nước XHCN đã và đang tồn
tại, phát triển ở một số nước trên thế giới, trong đó có nước ta. Vì vậy, địi hỏi chúng
ta cần tự giác tn thủ quy tắc dân chủ, xây dựng và kiện toàn thể chế dân làm chủ,
hình thành trật tự dân chủ ổn định, bền vững.
Quy chế dân chủ cơ sở góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, ổn
định.
4. Thực hiện dân chủ, quy chế dân chủ ở trường THCS Cẩm Tân.
Trường THCS Cẩm Tân nằm về phía Đơng Nam của Huyện Cẩm Thủy, trên
trục đường quốc 217, cách trung tâm huyện khoảng 18Km. Trường được thành lập
để đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng thời đào tạo nguồn nhân lực cho địa
phương.
Nhà trường có đội ngũ cán bộ, giáo viên đủ về số lượng, đạt chuẩn và trên
chuẩn ( 75% ) về trình độ. Mọi người đều có tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tổ
chức kỉ luật và ý thức xây dựng nội bộ đoàn kết, vững mạnh.

12


Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học là thực hiện những điều mà pháp
lệnh công chức đã quy định và thực hiện điều lệ trường trung học mà bộ GD&ĐT

đã ban hành năm 2007. Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học nhằm phát huy
tinh thần làm chủ tập thể của cán bộ, công chức và lao động trong nhà trường, với
phương châm “ Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra ” tất cả các hoạt động
của nhà trường. Đây là hình thức dân chủ trực tiếp để tạo điều kiện thuận lợi cho
cán bộ, giáo viên, cơng nhân viên và học sinh đóng góp ý kiến của mình trong mọi
kế hoạch và hoạt động của nhà trường, đồng thời giám sát được việc làm của nhà
trường để cùng nhau đưa nhà trường ngày càng phát triển.
Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học là nhằm thực hiện đúng đường lối
chủ trương của Đảng, dạy – học theo đúng mục tiêu, định hướng của Đảng mà cụ
thể là hướng dẫn hoạt động của nhà trường theo cơng văn của sở và phịng giáo dục.
Phát huy và huy động mọi tiềm năng của đội ngũ CBCNV trong nhà trường, các
nguồn lực của học sinh và phụ huynh, góp phần xây dựng nền nếp học tập của học
sinh, ngăn chặn những tiêu cực xảy ra trong trường học.
Thực hiện quyền dân chủ trước hết phải thực hiện đúng chính sách , đúng đường
lối chủ trương của Đảng, thực hiện đúng pháp luật của Nhà nước đề ra. Phải thực
hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của bản thân đối với nhà trường, quyền dân chủ phải
gắn liền với kỷ luật và kỷ cương.
Với mục đích, ý nghĩa trên, trong năm qua, công tác thực hiện quy chế dân chủ
Trường THCS Cẩm Tân đã đạt được những kết quả sau :
BGH đã xây dựng kế hoạch ngay từ đầu các năm học như kế hoạch năm học thông
qua biểu quyết của Hội đồng giáo dục trong hội nghị xây dựng kế hoạch đầu năm,
kế hoạch hằng tháng, hằng tuần, được công khai trước hội đồng nhà trường và cán
bộ, giáo viên đã được quần chúng góp ý và chỉ đạo có hiệu quả.
* Về cơng tác lãnh đạo của Ban giám hiệu
Lãnh đạo nhà trường đã tổ chức thực hiện và quản lý điều hành mọi hoạt động
của nhà trường một cách nhịp nhàng hiệu quả.
Lãnh đạo nhà trường ln lắng nghe ý kiến góp ý của quần chúng và tập thể,
luôn tôn trọng ý kiến tập thể, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, lấy ý kiến

13



đa số để quyết định những vấn đề quan trọng của nhà trường và kịp thời điều chỉnh
những tồn tại ,khuyết điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo đạt hiệu quả cơng việc cao
hơn.
Các tổ chun mơn, đồn thể trong nhà trường đều được nhà trường phát huy
quyền làm chủ, các chủ trương, kế hoạch của chi bộ, nhà trường, của tổ chuyên
môn, nội dung thi đua, các kế hoạch xây dựng, mua sắm, sửa chữa đều được thông
qua các bộ phận có liên quan, thơng qua ban thanh tra nhân dân nhà trường để tổ
chức giám sát quá trình thực hiện. Tất cả văn bản chỉ đạo của cấp trên đều được
công khai và được quần chúng từ tổ đến trường đóng góp xây dựng trước khi tổ
chức thực hiện.
* Về xây dựng nền nếp dạy học và hội họp:
Lãnh đạo nhà trường đã xây dựng được nền nếp hội họp định kỳ cho CBCNV
và các tổ chuyên môn, đoàn thể trong nhà trường trong từng tháng, tuần : như họp
Liên tịch, họp giao ban, họp hội đồng thi đua, họp đoàn thể và họp hội đồng giáo
dục nhà trường. Các cuộc họp đều xây dựng nội dung và kế hoạch cụ thể rõ ràng,
được các thành viên trong cuộc họp đóng góp xây dựng kế hoạch đề ra trước khi tổ
chức thực hiện. Lãnh đạo nhà trường đã xây dựng được các quy chế hoạt động cho
từng ban ngành đoàn thể trong nhà trường .
Lãnh đạo nhà trường xây dựng và thực hiện quy chế chi tiêu nội bộ trong cả
năm học đã thông qua hội đồng trường, hội đồng giáo dục và trình cấp trên phê
duyệt trước khi tổ chức thực hiện.
Hằng quý, hằng tháng và học kỳ, lãnh đạo nhà trường tổ chức sơ kết đánh giá
mọi hoạt động của nhà trường và công khai trước hội đồng giáo dục để góp ý bổ
sung trước khi báo cáo về cấp trên.
Lãnh đạo luôn luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi công tác, phối hợp chặt chẽ
với các tổ chun mơn, ban ngành, đồn thể trong nhà trường và cá nhân trong đội
ngũ CBCNV phát huy quyền làm chủ tập thể, bảo vệ và giữ gìn uy tín nhà giáo, nhà
trường. Thường xun đơn đốc, nhắc nhở cấp dưới thực hiện tốt nhiệm vụ đề ra, tổ

chức giải quyết kịp thời các kiến nghị của cấp dưới và tham mưu với cấp trên giải
quyết được một số nội dung mà nhà trường đã đề ra.

14


* Đối với CBCNV và Lao động:
CBCNV nhà trường đã thực hiện được những nhiệm vụ và quyền lợi sau:
- Tất cả CBCNV trong nhà trường đều tham gia đóng góp xây dựng các nội
dung như: Kế hoạch phát triển trường lớp, công tác tuyển sinh, chất lượng dạy học,
công tác PCGDTH, đóng góp xây dựng quy chế dân chủ và quy chế chi tiêu nội bộ
trường học và các hoạt động trong nhà trường.
- Góp ý xây dựng các phong trào thi đua, phong trào thi học sinh giỏi cấp
trường, bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp và phụ đạo học sinh yếu. Góp ý xây dựng,
sửa chữa, mua sắm trang thiết bị và các hoạt động khác.
- Tất cả CBCNV đã nghiêm chỉnh chấp hành tốt chủ trương, chính sách của
Đảng, Pháp luật của nhà nước. Chấp hành tốt nội quy, quy chế trường học, kỷ luật
lao đông. Chưa có CBCNV nào vi phạm bị phản ánh hoặc kỷ luật.
- Tất cả CBCNV đã thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ cơng dân của mình tại địa
phương, nhiều CBCNV khơng những đóng góp sức người mà cịn đóng góp kinh
phí để xây dựng địa phương như xây dựng văn hóa thơn, xây dựng giao thơng nơng
thơn đạt nhiều kết quả to lớn được chính quyền địa phương tuyên dương khen
thưởng.
* Những việc làm của học sinh được biết và tham gia góp ý:
- Lãnh đạo nhà trường cùng GVCN, Đoàn thanh niên đã tổ chức tuyên truyền
trong học sinh và phụ huynh về đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước, những văn bản của ngành. Thông báo công khai các khoản thu
đối với phụ huynh và đã được phụ huynh bàn bạc thống nhất như các khoản thu quỹ
hoạt động hội, dạy phụ đạo, mua sắm, xây dựng, bảo hiểm.
- Trong năm học hầu hết các em học sinh đã thực hiện tốt nội quy của nhà

trường, tham gia đầy đầy đủ các phong trào do nhà trường tổ chức như thi làm báo
tường, thi văn nghệ, TDTT ... tham gia thi HSG các mơn văn hóa cấp trường, cấp
huyện, tỉnh và nhiều em đạt kết quả cao. Kết quả chất lượng đại trà các năm học đều
đạt và vượt kế hoạch đặt ra, tốt nghiệp 100%, chuyển lớp từ 98% trở lên, khơng có
học sinh vi phạm tai, tệ nạn xã hội.

15


* Các tổ chun mơn và các tổ chức đồn thể trong nhà trường:
- Các tổ chuyên môn và tổ văn phòng ngay đầu năm đã tổ chức hội nghị tổ
nghiêm túc, được các thành viên trong tổ góp ý và tự giác đăng ký chất lượng dạy
học và danh hiệu thi đua, đăng ký đề tài SKKN. Tổ chuyên mơn đã đề xuất những
cơng việc có liên quan đến công tác dạy học đều được lãnh đạo nhà trường bàn bạc
và giải quyết thấu tình đạt lý, chưa có trường hợp nào bị trù dập, ép buộc phải thực
hiện.
- Tất cả các tổ chức đoàn thể nhà trường đều phối hợp với nhà trường tổ chức
cho CBCNV thực hiện tốt quy chế dân chủ và quy chế chi tiêu nội bộ. Tất cả cán bộ
cốt cán trong nhà trường đều lắng nghe ý kiến của quần chúng và tham mưu với
lãnh đạo nhà trường giải quyết triệt để .
- Lãnh đạo nhà trường, BCH cơng đồn, Đồn thanh niên, đội thiếu niên đã thực
hiện tốt công tác thi đua khen thưởng và kỷ luật. Cụ thể khen thưởng kịp thời đối
với các đồng chí cán bộ, giáo viên đạt Chiến sĩ thi đua, lao động tiên tiến, giáo viên
dạy giỏi, nữ giáo viên " Giỏi việc trường, Đảm việc nhà", đề nghị khen thưởng đối
với các em học sinh, đội viên có thành tích xuất sắc trong kì, năm học . Nhiều năm
liền nhà trường khơng có cán bộ giáo viên nào vi phạm bị xử lý kỉ luật.
Nhờ thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở nên trong những năm học vừa qua nhà
trường đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, liên tục được tặng khen trường học
xuất sắc cấp huyện, nhiều cá nhân được tặng giấy khen hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ và được tăng lương trước thời hạn. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được,

việc thực hiện dân chủ ở đơn vị vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như:
Việc quán triệt tư tưởng cho CBCNV chưa được thường xuyên, Tinh thần
phát huy quyền dân chủ của một vài giáo viên còn hạn chế, nhất là cơng tác tự phê
và phê bình chưa cao.
Một số học sinh chưa có ý thức trong tu dưỡng rèn luyện đạo đức, còn ham
chơi, nhác học nên kết quả vẫn có học sinh bỏ học, học sinh có hạnh kiểm yếu.
Một số kế hoạch nhà trường đề ra nhưng lãnh đạo nhà trường thực hiện chưa
kịp thời nhất là công tác mua sắm, sửa chữa …
Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế trên đó là do công tác tuyên truyền cho

16


cán bộ cơng chức, cho học sinh cịn chưa thường xuyên, liên tục, một bộ phận nhỏ
CBCNV và học sinh nhận thức chưa đầy đủ về thực hiện dân chủ ở cơ sở. Công tác
kiểm tra, đánh giá đôi khi chưa thể hiện tính đồng bộ...
Nói tóm lại, việc thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở sẽ góp phần đưa từng đơn vị,
từng địa phương, từng ngành hoàn thành nhiệm vụ được giao, hướng đến mục tiêu "
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh ".
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
BCH

Ban chấp hành

CBCNV

Cán bộ cơng nhân viên

CNH


Cơng nghiệp hố

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GVCN

Giáo viên chủ nhiệm

HĐH

Hiện đại hoá

HSG

Học sinh giỏi

PCGDTH

Phổ cập giáo dục trung học

SKKN

Sáng kiến kinh nghiệm


TDTT

Thể dục thể thao

THCS

Trung học cơ sở

17


18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×