TỒ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG
CỘNG HỒ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 04/2015/LĐ-PT
Ngày: 20-11-2015
V/v tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động
theo hình thức sa thải
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tịa: Bà Đồn Thị Huỳnh Hoa
Các Thẩm phán:
Ơng Vũ Văn Cường
Ơng Hoàng Ngọc Thụ
Thư ký Toà án ghi biên bản phiên toà: Bà Phạm Thị Nguyệt Minh - Cán bộ
Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng tham gia phiên tồ:
Ơng Phạm Duy Hiển - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 11 năm 2015, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải
Phịng xét xử phúc thẩm cơng khai vụ án lao động thụ lý số 03/2015/LĐ-PT ngày
12 tháng 10 năm 2015 về việc "Tranh chấp về xử lý kỷ luật lao động theo hình
thức sa thải".
Do bản án lao động sơ thẩm số 01/2015/LĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2015 của
Toà án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 681/2015/QĐ-PT ngày
30 tháng 10 năm 2015 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đinh Thị Thu Anh, sinh năm 1988; trú tại: Số
16A/1/440 đường Chợ Hàng, phường dư Hàng kênh, quận Lê Chân, thành phố
Hải Phịng. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Phạm Thị Kim Oanh, sinh
năm 1991; trú tại: Số 8 ngách 6/6 phố Đội Nhân, quận Ba Đình, thành phố Hà
Nội là đại diện theo ủy quyền (Hợp đồng ủy quyền ngày 01 tháng 12 năm 2014).
Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngun đơn: Ơng Đinh Tây
Viêm, sinh năm 1950 và ơng Nguyễn Hoàng Việt, sinh năm 1974; đều là luật sư
Văn phịng luật sư Vĩnh Phúc – Đồn luật sư thành phố Hà Nội. Đều có mặt.
1
2. Bị đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng; trụ sở: Số
16 đường Tơn Đức Thắng, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Đinh Quang Am; chức vụ: Trưởng
phịng pháp chế và ơng Lê Xn Hợi; chức vụ: Cán bộ quản lý nhân sự của Công
ty là đại diện theo ủy quyền (Văn bản uỷ quyền số 16, số 17 ngày 09 tháng 11
năm 2015 của Giám đốc Cơng ty). Đều có mặt.
3. Người kháng cáo: Chị Đinh Thị Thu Anh - nguyên đơn trong vụ án và
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng - bị đơn trong vụ án.
4. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng kháng nghị.
NHẬN THẤY:
* Theo án sơ thẩm, nguyên đơn chị Đinh Thị Thu Anh và người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Chị Đinh Thị Thu Anh được tiếp nhận vào làm việc tại Công ty trách nhiệm
hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng từ tháng 12 năm 2009, được ký kết 02 hợp đồng
lao động xác định thời hạn 01 năm với công việc là nhân viên phục vụ hành
khách. Sau khi hợp đồng thứ hai hết hạn tháng 12 năm 2011, chị xin nghỉ việc.
Giữa Công ty và chị đã thanh lý hợp đồng và giải quyết xong các quyền lợi theo
hợp đồng.
Đến tháng 8 năm 2012, chị trở lại Công ty xin làm việc, được Công ty ký
kết hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm đến tháng 8 năm 2013. Sau khi
hết hạn, chị được ký tiếp hợp đồng từ tháng 8 năm 2013 đến tháng 8 năm 2014.
Quá trình thực hiện, ngày 02 tháng 02 năm 2014 do bị ốm nên chị có điện
thoại xin nghỉ nhưng cùng ngày Công ty đã cử người xác minh việc nghỉ của chị.
Vì khơng gặp chị tại nhà nên Công ty đã lập biên bản vi phạm, khi chị đi làm
ngày 04 tháng 02 năm 2014 thì Cơng ty u cầu chị viết bản tường trình và yêu
cầu chị ký biên bản vi phạm.
Đến ngày 12 tháng 02 năm 2014, Công ty ra quyết định số 02/QĐ-VIP phạt
300.000 đồng đồng thời buộc thôi việc trước thời hạn hợp đồng lao động đối với
chị do tái vi phạm quy chế Cơng ty.
Cho rằng đây là hình thức Cơng ty sa thải nhưng không tổ chức họp xử lý kỷ
luật, khơng có sự tham gia của Cơng đồn là Cơng ty đã vi phạm về trình tự, thủ
tục quy định tại Điều 123 Bộ luật Lao động. Lý do Công ty buộc thôi việc chị
không thuộc các trường hợp quy định trong Bộ luật lao động.
Vì vậy chị khởi kiện đề nghị Tịa án giải quyết buộc Cơng ty trách nhiệm
hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng :
- Huỷ bỏ Quyết định số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm 2014.
- Bồi thường tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những
ngày chị không được làm việc theo quy định khoản 1 Điều 42 Bộ luật Lao động
2
từ ngày 02 tháng 02 năm 2014 đến ngày Tòa án xét xử là : 19 tháng x 4.000.000
đồng = 76.000.000 đồng.
- Bồi thường 02 tháng tiền lương do sa thải trái pháp luật là 8.000.000 đồng.
- Chị không muốn trở lại làm việc nên Công ty phải trả tiền trợ cấp thôi việc
là: 3,5 năm x 4.000.000 đồng x 1/2 = 7.000.000 đồng
- Chi phí thuê luật sư là 30.000.000 đồng.
Tổng cộng là 139.000.000 đồng.
* Bị đơn - Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng trình bày:
Chị Thu Anh vào Cơng ty làm việc từ tháng 12 năm 2009 với công việc là
nhân viên phục vụ hành khách trên tuyến xe VIP Hải Phòng - Hà Nội.
Quá trình làm việc chị Thu Anh nhiều lần vi phạm quy trình phục vụ và có
thái độ giao tiếp với hành khách không đúng đã được Công ty nhắc nhở. Ngày 24
tháng 11 năm 2012, chị Thu Anh xin nghỉ việc trước thời hạn, hợp đồng lao động
đã được thanh lý, Cơng ty đã thanh tốn xong mọi quyền lợi cho chị Thu Anh.
Tháng 8 năm 2012 chị Thu Anh đến Công ty xin làm việc lại được Công ty
đồng ý và ký 02 hợp đồng lao động xác định 01 năm. Trong quá trình làm việc
chị Thu Anh tiếp tục có vi phạm. Ngày 02 tháng 02 năm 2014, chị Thu Anh xin
nghỉ ốm nhưng không làm đơn và chưa được sự đồng ý của cán bộ quản lý trực
tiếp. Cùng ngày đại diện Công ty đã đến nhà chị Thu Anh thăm hỏi nhưng chị
Thu Anh khơng có nhà. Cơng ty đã lập biên bản vi phạm quy chế Công ty. Ngày
08 tháng 02 năm 2014, bộ phận nhân sự của Cơng ty đã có văn bản đề nghị cho
chị Thu Anh thôi việc trước thời hạn hợp đồng vì có nhiều vi phạm.
Ngày 10 tháng 02 năm 2014, Công ty đã tổ chức họp xử lý vi phạm của chị
Thu Anh và đến ngày 12 tháng 02 năm 2014 Giám đốc Công ty đã ra quyết định
số 02/ĐQ-VIP phạt chị Thu Anh 300.000 đồng và buộc thôi việc trước thời hạn
hợp đồng. Ngày 22 tháng 02 năm 2014, chị Thu Anh đã đến Công ty và được giải
quyết mọi quyền lợi trong hợp đồng.
Đối với chị Thu Anh: Tổng thu nhập hàng tháng là 4.000.000 đồng/tháng,
nếu khơng hồn thành cơng việc chỉ có mức luơng là 2.650.000 đồng bao gồm cả
tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Chị Thu Anh có đơn đề nghị không tham gia
các loại bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế mà đề nghị Công ty trả vào tiền lương.
Công ty buộc thôi việc chị Thu Anh là đúng nên Công ty không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của chị Thu Anh. Cơng ty chỉ có thể hỗ trợ cho chị Thu Anh
tiền thu nhập cơ bản trong thời gian chưa hết hợp đồng từ tháng 02 năm 2014 đến
tháng 8 năm 2014 là: 6 tháng x 2.650.000 đồng = 15.900.000 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Công ty nêu: Việc xử lý cho chị Thu Anh
thôi việc, Cơng ty có những hạn chế sai sót trong việc áp dụng các quy định của
Bộ luật Lao động.
3
Tại bản án sơ thẩm số 01/2015/LĐ-ST ngày 07 tháng 9 năm 2015 của Tòa
án nhân dân quận Lê Chân, Hải Phòng đã áp dụng Điều 42, Điều 123, Điều 125,
Điều 126, Điều 128 Bộ luật Lao động; áp dụng khoản 1 Điều 31, khoản 5 Điều
131 Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí
Tịa án năm 2009; xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Thu Anh đối với Công ty
trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng:
- Hủy quyết định kỷ luật số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm 2014 của
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng.
- Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng phải thanh tốn cho
chị Thu Anh tiền lương trong những ngày khơng được làm việc và 02 tháng tiền
lương theo hợp đồng lao động, tổng cộng là 32.000.000 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của chị Đinh Thị Thu Anh về việc yêu cầu
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng bồi thường khoản tiền thuê
luật sư 30.000.000 đồng và trợ cấp thơi việc 7.000.000 đồng.
3. Án phí: Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng phải chịu
960.000 đồng án phí lao động sơ thẩm.
Ngồi ra bản án còn tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định
của pháp luật.
Ngày 17 tháng 9 năm 2015, chị Đinh Thị Thu Anh kháng cáo cho rằng quyết
định của bản án sơ thẩm là chưa đúng quy định của pháp luật, không đảm bảo
quyền lợi hợp pháp cho chị.
Ngày 18 tháng 9 năm 2015, đại diện theo ủy quyền của Công ty kháng cáo
không chấp nhận quyết định của bản án sơ thẩm, Công ty chỉ chấp nhận bồi
thường 06 tháng tiền lương cơ bản cho chị Thu Anh theo mức 2.650.000
đồng/tháng.
Ngày 06 tháng 10 năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phịng
có quyết định số 20/QĐKNPTLĐ-P10 kháng nghị bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm:
* Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ yêu cầu kháng cáo đối với bản
án sơ thẩm. Các luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho nguyên đơn nêu nội dung và
căn cứ kháng cáo như sau:
- Chị Thu Anh được Công ty ký 04 bản hợp đồng lao động đều là xác định
thời hạn 01 năm, từ hợp đồng thứ 03 phải được chuyển thành hợp đồng lao động
không xác định thời hạn. Do đó hợp đồng lao động thứ 04 ký ngày 31 tháng 7
năm 2013 phải là hợp đồng lao động không xác định thời hạn. Do đó Cơng ty ra
quyết định sa thải chị Thu Anh từ tháng 02 năm 2014 thì Cơng ty phải trả tiền
luơng cho chị Thu Anh tính từ tháng 02 năm 2014 đến ngày xét xử sơ thẩm là 19
4
tháng x 4.000.000 đồng = 76.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm chỉ chấp nhận tiền
lương của chị Thu Anh tính từ tháng 02 năm 2014 đến tháng 8 năm 2014 là
không đúng.
- Tại cấp sơ thẩm, chị Thu Anh không yêu cầu trở lại làm việc, do vậy theo
quy định khoản 2, khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động thì Cơng ty phải trả tiền trợ
cấp thơi việc và 02 tháng tiền lương cho chị Thu Anh. Tiền trợ cấp thơi việc của
chị Thu Anh được tính từ tháng 8 năm 2009 đến 02 năm 2014 là: 3,5 năm x
4.000.000 đồng x 1/2 = 7.000.000 đồng và 02 tháng tiền lương do bị sa thải trái
pháp luật là 8.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của
chị Thu Anh là không bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị Thu Anh.
- Do Công ty sa thải, chị Thu Anh phải thuê luật sư bảo vệ theo hợp đồng
dịch vụ là 30.000.000 đồng nên chi phí đó Cơng ty phải chịu nhưng án sơ thẩm
khơng chấp nhận là khơng đúng.
* Tại phiên tịa, chị Thu Anh thừa nhận tháng 12 năm 2011 chị có đơn xin
nghỉ việc tại Công ty, hai bên đã thanh lý xong hợp đồng, chị khơng có khiếu nại
gì đối với Cơng ty. Đến tháng 8 năm 2012, chị đến Công ty xin làm việc và lúc
đó được ký hợp đồng lao động 01 năm.
* Đại diện bị đơn nhận thấy chị Thu Anh không được làm việc từ tháng 02
năm 2014 do quyết định sa thải không đúng của Công ty nên Công ty chấp nhận
với quyết định của án sơ thẩm và xin rút đơn kháng cáo.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng vẫn giữ nguyên
quyết định kháng nghị do án sơ thẩm không chấp nhận u cầu địi tiền trợ cấp
thơi việc của chị Thu Anh là không đúng với quy định tại khoản 2 Điều 42 Bộ
luật Lao động và khoản 3 Điều 33 Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng
01 năm 2015 của Chính phủ.
* Phát biểu của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng
xác định: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự đã thực hiện đúng các quyền và
nghĩa vụ, tham gia phiên tòa theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về kháng cáo của ngun đơn u cầu địi tiền lương tính đến ngày xét xử
sơ thẩm là khơng có căn cứ vì: Năm 2011, chị Thu Anh đã nghỉ việc tại Công ty.
Tháng 8 năm 2012, chị Thu Anh được ký 02 hợp đồng lao động thời hạn xác định
01 năm là không trái với quy định của Bộ luật Lao động nên bản án sơ thẩm tính
tiền lương Cơng ty phải bồi thường trong những ngày chị Thu Anh không được
làm việc là đúng. Về tiền trợ cấp thôi việc, án sơ thẩm không chấp nhận là chưa
đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho chị Thu Anh, thời gian trợ cấp chỉ được tính từ
ngày chị Thu Anh trở lại làm việc đến ngày bị sa thải là 1,5 năm. Đây cũng là nội
dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, đề nghị Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận. Về chi phí thuê luật sư do chị Thu Anh
chịu, kháng cáo này là khơng có căn cứ.
5
Về kháng cáo của bị đơn đã rút yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị đơn.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 275 của Bộ luật tố tụng dân sự: Đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Hải Phòng; chấp nhận một yêu cầu phần kháng cáo của nguyên đơn về
số tiền trợ cấp thôi việc; sửa một phần bản án sơ thẩm.
Sau khi nghe các đương sự trình bày, căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong
hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà, tranh luận của luật sư, của các đương sự
và ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa, xét đơn kháng cáo của nguyên đơn,
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Hội đồng xét xử
phúc thẩm,
XÉT THẤY:
Ngày 12 tháng 02 năm 2014, Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải
Phòng ra quyết định số 02/QĐ-VIP với nội dung: Phạt 300.000 đồng đồng thời
buộc thôi việc đối với chị Thu Anh từ ngày 12 tháng 02 năm 2014 với lý do "tái
vi phạm quy chế Công ty”. Mặc dù hình thức kỷ luật này khơng phù hợp với
Điều 125 của Bộ luật Lao động nhưng xét nội dung cũng như trình tự xử lý của
Cơng ty đối với chị Thu Anh thì quyết định số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm
2014 của Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng được coi đó là hình
thức xử lý kỷ luật sa thải. Vì vậy, bản án sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật có
tranh chấp là xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải là đúng.
Bản án sơ thẩm xác định quyết định số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm
2014 của Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng đối với chị Thu
Anh là khơng có căn cứ và khơng đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật
Lao động, là quyết định trái pháp luật là có căn cứ. Bản án sơ thẩm chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của chị Thu Anh buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải
Bus Hải Phòng phải hủy bỏ quyết định số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm
2014 và phải chịu các hậu quả pháp lý do ban hành quyết định sa thải trái pháp
luật là đúng.
* Xét các yêu cầu kháng cáo của chị Thu Anh:
- Kháng cáo về đòi tiền lương từ ngày bị sa thải cho đến ngày bản án có hiệu
lực pháp luật, thấy rằng: Chị Thu Anh vào làm việc tại Công ty từ tháng 12 năm
2009 đến tháng 12 năm 2011 chị xin chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên đã
thanh lý và thanh toán xong các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng lao động đã ký.
Tháng 8 năm 2012, chị Thu Anh lại xin vào làm việc cho Công ty, được ký
hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm. Sau khi kết thúc hợp đồng lao động
này, chị Thu Anh và Công ty ký tiếp hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm
đến tháng 08 năm 2014. Mặc dù chị Thu Anh vẫn làm công việc như hợp đồng đã
ký năm 2009 nhưng thời điểm để tính làm việc cho Công ty theo hợp đồng mới là
từ tháng 8 năm 2012. Việc ký tiếp hợp đồng lao động xác định thời hạn 01 năm
6
giữa chị Thu Anh và Cơng ty là hồn tồn phù hợp với quy định tại đoạn 2 khoản
2 Điều 22 Bộ luật Lao động.
Vì vậy, khơng thể cho rằng chị Thu Anh làm công việc nhân viên phục vụ
hành khách từ năm 2009 thì hợp đồng lao động xác định thời hạn ký ngày 31
tháng 7 năm 2013 phải được coi là hợp đồng lao động không xác định thời hạn.
Do đó những ngày khơng được làm việc của chị Thu Anh chỉ được tính từ tháng
02 tháng 2014 đến tháng 08 năm 2014 như bản án sơ thẩm quyết định là đúng.
Chị Thu Anh kháng cáo yêu cầu Tịa án phúc thẩm tính những ngày khơng được
làm việc của chị cho đến ngày xét xử sơ thẩm để buộc Cơng ty bồi thường tiền
lương là khơng có cơ sở chấp nhận.
- Kháng cáo về đòi 02 tháng tiền lương theo quy định tại khoản 2, khoản 3
Điều 42 Bộ luật Lao động:
Đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm thì hợp đồng lao động xác định 01 năm ký
ngày 31 tháng 7 năm 2013 giữa chị Thu Anh và Công ty đã hết thời hạn thực
hiện. Việc chị Thu Anh khơng cịn u cầu trở lại làm việc, không thuộc trường
hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 42 Bộ luật Lao động. Mặt khác, tại cấp
sơ thẩm chị Thu Anh cũng khơng có u cầu về việc trả 02 tháng tiền lương để
chấm dứt hợp đồng lao động nên Tịa án cấp sơ thẩm khơng xét là có căn cứ. Hội
đồng xét xử phúc thẩm khơng chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của chị Thu Anh.
- Kháng cáo đòi tiền thuê luật sư với số tiền 30.000.000 đồng là khơng có
căn cứ vì đây là hợp đồng dịch vụ giữa chị Thu Anh với luật sư, không liên quan
đến Công ty nên bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của chị Thu Anh
là đúng.
* Xét kháng cáo của chị Thu Anh và kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân
thành phố Hải Phịng về tiền trợ cấp thơi việc:
Đến ngày 12 tháng 02 năm 2014, hợp đồng lao động giữa chị Thu Anh với
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng đã chấm dứt, theo quy định
tại khoản 2 Điều 42 Bộ luật Lao động, khoản 3 Điều 33 Nghị định số
05/2015/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ thì Cơng ty cịn phải
trả tiền trợ cấp thôi việc cho chị Thu Anh theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Lao
động. Bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của chị Thu Anh là khơng
đúng. Vì vậy, kháng cáo của chị Thu Anh và kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân
dân thành phố Hải Phịng về tiền trợ cấp thơi việc của chị Thu Anh là đúng, cần
được chấp nhận.
Về thời gian được trợ câp thôi việc là thời gian thực tế chị Anh làm việc cho
Cơng ty được tính từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 02 năm 2014 là 1,5 năm. Công
ty phải trả tiền trợ cấp thôi việc cho chị Thu Anh là: 1,5 năm x 4.000.000 đồng x
1/2 = 3.000.000 đồng.
* Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn tại phiên tòa đã xin rút nên căn cứ
khoản 2 Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét
7
xử phúc thẩm.
Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của
chị Thu Anh, chấp nhận kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải
Phòng, sửa một phần bản án sơ thẩm: Buộc Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải
Bus Hải Phịng phải thanh toán cho chị Thu Anh thêm khoản tiền tiền trợ cấp
thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau: 1,5 năm x 4.000.000 đồng x
1/2 = 3.000.000 đồng.
Tổng cộng các khoản chị Thu Anh được Công ty trách nhiệm hữu hạn vận
tải Bus Hải Phòng trả theo án sơ thẩm và phúc thẩm là 35.000.000 đồng.
Về án phí: Do kháng cáo của chị Thu Anh được chấp nhận nên tiền án phí sơ
thẩm Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng phải chịu được tính lại
cho phù hợp. Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng khơng phải
chịu tiền án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ khoản 2 Điều 218, khoản 2 Điều 275 Bộ luật tố tụng dân sự;
QUYẾT ĐỊNH:
* Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng.
* Chấp nhận một phần kháng cáo của chị Đinh Thị Thu Anh; chấp nhận
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng; sửa một phần bản
án sơ thẩm:
Áp dụng Điều 42, Điều 123, Điều 125, Điều 126, Điều 128 Bộ luật Lao
động; áp dụng Điều 131, khoản 2 Điều 132 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2
Điều 30 Pháp lệnh số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tồ án. Xử:
1. Chấp nhận u cầu khởi kiện của chị Đinh Thị Thu Anh đối với Công ty
trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng:
- Hủy quyết định kỷ luật số 02/QĐ-VIP ngày 12 tháng 02 năm 2014 của
Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng.
- Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng phải thanh tốn cho
chị Thu Anh tiền lương trong những ngày không được làm việc là 24.000.000
đồng; 02 tháng lương theo hợp đồng là 8.000.000 đồng và tiền trợ cấp thôi việc là
3.000.000 đồng. Tổng cộng Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng
phải thanh tốn cho chị Thu Anh là 35.000.000 đồng
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, chị Đinh Thị Thu Anh có đơn đề
nghị thi hành án, nếu Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phịng khơng
thanh tốn khoản tiền phải trả thì hàng tháng còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với thời gian
8
chưa thi hành án.
2. Không chấp nhận yêu cầu của chị Đinh Thị Thu Anh yêu cầu Công ty
trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng trả tiền thuê luật sư 30.000.000 đồng.
3. Án phí: Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng phải chịu
1.050.000 đồng án phí lao động sơ thẩm. Cơng ty trách nhiệm hữu hạn vận tải
Bus Hải Phịng khơng phải chịu án phí lao động phúc thẩm. Số tiền tạm ứng án
phí 200.000 đồng Công ty trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng đã nộp
theo biên lai thu tiền số 0013420 ngày 30 tháng 9 năm 2015 tại Chi cục Thi hành
án dân sự quận Lê Chân, Hải Phòng được trừ vào tiền án phí lao động. Cơng ty
trách nhiệm hữu hạn vận tải Bus Hải Phòng còn phải nộp tiếp số tiền 850.000đ
(Tám trăm năm mươi nghìn đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TỒ
Hồng Ngọc Thụ - Vũ Văn Cường
Nơi nhận:
- VKSNDTP Hải Phòng;
- TAND quận Lê Chân;
- Chi cục THADS quận Lê Chân;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, HCTP.
Đoàn Thị Huỳnh Hoa
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TỊA
Đồn Thị Huỳnh Hoa
9