TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
TÒA PHÚC THẨM TẠI HÀ NỘI
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------------------------TH/7
-----------------Bản án số: 80/2008/KDTM-PT
Ngày 07/4/2008
V/v: tranh chấp giữa thành viên
công ty với công ty.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA PHÚC THẨM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI HÀ NỘI
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Thế Linh;
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Đức Nhận;
Ông Nguyễn Lương Thuận.
Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa: Bà Dương Thị Sen, cán bộ Tòa
phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội.
Ngày 07 tháng 4 năm 2008, tại trụ sở Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội, xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số
54/2007/KDTM-PT ngày 13 tháng 9 năm 2007 đối với các bên đương sự.
*Nguyên đơn:
1- Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14; trụ sở: số 35 Nguyễn Huy
Tưởng, Thanh Xuân, Hà Nội.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Hồ Quang Dũng – phó Tổng giám
đốc; có mặt.
2- Nguyễn Mạnh Cường; trú quán: 126/60 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân,
Hà Nội; có mặt.
3- Vũ Văn Chỉ; trú quán: Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội; có mặt.
4- Nguyễn Văn Khúc; trú quán: phòng 5 A3, tập thể giao thông vận tải,
Ngọc Khánh, Hà Nội; có mặt.
5- Nguyễn Minh Tự; trú quán: Phòng 501 K1 Thành Công, Ba Đình, Hà
Nội; có mặt.
6- Phạm Thị Bích Liên; trú quán: 24 ngõ 4 Sơn Tây, Ba Đình, Hà Nội;
vắng mặt nhưng có giấy ủy quyền cho ông Dũng đại diện; có mặt.
* Bị đơn:
1- Ông Tạ Huy Hằng – Giám đốc Công ty cổ phần vận tải hành khách
Thanh Xuân; địa chỉ Công ty: 35 Nguyễn Huy Tưởng, quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội; có mặt.
2- Ông Đỗ Đình Lập – Nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần
vận tải hành khách Thanh Xuân; trú quán: số 29 lô 2 hồ Atake, phường
Thanh Lương, Hà Nội; vắng mặt, ủy quyền cho ông Nguyễn Thế Quyền –
ông Quyền vắng mặt.
- Luật sự Nguyễn Thị Minh Châu bảo vệ cho ông Lập – vắng mặt.
* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1- Bà Bùi Thị Thanh Hà; trú quán: 53 Nguyễn Thái Học, Hà Nội – vắng
mặt; ủy quyền cho ông Nguyễn Thế Quyền – ông Quyền vắng mặt.
2- Ông Đỗ Đình Lập; trú quán: số 29 lô 2 hồ Atake, phường Thanh Lương,
Hà Nội; vắng mặt; ủy quyền cho ông Nguyễn Thế Quyền – ông Quyền
vắng mặt.
3- Bà Lê Thị Minh Nguyệt; trú quán 121/48/5 Kim Ngưu, Hai Bà Trưng,
Hà Nội; vắng mặt; ủy quyền cho ông Nguyễn Thế Quyền – ông Quyền
vắng mặt.
4- Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn; trụ sở: 415
đường Giải Phóng, Thanh Xuân, Hà Nội.
Đại diện: ông Nguyễn Nhâm – Giám đốc; có mặt.
5- Ông Lê Huy Cẩm; trú quán: số 22, ngách 518/6 Đội Cấn, Ba Đình, Hà
Nội; có mặt - ủy quyền cho ông Nguyễn Sơn Hải – ông Hải có mặt.
Luật sư ông Ngô Trọng Đức, đoàn luật sư Hà Nội bảo vệ cho ông Cẩm; có
mặt.
6- Ông Tạ Huy Hằng; trú quán: số 19 ngõ 167 đường Giải Phóng, Hà Nội.
7- Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân; trụ sở: 35 Nguyễn
Huy Tưởng.
Đại diện: Ông Tạ Huy Hằng – Chức vụ Giám đốc – có mặt.
Ông Nguyễn Văn Huy – Chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị - vắng mặt.
NHẬN THẤY
Theo bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành
phố Hà Nội, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đồng các nguyên đơn, bao gồm: Công ty cổ phần vận tải hành
khách số 14, Nguyễn Mạnh Cường, Vũ Văn Chỉ, Nguyễn Văn Khúc,
Nguyễn Minh Tự, Phạm Thị Bích Liên đã trình bày:
Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân được thành lập trên cơ
sở tách ra từ một bộ phận của Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14
theo Quyết định số 2937/1999/QĐ-BGTVT ngày 23/10/1999 của Bộ Giao
thông vận tải. Năm 2004 vốn điều lệ Công ty là 5,5 tỷ đồng. Do yêu cầu
phát triển nên Đại hội đồng cổ đông lần 4 tổ chức ngày 21/4/2004 đã ra
quyết định tăng vốn điều lệ Công ty từ 5,5 tỷ đồng lê 8 tỷ đồng, tương ứng
phát hành thêm 25.000 cổ phần.
Quá trình triển khai bán 25.000 cổ phần đã vi phạm những quy định của
Điều lệ Công ty luật Doanh nghiệp như sau:
- Ông Tạ Huy Hằng là giám đốc điều hành được Hội đồng quản trị giao
việc triển khai bán cổ phần đã tự ý họp một số cán bộ chủ chốt vào ngày
29/12/2004 phổ biến việc bán cổ phiếu nhưng không thông báo tới 134 cổ
đông của Công ty.
- Theo quy định tại Điều 70 Luật Doanh nghiệp năm 1999, Điều 14.2.1
Điều lệ công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân quy định việc
quyết định loại cổ phần và số lượng cổ phần mỗi loại chào bán thuộc thẩm
quyền quyết định của Đại hội đồng cổ đông chứ không thuộc thẩm quyền
của Hội đồng quản trị và giám đốc. Nghị quyết ngày 21/4/2004 Đại hội
đồng cổ đông thường niên chỉ quyết định tăng vốn điều lệ từ 5,5 tỷ đồng
lên 8 tỷ đồng mà chưa quyết định loại cổ phần và số lượng cổ phần chào
bán.
- Trong biên bản họp Hội đồng quản trị Công ty không ghi bán cổ phần cho
ai, số lượng được mua là bao nhiêu. Đơn mua chỉ có chữ ký của ông Tạ
Huy Hằng và ký duyệt bán của ông Đỗ Đình Lập, thậm chí còn bán 1 tỷ
đồng cổ phần cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn
trước cả ngày thông báo của ông Hằng.
- Việc bán 25.000 cổ phần của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh
Xuân do ông Hằng, ông Lập cùng một số cán bộ có chức vụ móc nối, bàn
bạc với một số người bên ngoài để trục lợi, làm thiệt hại cho Công ty, cụ
thể:
+ Ngày 29/12/2004 mới họp phổ biến chủ trương bán cổ phần nhưng trong
số 10 người nộp đơn đăng ký mua thì 08 người nộp đơn đăng ký trước
ngày 29/12/2004.
+ Thời hạn cho đăng ký từ 29/12/2004 đến ngày 04/01/2005 quá ngắn với
mục đích làm cho các cổ đông gặp khó khăn dù có biết cũng không thể
chuẩn bị tiền mua, nhất là cổ đông lớn như Công ty cổ phần vận tải hành
khách số 14.
+ Điều 61.1 Luật Doanh nghiệp quy định giá chào bán cổ phần không
được thấp hơn giá thị trường tại thời điểm chào bán. Việc bán một số
lượng lớn cổ phần cho người ngoài Công ty với giá bằng mệnh giá gốc
100.000 đồng/cổ phiếu đã vi phạm nguyên tắc và trực tiếp làm lợi cho
người ngoài Công ty, xâm hại lợi ích của cổ đông và Công ty.
Tại văn bản số 2250/CĐBVN-TCCB ngày 19/7/2006, Cục đường bộ Việt
Nam, cơ quan chủ quản của Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14
khẳng định việc triển khai bán 25.000 cổ phần của giám đốc Công ty cổ
phần vận tải hành khách Thanh Xuân là sai với Điều lệ tổ chức và hoạt
động của Công ty. Yêu cầu giám đốc Công ty cổ phần vận tải hành khách
số 14 chỉ đạo người đại diện phần vốn Nhà nước tại Công ty cổ phần vận
tải hành khách Thanh Xuân triệu tập Đại hội đồng cổ đông để hủy bỏ kết
quả bán 25.000 cổ phần, kiểm điểm những cá nhân, tập thể liên quan đến
khuyết điểm sai phạm trên theo đúng quy định của Điều lệ.
Đồng các nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết hủy bỏ kết quả bán
25.000 cổ phần năm 2004-2005.
Bị đơn, ông Tạ Huy Hằng và ông Đỗ Đình Lập ủy quyền cho ông Nguyễn
Thế Quyền trình bày:
a- Việc phát hành cổ phiếu:
- Việc Chủ tịch hội đồng quản trị và Giám đốc Công ty cho phát hành cổ
phiếu vào cuối tháng 12/2004, đầu tháng 01/2005 là thực hiện Nghị quyết
số 04/HĐQT ngày 21/4/2004 của Đại hội đồng cổ đông và Nghị quyết số
07/HĐQT ngày 27/12/2004 của Hội đồng quản trị Công ty cổ phần vận tải
hành khách Thanh Xuân.
- Việc phát hành cổ phiếu, Giám đốc Công ty chỉ có thông báo bằng văn
bản gửi các đơn vị trực thuộc Công ty và niêm yết tại trụ sở Công ty. Việc
không gửi cho từng cổ đông là không đúng quy định của pháp luật và Điều
lệ Công ty.
- Do chủ trương phát hành cổ phiếu có từ ngày 21/4/2004 và Hội đồng
quản trị đã nhiều lần họp bàn về việc này nên nhiều cổ đông đã biết nên đã
nộp đơn xin mua hoặc nộp tiền để đảm bảo việc mua trước khi có thông
báo chính thức về việc phát hành cổ phiếu. Điều đó không trái với pháp
luật và Điều lệ Công ty.
- Mặc dù có một số sai sót trong quá trình chào bán cổ phiếu và tại Đại hội
đồng cổ đông thường niên năm 2004 đã có cổ đông là ông Tự đề nghị xem
xét lại việc phát hành nhưng Đại hội đồng cổ đông vào năm trên vẫn ra
Nghị quyết số 11/HĐQT ngày 07/4/2005.
Tại báo cáo thẩm định báo cáo tài chính do ông Nguyễn Mạnh Cường –
Trưởng ban kiểm soát Công ty đọc trước Đại hội và được Đại hội thông
qua ghi rõ: “Trong năm, Công ty phát hành thêm cổ phiếu theo Nghị quyết
Đại hội đồng cổ đông năm 2003 (nhầm)”. Đồng thời theo số liệu trong biểu
mục ở mục 2 “về vốn chủ sở hữu” thì vốn của Công ty tại thời điểm đầu
năm là 4,8 tỷ đồng (có dư), hiện có (thời điểm lập báo cáo ngày 25/3/2005)
là 08 tỷ đồng.
Trong Nghị quyết này, Đại hội đồng cổ đông cũng nhất trí thông qua báo
cáo thay đổi nhân sự (Mục I, điểm 60). Tại đó thể hiện số cổ phần mới phát
hành đã được chấp nhận, người sở hữu các cổ phần đó được tham gia
biểu quyết: “Kết quả bầu cử: Ông Nguyễn Nhâm – số cổ phần
73.751/78.8582, đạt 93,85%, đã trúng cử vào Hội đồng quản trị”. Đồng thời
thông qua báo cáo bổ sung và sửa đổi Điều lệ “Vốn điều lệ Công ty là 08 tỷ
đồng”.
Bằng việc thông qua những nội dung nói trên, Đại hội đồng cổ đông của
Công ty đã công nhận kết quả bán 25.000 cổ phiếu, tuy có một số sai
phạm trong việc phát hành.
- Số cổ phần của các cổ đông mua đã được Công ty công nhận về mặt
pháp lý, ghi vào sổ cổ đông hoặc thể hiện trên sổ sách của Công ty trong
việc tính toán chia cổ tức cho các cổ đông.
- Về giá cổ phần bằng mệnh giá cổ phiếu, các nguyên đơn cho rằng đã
thấp hơn giá thực tế là thiếu căn cứ bởi lẽ do thị trường chứng khoán, hơn
nữa Công ty cũng chưa đủ điều kiện để đăng ký tham gia thị trường chứng
khoán. Vì vậy, về mặt pháp lý không có cơ sở để xác định giá cổ phiếu của
Công ty trên sàn chứng khoán.
Tại biên bản số 557/TCKT ngày 24/11/2002 về việc bàn giao vốn của Công
ty vận tải hành khách số 14 cho Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh
Xuân cũng thể hiện giá mua cổ phần bằng mệnh giá cổ phiếu. Trong biên
bản có ghi Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14 mua thêm cổ phiếu
của Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân bằng tiền mặt tương
đương 285.808.602 đồng.
b- Việc sử dụng số tiền mua cổ phiếu:
- Việc sử dụng số tiền thu được 2,5 tỷ đồng từ việc bán cổ phiếu do Hội
đồng quản trị quyết định, thể hiện:
- Nghị quyết số 19/HĐQT ngày 10/8/2005 đầu tư nâng cấp 02 tầng nhà văn
phòng; xác định kinh phí đầu tư, nguồn sử dụng là vốn cổ đông góp, nâng
cấp đóng lại 02 vỏ xe.
- Việc này đã được ông Nguyễn Văn Huy – Chủ tịch Hội đồng quản trị
khẳng định tại phiên hòa giải do Tòa án tiến hành.
c- Việc sử dụng diện cổ đông với tư cách đại diện cho chủ sở hữu số cổ
phần đã mua.
Trong thời gian từ ngày 07/4/2005 tới nay, các cổ đông đã mua 25.000 cổ
phần tham gia vào việc biểu quyết các công việc của Công ty với tư cách
là người đại diện cho toàn bộ số vốn của mỗi người, gồm vốn góp trước đó
và vốn mua số cổ phần nói trên. Riêng ông Nguyễn Nhâm còn được bầu
bổ sung vào Hội đồng quản trị.
d- Việc các cổ đông mua cổ phiếu biểu quyết trong Đại hội đồng cổ đông
thường niên năm 2006.
Trong Đại hội đồng cổ đông thường niên ngày 28/4/2006, các cổ đông mua
số cổ phần này đã nhất trí không biểu quyết với tư cách chủ sở hữu số cổ
phần đó. Điều này không có nghĩa với việc họ từ bỏ quyền sở hữu đối với
số cổ phần này, vì:
Tại Đại hội có nhiều ý kiến khác nhau về việc phát hành 25.000 cổ phần
nên tới 10h30 vẫn chưa thống nhất được cách thức biểu quyết. Ông
Nguyễn Văn Huy có phát biểu được ghi trong biên bản đại hội: “Nếu Đại
hội tiếp tục tranh luận thì sẽ không thành công”.
Các nội dung biểu quyết trong Đại hội chỉ là các vấn đề liên quan đến hoạt
động của Công ty, không phải là tước bỏ quyền sở hữu của các cổ đông
mua 25.000 cổ phần.
Riêng vấn đề phát hành cổ phiếu, Đại hội giao cho Hội đồng quản trị “xác
minh có kết luận đúng, sai sẽ thông báo cho toàn thể cổ đông được biết”.
Vì vậy, với tư cách cổ đông, để đảm bảo sự thành công của Đại hội, phục
vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh, những cổ đông này nhất trí không biểu
quyết trên phần vốn này. Việc này hoàn toàn không đồng nghĩa với việc
các cổ đông này từ bỏ quyền sở hữu số cổ phần mà họ đã mua.
e- Về việc một số cổ đông là nguyên đơn cho là bị mất quyền mua cổ
phần.
Vào thời điểm phát hành cổ phiếu, ông Đỗ Đình Lập là Giám đốc Công ty
cổ phần vận tải hành khách số 14 kiêm Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty
cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân; ông Nguyễn Văn Huy – Phó giám
đốc Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14 kiêm ủy viên Hội đồng quản
trị Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân; ông Nguyễn Mạnh
Cường – kế toán trưởng Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14 kiêm
Trưởng ban kiểm soát Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân, có
sự tham gia của cả 3 người này nên không thể nói Công ty cổ phần vận tải
hành khách số 14 không biết việc phát hành 25.000 cổ phần.
Trên thực tế, Công ty cổ phần vận tải hành khách số 14 đang gặp khó
khăn về tài chính và đã có nhiều văn bản gửi cơ quan chủ quản cho bán
bớt một phần vốn Nhà nước tại Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh
Xuân.
Trong số các nguyên đơn khác thì chỉ có một số người có thể không biết
việc phát hành cổ phiếu (ông Tự, bà Liên), còn một số cổ đông khác mặc
nhiên biết điều này vì lúc đó đang giữ chức vụ lãnh đạo trong Công ty như
ông Nguyễn Văn Khúc là phó giám đốc Công ty.
Do đó, về vấn đề này chúng tôi có quan điểm là: Đối với các nguyên đơn
mặc nhiên biết việc phát hành cổ phiếu mà không mua thì có nghĩa là họ
đã từ chối quyền mua cổ phần; đối với các cổ đông chưa biết việc phát
hành cổ phiếu, nay nếu họ có nhu cầu mua thì những cổ đông đã tham gia
mua 25.000 cổ phần tự nguyện chuyển nhượng cho họ cổ phần mà họ
được mua theo quy định của Điều lệ Công ty với giá ngang bằng với mệnh
giá ghi trên cổ phiếu.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Hằng, ông Lập, bà Hà, bà
Nguyệt do ông Quyền đại diện yêu cầu không hủy, ông Cầm yêu cầu
không hủy. Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân trình bày nếu
hủy sẽ hoàn trả tiền gốc và tính theo lãi suất không thời hạn của ngân
hàng.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 66/2007/KDTMST, ngày
05/6/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã căn cứ điểm 1 khoản 1
Điều 29, Điều 131, 245 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ các Điều 53, 61, 70,
77 Luật Doanh nghiệp, Điều 13.4 Điều lệ Công ty, quyết định:
1- Xử chấp nhận đơn khởi kiện của các nguyên đơn.
2- Hủy kết quả bán 25.000 cổ phiếu của Công ty cổ phần vận tải hành
khách Thanh Xuân do ông Tạ Huy Hằng, ông Đỗ Đình Lập tổ chức bán
ngày 04/01/2005.
3- Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân có trách nhiệm thanh
toán cho ông Lập 200 triệu đồng và 15 triệu đồng tiền lãi, ông Hằng 300
triệu đồng và 22.500.000 đồng tiền lãi, bà Hà 400 triệu đồng và 30 triệu
đồng tiền lãi, ông Cẩm 400 triệu đồng và 30 triệu đồng tiền lãi, bà Nguyệt
200 triệu đồng và 15 triệu đồng tiền lãi, Công ty trách nhiệm hữu hạn Công
nghệ và thiết bị hàn 01 tỷ đồng và 75 triệu đồng tiền lãi.
4- Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định án phí và quyền kháng cáo
theo luật định.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, bị đơn và là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Đỗ Đình Lập kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lơi, nghĩa vụ liên quan – bà
Bùi Thị Thanh Hà kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – bà Lê
Minh Nguyệt kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Công
ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn kháng cáo đề nghị hủy
bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông
Lê Huy Cẩm kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông
Tạ Huy Hằng kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 14 tháng 6 năm 2007, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Công
ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân kháng cáo đề nghị hủy bản án
sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc
thẩm, nghe các luật sư và các đương sự trình bày; qua việc hỏi công khai
và kết quả tranh luận tại phiên tòa; sau khi thảo luận và nghị án,
XÉT THẤY
Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm này, ông Nguyễn Thế Quyền, đại diện
được ủy quyền của ông Đỗ Đình Lập, bà Bùi Thị Thanh Hà và bà Lê Minh
Nguyệt có đơn xin hoãn phiên tòa. Đơn này có những điểm không phù hợp
về mặt thời gian so với thời điểm mở phiên tòa phúc thẩm ngày 07/4/2008,
mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm ngày 13/3/2008, Hội đồng xét xử phúc
thẩm đã hoãn phiên tòa với lý do Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ
và Thiết bị hàn, vào ngày 12/3/2008 đã rút lại giấy ủy quyền cho ông
Nguyễn Thế Quyền, thay mặt Công ty tham gia tố tụng và ủy quyền cho
ông Dương Mạnh Hùng, Luật sư thuộc Văn phòng luật sư Tuyết Nhung
thay mặt Công ty tham gia tố tụng. Ông Hùng đã có đơn xin hoãn phiên
tòa. Nhưng Hội đồng xét xử phúc thẩm đã trực tiếp giao giấy triệu tập,
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cho các đương sự có mặt tại
phiên tòa này, trong đó có đại diện được ủy quyền, đồng thời giao giấy mở
phiên tòa ngày 07/4/2008 cho các Luật sư. Tại đơn xin hoãn phiên tòa đề
ngày 08/4/2008, đại diện được ủy quyền xin hoãn phiên tòa với lý do công
tác đột xuất, đồng thời cho rằng đây là vụ án phức tạp nên cần phải tiếp
tục làm sáng tỏ trong quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Đại diện
được ủy quyền cho ông Đỗ Đình Lập cũng cho rằng ở những phiên tòa
phúc thẩm đã hoãn luôn có mặt đầy đủ nên lần xin hoãn này là lần đầu.
Xét, tại các phiên tòa phúc thẩm đã hoãn, đại diện được ủy quyền cho ông
Lập đều xác nhận ông Lập đã được nhận giấy triệu tập nhưng vì nhận
thức, quan điểm của mình nên ông Lập không tham gia và ủy quyền cho
đại diện ủy quyền tham gia. Vì vậy, lý do hoãn phiên tòa này mà đại diện
được ủy quyền viện dẫn khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự là không
có căn cứ. Mặt khác, bà Hà và bà Nguyệt tại hai phiên tòa khác nhau đã
xin hoãn phiên tòa phúc thẩm và đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận. Về lý do cần làm rõ trong quá trình hỏi và tranh luận thì thấy, tại
phiên tòa phúc thẩm ngày 19/2/2008, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã giành
trọn một ngày để tiến hành hỏi và tranh luận, các bên đương sự, các luật
sư đã trình bày toàn bộ quan điểm của mình, có hỏi đáp và đối chất với
nhau về toàn bộ các vấn đề đang tranh chấp giữa các bên đương sự. Khi
không có ý kiến nào khác thì Hội đồng xét xử phúc thẩm mới kết thúc phần
tranh luận để nghị án. Để đảm bảo về tố tụng, Hội đồng xét xử phúc thẩm
vào sáng ngày 20/02/2008 đã phải hoãn phiên tòa. Vì vậy, lý do hoãn phiên
tòa để làm rõ thêm nội dung là không có căn cứ để chấp nhận.
Như đã nêu ở trên, tại phiên tòa phúc thẩm ngày 13/3/2008, Luật sư
Nguyễn Thị Minh Châu, bảo vệ quyền lợi cho ông Lập đã nhận được giấy
do Hội đồng xét xử phúc thẩm gửi trực tiếp. Tuy nhiên, khi khai mạc phiên
tòa ngày 07/4/2008 Luật sư không có mặt. Tại phần hỏi công khai, Luật sư
có mặt và đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm thông báo tại phần thủ tục
phiên tòa. Luật sư đề nghị cho hoãn phiên tòa với lý do đại diện được ủy
quyền của ông Lập, bà Hà và bà Nguyệt vắng mặt. Luật sư cũng cho rằng
việc thay đổi Hội đồng xét xử phúc thẩm theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử phúc thẩm (thay thẩm phán Nguyễn Huy Chương bằng thẩm phán
Nguyễn Đức Nhận) phải được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết
định. Xét đề nghị của Luật sư Châu, ngoài lý do không chấp nhận hoãn
phiên tòa như đã nêu ở trên, thì thấy theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ
luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa ngày 07/4/2008, các đương sự có mặt
đều chấp nhận việc thay đổi Thẩm phán trên. Ông Nguyễn Nhâm, đại diện
theo pháp luật của Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị
hàn, lúc đầu cũng đề nghị hoãn phiên tòa với lý do thay đổi thẩm phán
nhưng sau đó chấp nhận sự thay đổi này và đề nghị xét xử. Với diễn biến
tại phiên tòa, sau khi hội ý, Hội đồng xét xử phúc thẩm Quyết định vẫn tiếp
tục xét xử vụ án.
Với những phân tích trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng
dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với kháng cáo của ông Đỗ Đình Lập, bà Bùi Thị Thanh Hà và bà Lê
Minh Nguyệt. Các quyết định của bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm
số 66 ngày 05/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có liên quan
đến ông, bà nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Tạ Huy Hằng, ông Lê Huy Cẩm, Công ty
trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn vẫn giữ nguyên nội dung
kháng cáo, theo đó đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án kinh
doanh thương mại sơ thẩm số 66/2007/KDTMST ngày 05/6/2007 của Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội với lập luận các đồng nguyên đơn đã khởi
kiện sai đối tượng bởi các cá nhân là ông Hằng, ông Lập không đứng ra
chào bán 25.000 cổ phần mà là do Công ty cổ phần vận tải hành khách
Thanh Xuân tổ chức chào bán theo Nghị quyết số 11 ngày 07/4/2005. Nghị
quyết này đã thể hiện việc thực hiện bán số cổ phần trên theo chủ trương
được nêu trong Nghị quyết số 04 ngày 21/4/2004 của Đại hội đồng cổ
đông thường niên của Công ty. Căn cứ quy định tại Điều 79 Luật Doanh
nghiệp năm 1999 thì thời hiệu khởi kiện đối với Nghị quyết số 11 nêu trên
đã hết. Các đương sự có mặt tại phiên tòa vẫn giữ nguyên nội dung đã
trình bày tại phiên tòa ngày 19/02/2008. Tại phiên tòa, bị đơn và người liên
quan, Luật sư Đức, ông Nguyễn Sơn Hải đề nghị xem xét quan điểm của
Luật sư Nguyễn Thị Minh Châu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông
Đỗ Đình Lập đã trình bày ở phiên tòa ngày 19/02/2008 và đồng tình với
quan điểm này của Luật sư Châu, theo đó thì Tòa án cấp sơ thẩm khi giải
quyết vụ án này đã có những vi phạm về tố tụng và về nội dung. Về tố
tụng, cùng một quan hệ pháp luật đang tranh chấp, với những người tham
gia tố tụng như nhau nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại thụ lý và giải quyết
bằng hai vụ án khác nhau là không đúng, kết quả giải quyết là mâu thuẫn
nhau, vi phạm Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự; việc xác định ông Hằng, ông
Lập là bị đơn là không đúng; nếu theo Nghị quyết số 11 ngày 07/4/2005
của Đại hội đồng cổ đông Công ty thì việc các nguyên đơn khởi kiện đã hết
thời hiệu, sau thời hạn 90 ngày, các cổ đông Công ty đã đồng ý, không
phản đối, 25.000 cổ phần đã bán xong, tăng vốn điều lệ của Công ty nên
Nghị quyết này đang có hiệu lực. Theo quan điểm của Luật sư Châu tại
phiên tòa ngày 19/02/2008 thì lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm cần áp dụng điểm
a khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự để trả lại đơn kiện cho các
nguyên đơn mới đúng. Ngoài ra, quan điểm của Luật sư Châu còn cho
rằng việc bán 25.000 cổ phần hoàn toàn phù hợp với việc sửa Điều lệ và
thay đổi đăng ký kinh doanh của Công ty, Tòa án cấp sơ thẩm hủy bỏ kết
quả bán 25.000 cổ phần là can thiệp trái pháp luật vào hoạt động kinh
doanh của Công ty; việc hủy kết quả bán 25.000 cổ phần, trả lại tiền gốc
mua và lãi suất cho các cổ đông đã mua là không đúng vì sự việc đã diễn
ra khoảng 3 năm nên cần phải định giá tài sản hiện nay của Công ty, từ đó
đánh giá giá trị cổ phần để trả lại cho cổ đông đã mua. Về nội dung, theo
quan điểm của Luật sư Châu tại phiên tòa ngày 19/02/2008 thì các nguyên
đơn kiện là không đúng vì đa số nguyên đơn đã có chức vụ trong Công ty,
đã tham gia tích cực vào hoạt động của Công ty, biết rõ Công ty chào bán
cổ phần nhưng không có nhu cầu mua, đồng thời sau đó cũng không phản
đối bằng văn bản; khi Công ty chào bán cổ phần, không thông báo đến
từng cổ đông nhưng theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 1999 thì
đây không phải là quy định bắt buộc, mặt khác việc bán 25.000 cổ phần đã
được Công ty thực hiện đúng trình tự, Điều 53 Luật Doanh nghiệp 1999
không khống chế người ngoài Công ty mua bởi thực tế cổ đông Công ty
không có nhu cầu mua thì được phép bán ra ngoài. Ngoài ra, số tiền bán
cổ phiếu, Công ty đã sử dụng có hiệu quả, mang lại lợi nhuận. Việc Tòa án
cấp sơ thẩm hủy kết quả bán 25.000 cổ phần đã gây xáo trộn trong Công
ty, ảnh hưởng quyền lợi của những cổ đông đã mua cổ phần, uy tín kinh
doanh của Công ty và gián tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao
động đang làm việc trong công ty. Với những phân tích về tố tụng và nội
dung nêu trên, theo quan điểm của Luật sư Châu tại phiên tòa ngày
19/02/2008 đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy án sơ thẩm, giao hồ sơ
vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm thu thập thêm chứng cứ để giải quyết lại vụ
án.
Luật sư Ngô Trọng Đức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ông Lê Huy
Cẩm thì một mặt chia sẻ và đồng tình với phần trình bày của Luật sư Châu
như đã nêu trên, đồng thời nhấn mạnh việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định
quan hệ pháp luật là mua bán cổ phiếu là không chính xác vì không làm rõ
được người mua, người bán, xác định bị đơn gồm ông Hằng, ông Lập là
không đúng. Sau khi trình bày chu trình bán 25.000 cổ phần của Công ty,
Luật sư Đức cho rằng cổ đông Cẩm đã mua cổ phần, được Nghị quyết số
11 ngày 07/4/2005 của Công ty thừa nhận, có tên trong sổ cổ đông Công
ty. Từ lập luận trên Luật sư đề nghị hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ việc
giải quyết vụ án.
Các đồng nguyên đơn xác nhận sau khi xét xử sơ thẩm không có kháng
cáo và đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm với lập luận dù suy diễn, phân
tích như thế nào thì những đương sự có kháng cáo cũng phải thừa nhận
việc chào bán 25.000 cổ phần là không phù hợp với Luật Doanh nghiệp
năm 1999 và Điều lệ của Công ty. Đồng thời cho rằng việc tăng vốn điều lệ
của Công ty không đồng nghĩa với việc bán cổ phiếu, cũng như ở thời
điểm này có thể có nhu cầu bán cổ phần nhưng ở thời điểm khác có nhu
cầu mua cổ phần theo đúng quyền của cổ đông đã được pháp luật quy
định.
Xét kháng cáo của các đương sự đồng thời đánh giá quan điểm của các
Luật sư, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy như sau:
1- Về nội dung: Theo quy định tại Điều 70, Điều 77 Luật Doanh nghiệp năm
1999 và theo Điều 14.2.1 Điều lệ của Công ty cổ phần vận tải hành khách
Thanh Xuân thì thẩm quyền quyết định việc chào bán loại cổ phần, số
lượng cổ phần của từng loại là của Đại hội đồng cổ đông Công ty. Theo
khoản 1 Điều 61; điểm b khoản 2 Điều 80 Luật doanh nghiệp năm 1999 thì
Hội đồng quản trị Công ty chỉ có quyền quyết định giá chào bán cổ phần.
Đối với cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại thì
Hội đồng quản trị của Công ty chỉ có quyền kiến nghị. Theo hồ sơ vụ án và
lời trình bày của ông Hằng, giám đốc và là người đại diện theo pháp luật
của Công ty tại phiên tòa này thì hàng năm, Công ty họp Đại hội đồng cổ
đông thường niên. Các Nghị quyết ngày 21/4/2004, ngày 07/4/2005 và
ngày 28/4/2006 không đề cập đến việc chào bán loại cổ phần, số lượng cổ
phần của từng loại. Các đương sự có kháng cáo và lời trình bày của các
Luật sư, sau khi dẫn ra các văn bản do giám đốc Công ty đã ban hành để
cho rằng việc bán 25.000 cổ phần là đúng trình tự, Hội đồng quản trị của
Công ty nhận ủy quyền của Đại hội đồng cổ đông, từ đó giao trách nhiệm
cho Giám đốc Công ty triển khai bán 25.000 cổ phần là không phù hợp với
thẩm quyền đã được Luật Doanh nghiệp quy định như đã nêu ở trên. Việc
các đương sự có kháng cáo và quan điểm của Luật sư cho rằng Nghị
quyết số 11 ngày 07/4/2005 đã quyết định việc chào bán 25.000 cổ phần là
không đúng vì một mặt như đã phân tích ở trên và mặt khác tại Đại hội
đồng cổ đông thường niên của Công ty vào ngày trên, trong chương trình
của Đại hội không có nội dung bàn về số lượng của từng loại, cũng như
loại cổ phần sẽ được đưa ra thảo luận và quyết nghị. Mặt khác, cũng trong
Đại hội này đã có ý kiến của cổ đông nêu ra việc chào bán 25.000 cổ phần
được thực hiện vào cuối năm 2004, đầu năm 2005 của Công ty là không
phù hợp với quy định của pháp luật và Điều lệ của Công ty nhưng Đại hội
không xem xét yêu cầu này. Hơn nữa, đến Nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông thường niên vào ngày 28/4/2006 thì chính các cổ đông đã mua
25.000 cổ phần cũng không đồng ý tham gia biểu quyết theo số cổ phần
mới mà mình trước đó đã mua, nghĩa là những nội dung có liên quan đến
việc chào bán loại cổ phần, số lượng cổ phần của từng loại chưa được các
Đại hội đồng thường niên của Công ty đưa vào nội dung nghị sự để giải
quyết. Chính vì có ý kiến của cổ đông về vấn đề này chưa được Đại hội cổ
đông thường niên của Công ty quyết định nên vào ngày 09/11/2006 Công
ty mới tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường để giải quyết. Sau khi Đại
hội ban hành Nghị quyết số 186 vào ngày trên, các đương sự mới khởi
kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội với yêu cầu khởi kiện khác
nhau.
Như vậy, xét theo trình tự thời gian, nội dung của các Nghị quyết của Đại
hội đồng cổ đông thường niên và bất thường của Công ty thì nội dung liên
quan đến việc chào bán 25.000 cổ phần do Hội đồng quản trị và giám đốc
Công ty thực hiện chính thức được Đại hội đồng cổ đông bất thường ngày
09/11/2006 giải quyết. Đối chiếu với đơn khởi kiện của các đồng nguyên
đơn trong vụ án này thì thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Kháng cáo của các
đương sự, cũng như quan điểm của các Luật sư không được chấp nhận.
Về việc cho rằng đa số các đồng nguyên đơn đã biết việc chào bán cổ
phần nhưng không có nhu cầu mua, cũng như không nhất thiết phải thông
báo việc bán cổ phần đến từng cổ đông của Công ty thì thấy theo quy định
tại điểm 1.c Điều 53 Luật Doanh nghiệp 1999 và Điều 13.4 Điều lệ Công ty
thì các cổ đông phổ thông được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương
ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong Công ty, theo đó
đây là quyền các cổ đông được hưởng. Việc không thông báo đến từng cổ
đông của Công ty mà chỉ thông báo đến các đơn vị trực thuộc của Công ty
đã làm ảnh hưởng đến quyền được mua cổ phần mới chào bán của Công
ty đối với các cổ đông, đặc biệt là những cổ đông trước đây đã làm việc ở
công ty nhưng theo chế độ, chính sách không có mặt tại Công ty tại thời
điểm quyết định chào bán cổ phần. Chính vì vậy, tại Điều 70, Điều 77 Luật
Doanh nghiệp năm 1999 mới quy định thẩm quyền của Đại hội đồng cổ
đông của Công ty bởi tại Đại hội, toàn thể cổ đông được tham gia, thảo
luận những vấn đề liên quan của Công ty, trong đó có việc quyết định việc
chào bán loại cổ phần, số lượng cổ phần của từng loại. Với phân tích trên
thì việc các đương sự có kháng cáo và quan điểm của các Luật sư cho
rằng việc chào bán cổ phần là đúng trình tự là không phù hợp.
Về việc cho rằng giá trị 25.000 cổ phần đã bán là phù hợp với Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh và Điều lệ của Công ty thì thấy việc tăng giảm
vốn điều lệ của Công ty đã được quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số
02/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/02/2000 về đăng ký kinh doanh,
theo đó đây là trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của Công ty,
không đồng nghĩa với việc do chào bán 25.000 cổ phần. Hơn nữa, việc
chào bán cổ phần phải phù hợp với quy định liên quan của Luật Doanh
nghiệp và Điều lệ Công ty. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xử hủy kết quả chào
bán 25.000 cổ phần tuy có ảnh hưởng đến quyền lợi của những cổ đông
đã mua nhưng cũng đảm bảo được quyền lợi của các cổ đông về việc
được mua cổ phần mới chào bán đã được pháp luật quy định và bản chất
là thực hiện việc chào bán cổ phần phải phù hợp với quy định của Luật
Doanh nghiệp và Điều lệ Công ty. Với phân tích trên thì việc các đương sự
kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm quyết định trả lại tiền gốc đã mua
cổ phần và tiền lãi phát sinh không phù hợp và phải định giá lại giá trị tài
sản còn lại của Công ty không có căn cứ để chấp nhận. Mặt khác, các giao
dịch trên giữa các cổ đông đã mua với Công ty, do không phù hợp với quy
định của pháp luật nên yêu cầu được định giá để trả bằng giá trị cổ phần
tại thời điểm định giá là thiếu cơ sở.
2- Về tố tụng:
Theo quy định tại Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự thì các đương sự có quyền
quyết định và tự định đoạt của mình. Tại đơn khởi kiện ngày 30/11/2006
nguyên đơn gồm Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn,
bà Bùi Thị Thanh Hà và ông Lê Huy Cẩm đã kiện với hai nội dung: Hủy
Nghị quyết số 186 ngày 09/11/2006 của Đại hội đồng cổ đông bất thường
và công nhận kết quả chào bán cổ phần do Công ty tiến hành. Đến ngày
29/3/2007, các đồng nguyên đơn trong vụ án trên đã rút yêu cầu đòi công
nhận kết quả chào bán cổ phần. Đây là ý chí tự nguyện và quyền định đoạt
của các đương sự phù hợp với quy định của pháp luật. Ở thời điểm đó,
Tòa án cấp sơ thẩm cũng nhận được đơn khởi kiện của các đồng nguyên
đơn trong vụ án này. Việc Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý, giải quyết 02 vụ án là
phù hợp với Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự, không vi phạm tố tụng bởi lẽ
nguyên đơn, số lượng nguyên đơn, nội dung khởi kiện là khác nhau. Yêu
cầu khởi kiện của bà Hà, ông Cẩm và Công ty trách nhiệm hữu hạn Công
nghệ và Thiết bị hàn đã được chấp nhận do trình tự biểu quyết tại Đại hội
đồng cổ đông bất thường của Công ty không phù hợp với Điều 103 Bộ luật
dân sự năm 1999. Tại bản án sơ thẩm số 66 ngày 05/6/2007, Tòa án cấp
sơ thẩm quyết định nội dung hoàn toàn khác vói khởi kiện của ông, bà và
Công ty có tên trên.
Về việc xác định sai tư cách của bị đơn là ông Hằng, ông Lập thì thấy tại
Điều 80, Điều 81 và Điều 82 của Luật Doanh nghiệp năm 1999 quy định về
Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị và cuộc họp Hội đồng quản trị
và sự liên quan của Hội đồng quản trị Công ty mà ông Lập là Chủ tịch Hội
đồng quản trị trong việc quyết định chào bán 25.000 cổ phần thì hoạt động
của ông Lập với tư cách trên đã ảnh hưởng đến quyền lợi của cổ đông
không được mua cổ phần mới chào bán nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xác
định ông Lập là bị đơn là đúng, thiếu sót là không ghi chức danh của ông
Lập trong Công ty. Đối với ông Hằng, theo Điều lệ và Giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của Công ty là người đại diện theo pháp luật, thay mặt
Công ty đứng ra chào bán cổ phần theo Nghị quyết của Đại hội đồng cổ
đông là phù hợp với quy định của pháp luật. Lẽ ra khi thụ lý vụ án, Tòa án
cấp sơ thẩm phải xác định Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh
Xuân là bị đơn mới đúng và xác định cá nhân ông Hằng là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan do là cổ đông tham gia mua cổ phần chào bán. Tuy
việc xác định sai tư cách tố tụng như đã nêu trên nhưng nội dung giải
quyết vụ án này là phù hợp với quy định của pháp luật nên chỉ cần rút kinh
nghiệm về tố tụng.
- Về đối tượng khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp: theo hồ sơ vụ án,
Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 3.5b Nghị quyết số 01/2005/NQHĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thì đây là tranh chấp giữa các cổ đông trong Công ty với nhau do việc
Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân tổ chức chào bán 25.000
cổ phần không đúng với quy định của Luật Doanh nghiệp và Điều lệ Công
ty. Đã có việc các cổ đông đã mua cổ phần mới chào bán thì yêu cầu giữ
nguyên kết quả mua cổ phần, còn các cổ đông không được mua cổ phần
thì yêu cầu hủy kết quả mua, đề nghị làm đúng quy định của pháp luật và
Điều lệ Công ty để họ đăng ký mua. Đây chính là tranh chấp phát sinh từ
hoạt động của Công ty. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp
luật trên để thụ lý, giải quyết là đúng.
Tổng hợp các phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo
của ông Tạ Huy Hằng, ông Lê Huy Cẩm, Công ty trách nhiệm hữu hạn
Công nghệ và Thiết bị hàn, cũng như quan điểm của Luật sư.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 2 Điều 266; khoản 1 Điều 275 Bộ luật
tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của ông Đỗ Đình Lập, bà Bùi
Thị Thanh Hà và bà Lê Minh Nguyệt.
Áp dụng Điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 53, Điều 61, Điều 70, Điều
77 và Điều 79 Luật Doanh nghiệp 1999, Điều 8, Điều 13.4 Điều lệ Công ty
cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân.
1- Không chấp nhận kháng cáo của các ông Tạ Huy Hằng, Lê Huy Cẩm và
Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và thiết bị hàn, giữ nguyên bản
án sơ thẩm. Cụ thể như sau: Hủy kết quả bán 25.000 cổ phiếu của Công ty
cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân do ông Tạ Huy Hằng, giám đốc
Công ty và ông Đỗ Đình Lập, nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty đã
tổ chức bán vào ngày 04/01/2005.
Công ty cổ phần vận tải hành khách Thanh Xuân có trách nhiệm thanh
toán cho:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn: 1.000.000 đồng
tiền gốc và 75.000.000 đồng tiền lãi phát sinh.
- Ông Lê Huy Cẩm: 400.000.000 đồng và 30.000.000 đồng tiền lãi phát
sinh.
Áp dụng Nghị định số 70/CP của Chính phủ, các ông Đỗ Đình Lập, Tạ Huy
Hằng, Lê Huy Cẩm, các bà là Bùi Thị Thanh Hà, Lê Minh Nguyệt và Công
ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn phải chịu án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm.
Ông Tạ Huy Hằng đã nộp 200.000 đồng tạm ứng án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm theo Biên lai số 002836 ngày 21/6/2007, các ông
Đỗ Đình Lập, Lê Huy Cẩm; các bà Bùi Thị Thanh Hà, Lê Minh Nguyệt và
Công ty trách nhiệm hữu hạn Công nghệ và Thiết bị hàn đã nộp 1.000.000
đồng tạm ứng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo Biên lai số
002831 ngày 20/6/2007 của Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội. Các
ông bà và Công ty có tên trên đã nộp đủ án phí kinh doanh thương mại
phúc thẩm.
Kể từ ngày bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật và ngày bên được thi
hành án có đơn yêu cầu được thi hành án, nếu bên phải thi hành án không
thi hành thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi phát sinh theo
quy định của pháp luật, tính trên số tiền và thời gian chậm thi hành.
2- Các quyết định khác của bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số
66/2007/KDTM-ST ngày 05/6/200 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời
hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
CÁC THẨM PHÁN
Nguyễn Đức Nhận Nguyễn Lương Thuận
(Đã ký) (Đã ký)
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Thế Linh
(Đã ký)