198
Chương V
LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
SAU CHIẾN TRANH
(1976-1981)
1. Lãnh đạo nhân dân khắc phục khó khăn,
từng bước ổn định chính trị, khơi phục, phát triển
kinh tế - văn hóa - xã hội
Ngày 30-4-1975, thành phố Sài Gịn được hồn tồn
giải phóng, chính quyền cách mạng được thành lập. Sự
quản lý, điều hành mọi hoạt động của thành phố đặt
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ủy ban Quân quản, do
đồng chí Thượng tướng Trần Văn Trà làm Chủ tịch,
đồng chí Võ Văn Kiệt làm Bí thư Đảng ủy đặc biệt,
kiêm Phó Chủ tịch Ủy ban Qn quản Sài Gịn - Gia
Định. Đến giữa tháng 8-1975, Đảng ủy đặc biệt giải
thể, Trung ương cử đồng chí Võ Văn Kiệt đảm nhiệm Bí
thư Thành ủy Sài Gịn - Gia Định.
Giữa tháng 12-1975, Bộ Chính trị phân cơng đồng
chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư Thành ủy Sài Gịn -
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
199
Gia Định, đồng chí Võ Văn Kiệt đảm nhiệm cương vị
Phó Bí thư. Ngày 20-1-1976, Hội đồng Chính phủ cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra Quyết
định bổ nhiệm đồng chí Võ Văn Kiệt - Phó Bí thư
Thành ủy, giữ chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách
mạng, kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch thành phố
Sài Gòn - Gia Định.
Tháng 4-1976, đồng chí Võ Văn Kiệt được bầu làm
đại biểu Quốc hội khóa VI. Đến tháng 12-1976, tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí Võ
Văn Kiệt được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị, được phân cơng làm Bí
thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh1. Tại Đại hội đại
biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất
(tháng 4-1977) và lần thứ hai (tháng 10-1980), đồng
chí Võ Văn Kiệt được bầu giữ chức Bí thư Thành ủy.
Trong khoảng thời gian hơn 5 năm, trên cương vị
Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí
Võ Văn Kiệt đã có sự chỉ đạo hết sức năng động, sáng
tạo, góp phần quan trọng vào việc ổn định tình hình
chính trị, kinh tế - xã hội của thành phố đông dân
nhất cả nước.
_________
1. Tháng 7-1976, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam quyết định đổi tên Sài Gịn thành “Thành phố Hồ Chí Minh”.
200
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
Tình hình thành phố sau giải phóng ngổn ngang
cơng việc: thành lập chính quyền mới; vấn đề cung cấp
lương thực, thực phẩm hằng ngày cho người dân để
thành phố hoạt động bình thường; vấn đề giao thông,
trật tự, an ninh; vấn đề vận động, cải tạo đối với gần 40
vạn quan chức ngụy quân, ngụy quyền; vấn đề di tản
của ngoại kiều; cung cấp hậu cần cho lực lượng quân
đội; vấn đề hồi hương cho dân ly tán, v.v..
Lúc này, cũng như cả nước, thành phố thực hiện cơ
chế quản lý kế hoạch hóa, tập trung quan liêu, bao cấp,
do đó, gặp rất nhiều vấn đề nan giải. Nền kinh tế Việt
Nam nói chung, kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng, trì trệ, thiếu năng động và kém hiệu quả.
Về vấn đề lương thực: Với hơn 80% dân số sản xuất
nông nghiệp, sống dựa vào nông nghiệp, nhưng sản
lượng lương thực không tăng, trong khi dân số tăng
nhanh, Nhà nước buộc phải nhập khẩu lương thực với
khối lượng ngày càng lớn (năm 1978 nhập 1,8 triệu tấn;
năm 1979: 2,2 triệu tấn).
Về sản xuất công nghiệp: Theo báo cáo thống kê,
sản xuất công nghiệp cả nước tăng bình quân 0,6%/năm,
nhưng thật ra đại đa số nhà máy, xí nghiệp quốc doanh
ở trong tình trạng “lời giả, lỗ thật”, vì được Nhà nước
bao cấp tràn lan. Lạm phát đạt đến tốc độ “phi mã”,
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
201
năm 1980 tăng gấp ba lần so với năm 1976 (khoảng 774%),
trong khi GDP chỉ tăng bình quân 0,4%/năm1.
Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, khó khăn nhất lúc
này là nạn thiếu lương thực, chất đốt, xăng dầu phục vụ
giao thông vận tải, điện cho sản xuất và sinh hoạt. Sau
hơn một năm giải phóng, nguồn ngun liệu dự trữ cạn
dần, tình hình kinh tế thành phố ngày càng xuống dốc
và bước vào sự khủng hoảng trầm trọng. Nhân dân Sài
Gòn phải ăn độn hạt bo bo, khoai, sắn.
Để giải quyết vấn đề lương thực cung cấp cho thành
phố, Ban lãnh đạo Thành ủy, đứng đầu là Bí thư Võ
Văn Kiệt tập trung lo “chạy gạo” cho dân2. Đồng chí Võ
Văn Kiệt mời ông Lữ Minh Châu, Giám đốc Ngân hàng;
bà Nguyễn Thị Ráo (Ba Thi), Giám đốc Công ty Lương
thực; Giám đốc Sở Tài chính, Sở Giao thơng vận tải đến
họp bàn việc tháo gỡ khó khăn. Đồng chí Bí thư Thành
ủy yêu cầu Công ty Lương thực thành phố đứng ra làm
đầu mối, xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mua
lúa của nông dân theo giá thị trường; các đơn vị tài
chính, ngân hàng lo tiền, ngành giao thơng bố trí vận
_________
1. Theo Phạm Ngọc Trâm: Q trình đổi mới hệ thống chính trị
ở Việt Nam (1986-2011), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009,
tr.61.
2. Lúc đó Nhà nước áp giá pháp lệnh là 5,2 hào 1 kg, trong khi
thị trường là 1,5 đồng 1 kg, nên nông dân không muốn bán cho
Nhà nước.
202
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
chuyển đưa lúa gạo về thành phố. Ủy ban Vật giá nhà
nước thấy vậy, “kiện” lên Trung ương: “Ơng Kiệt phá
rào”. Đồng chí Ba Thi, Giám đốc Công ty Lương thực
thành phố bị triệu tập ra Hà Nội kiểm điểm.
Là người đứng đầu Thành ủy, “dám làm, dám
chịu”, “trách nhiệm cao nhất trước dân là khơng được
để dân đói”, đồng chí Võ Văn Kiệt trực tiếp ra Trung
ương báo cáo, thuyết phục Bộ Chính trị; trực tiếp giải
trình với Tổng Bí thư Lê Duẩn và được Bộ Chính trị
ủng hộ. Nhờ đó, giá thu mua lương thực cả nước được
điều chỉnh lên gần với giá trị thực1.
Nhờ có Thành phố Hồ Chí Minh mua bán lúa gạo
đúng với giá trị thực, nên An Giang - một tỉnh cung
cấp hàng hóa nơng sản quan trọng bậc nhất ở miền
Tây, đã trở thành địa phương phát triển mạnh nền
kinh tế hàng hóa, là đầu mối giao thương giữa Việt
Nam với Campuchia và các tỉnh đồng bằng sông Cửu
Long. Từ cuối năm 1976, An Giang cơ bản đã xóa bỏ
_________
1. Sau này khi nhắc lại việc giải quyết lương thực cho Thành
phố Hồ Chí Minh, đồng chí Võ Văn Kiệt đã nói: “Khi làm Bí thư
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, tơi phải đi giữa “hai làn đạn”;
một bên là để dân đói, để sản xuất đình đốn là có tội với dân, với
Đảng; một bên là để cơ sở bung ra tự cứu là phạm vào nhiều điều
cấm kỵ. Nhưng nhờ hơn 20 năm chống Mỹ kiên cường, không ai nỡ
quy cho chúng tôi cái tội phản bội, đó là cái áo chống đạn giúp
chúng tơi thốt hiểm và thành cơng”.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
203
cơ chế “thu - mua” bất hợp lý; năm 1980, xóa bỏ các
trạm kiểm sốt hàng hóa, mở đường cho nền kinh tế
hàng hóa phát triển1.
Sau khi giải quyết vấn đề lương thực, đồng chí Võ
Văn Kiệt tiếp tục chỉ đạo tháo gỡ khó khăn cho các nhà
máy, xí nghiệp đang hoạt động cầm chừng vì cơ chế.
Doanh nghiệp thì khơng có ngoại tệ, trong khi Ngân
hàng Ngoại thương ứ đọng vốn, “thừa đôla trong két”,
lại không được tự ý cho vay. Nhiều ngành sản xuất
khác cũng lâm vào tình trạng đình đốn do thiếu vốn,
thiếu vật tư, nguyên liệu... Đồng chí Võ Văn Kiệt đã
chỉ đạo Ngân hàng Thành phố nghiên cứu cơ chế cho
vay vốn sản xuất; yêu cầu các doanh nghiệp phải cam
kết trả được nợ. Nút thắt được gỡ, doanh nghiệp có
nguyên liệu sản xuất, có hàng hóa phục vụ nhân dân,
có lãi dư trả nợ, kinh tế dần dần hồi phục và theo đà
phát triển.
Mặc dù đã có một số chuyển biến, nhưng đồng chí
Võ Văn Kiệt cho rằng, tất cả những giải pháp đó chỉ là
_________
1. Cùng với việc tỉnh An Giang thực hiện đột phá về giá, xóa bỏ
tình trạng “ngăn sơng, cấm chợ”, tỉnh Long An - cửa ngõ phía nam
của thành phố đã thực hiện bỏ tem phiếu - một đặc trưng của chế
độ bao cấp - chuyển sang cơ chế một giá. Năm 1977, đối với Việt
Nam, việc bù giá vào lương và chuyển từ cung cấp bằng hiện vật
sang cung cấp bằng tiền là một tiến bộ vượt bậc, mang tính đột phá,
khởi nguồn từ tinh thần “dám nghĩ, dám làm” của đồng chí Bí thư
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt.
204
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
tình thế “chữa cháy”, cơ bản phải phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại vốn là thế mạnh của
thành phố. Do đó, đồng chí đã tổ chức nhiều hội nghị,
tập trung nhiều nhà khoa học để bàn bạc giải quyết
hướng phát triển của thành phố.
Về cơng nghiệp, thời gian này, các nhà máy, xí
nghiệp quốc doanh hoạt động rất khó khăn, nhiều giám
đốc xí nghiệp có rất nhiều trăn trở muốn đề đạt ý kiến
với Nhà nước, nhưng khơng biết nói với ai, giải quyết
thế nào. Để nắm được tâm tư, nguyện vọng của người
trực tiếp sản xuất, đồng chí Võ Văn Kiệt đã cho thành
lập “Câu lạc bộ giám đốc”, quy tụ các giám đốc, bí thư tổ
chức Đảng, phụ trách cơng đồn các nhà máy, xí
nghiệp quốc doanh1, tổ chức nhiều hội thảo; trao đổi
kinh nghiệm, cách làm mới, đóng góp những cơ sở thực
tiễn quan trọng để hình thành tư duy đổi mới. Bản
thân đồng chí Võ Văn Kiệt thường xuyên đi xuống các
xí nghiệp tìm hiểu tình hình; cùng trao đổi với công
nhân, người lao động, cụ thể như ở các nhà máy Thuốc
lá Vĩnh Hội, Dệt Phước Long, Dệt Thành Cơng, Bột
giặt Viso, v.v.. Đồng chí đã trực tiếp nghiên cứu, chỉ
đạo cho phép làm theo những sáng kiến, sáng tạo của
_________
1. Câu lạc bộ này do ông Võ Thành Cơng, Thường vụ Thành ủy
làm Chủ nhiệm; cịn tiếp tục hoạt động sau khi đồng chí Võ Văn
Kiệt ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
205
cơng nhân, giám đốc1. Quan điểm của đồng chí Võ
Văn Kiệt là giải quyết công việc không nhất thiết
phải rập khuôn theo theo sách vở, khơng “đóng đinh”,
tự khép vào bất cứ một lý luận nào, phải tôn trọng
khoa học, không coi thường lý luận. Nhưng lý luận
phải được tổng kết từ thực tiễn, có tính thiết thực cho
cuộc sống của xã hội, vì lợi ích của nhân dân. Chính
vì thế, đồng chí liên tục đi khảo sát, trực tiếp chỉ đạo
thực tiễn hoạt động của các xí nghiệp, nhà máy, vừa
làm vừa rút kinh nghiệm.
Tiếp đó, đồng chí chỉ đạo thành lập Văn phịng cơng
tác nghiên cứu kinh tế trực thuộc Thành ủy, tập hợp
nhiều trí thức, trong đó có nhiều chuyên gia kinh tế
được đào tạo trong chế độ xã hội chủ nghĩa; một số
chuyên gia đã từng làm việc trong chính quyền Sài Gịn
cũ, đứng đầu là Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh, người đã
từng là Thống đốc Ngân hàng, Phó Thủ tướng, có thời
gian là Quyền Thủ tướng của chính quyền Việt Nam
Cộng hịa. Trên cơ sở những nghiên cứu, đề xuất của
Văn phòng về kinh tế, ngân hàng - tài chính, đầu tư
nước ngồi, khu chế xuất, ngoại thương và quan hệ
quốc tế, Thành ủy đưa ra chủ trương khuyến khích thu
_________
1. Người ta cho việc đó là “xé rào”, đồng chí Võ Văn Kiệt được
mệnh danh là “Bí thư phá rào”, nhưng cuối cùng, khi tổng kết đã
được coi đó là “bước đột phá” về cách làm ăn mới, cần phải chuyển
biến mạnh trong nhận thức, tức là phải đổi mới tư duy.
206
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
hút vốn bằng ngoại tệ để mua nguyên liệu sản xuất,
nhất là những ngành có sản phẩm xuất khẩu...
Cũng vào thời gian này, dưới sự chỉ đạo của đồng
chí Võ Văn Kiệt, hình thành Nhóm Thứ sáu, thành viên
gồm Phan Chánh Dưỡng, Lâm Võ Hoàng, Huỳnh Bửu
Sơn và nhiều chuyên gia kinh tế có tâm huyết, đã đóng
góp nhiều ý kiến xác đáng về các chủ trương và giải
pháp cải cách giá, lương, tiền.
Chính những chủ trương, chính sách do đồng chí Võ
Văn Kiệt tổ chức nghiên cứu từ thực tiễn, rồi đưa ra thực
hiện thí điểm, tiến hành tổng kết đã trở thành những
bước đột phá, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh
tế, văn hóa - xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh, trở thành
những căn cứ thực tiễn quan trọng, góp phần hình thành
tư duy và đường lối đổi mới sau này1.
Một vấn đề rất quan trọng nữa cần phải giải quyết
cấp bách, đó là nguồn điện của thành phố. Theo đồng chí
Võ Văn Kiệt, muốn phát triển kinh tế, xã hội, nhất là phát
triển công nghiệp, trước hết phải có nguồn điện năng.
Trên cương vị Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh,
_________
1. Sau khi đồng chí Võ Văn Kiệt ra nhận cơng tác ở Trung ương,
Nhóm thứ sáu vẫn tiếp tục hoạt động. Năm 1989, Nhóm thứ sáu
tham gia soạn thảo hai pháp lệnh về tổ chức ngân hàng hai cấp để
phù hợp với việc xóa bỏ hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh, tự do hóa lưu
thơng tư liệu sản xuất, tách bạch chức năng điều tiết chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương với chức năng kinh doanh của
các ngân hàng thương mại...
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
207
đồng chí đã đặc biệt quan tâm chú ý đến việc xây dựng
và phát triển năng lượng điện để phục vụ sản xuất và
sinh hoạt của nhân dân thành phố.
Lúc bấy giờ, miền Nam nói chung, Thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng ln trong tình trạng thiếu điện
trầm trọng. Mỗi ngày chỉ có điện từ 2 đến 3 tiếng đồng
hồ. Sản xuất đình trệ, xã hội bức bối, uy tín chính
quyền cách mạng giảm sút. Miền Nam, mà chủ yếu là
Thành phố Hồ Chí Minh và một phần tỉnh Đồng Nai,
Long An chỉ dựa vào hai nguồn điện năng lớn nhất bấy
giờ là Nhà máy Nhiệt điện Thủ Đức, Nhà máy Điện Chợ
Quán. Nhà máy Thủy điện Đa Nhim thì ngừng hoạt
động do hư hỏng trong chiến tranh. Trong bối cảnh như
vậy, việc phục hồi Nhà máy Thủy điện Đa Nhim và
khởi công xây dựng Nhà máy Thủy điện Trị An trở
thành yêu cầu cấp thiết. Đồng chí đã lăn lộn cùng
ngành điện và Sở Điện lực Thành phố Hồ Chí Minh đi
khảo sát địa điểm xây dựng nhà máy điện. Khi dự án
Nhà máy Thủy điện Trị An được thông qua, đồng chí Võ
Văn Kiệt đã nhiều lần trực tiếp đến thị sát, động viên
cán bộ, công nhân thi công, ưu tiên mọi nguồn lực, tạo
điều kiện để cơng trình hồn thành đúng tiến độ và
đảm bảo chất lượng, giải quyết cơ bản nạn thiếu điện
cho Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh đồng bằng
sông Cửu Long lúc bấy giờ.
Về nơng nghiệp, đồng chí Võ Văn Kiệt và Thường vụ
Thành ủy đã tiến hành nhiều hội nghị chuyên đề, đưa
208
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
ra các chủ trương chỉ đạo kịp thời và rất cụ thể. Trước
hết là thành lập các đội rà phá bom mìn, khơi phục đất
hoang hóa, phục vụ cho sản xuất lương thực và thực
phẩm cung cấp cho thành phố. Đồng chí đặc biệt coi
trọng vai trị kinh tế của khu vực nơng thơn ngoại
thành, khu vực này không chỉ là “vành đai thực phẩm”,
mà cịn là “vành đai cây cơng nghiệp”. Tại Đại hội Hội
Liên hiệp Nơng dân tập thể Thành phố Hồ Chí Minh
lần thứ nhất, đồng chí Võ Văn Kiệt đã phân tích vai
trị quan trọng của ngành nơng nghiệp và hướng đi lên
sắp tới của nông thôn ngoại thành, để đưa nông nghiệp
trở thành một nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Nhờ
sự chỉ đạo đúng hướng và kiên quyết của lãnh đạo
thành phố; sự cố gắng của bà con nơng dân, diện tích
đất hoang hóa được phục hồi gần 70 nghìn hécta, đưa
diện tích sản xuất nơng nghiệp của thành phố từ 45
nghìn hécta lên 115 nghìn hécta, sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là sản xuất rau xanh, thực phẩm cho thành
phố dần dần đi vào ổn định.
Từ những kết quả nghiên cứu và cả những bài học
kinh nghiệm đã có, đồng chí Võ Văn Kiệt chỉ đạo vận
dụng một cách sáng tạo và phù hợp trong quá trình sản
xuất kinh doanh, cải tạo kinh tế, thương nghiệp ở
Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ này. Trong buổi gặp
mặt, nói chuyện với các đại biểu cơng nhân của Thành
phố Hồ Chí Minh về chủ trương và chính sách cải tạo tư
sản thương nghiệp, đồng chí Võ Văn Kiệt khẳng định
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
209
sự cần thiết phải cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền
kinh tế, trong đó có vấn đề cải tạo cơng thương nghiệp.
Tình hình cải tạo trong thời gian qua cho thấy đã đến
lúc phải đẩy mạnh hơn nữa chủ trương xóa bỏ kinh
doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển họ
sang lĩnh vực sản xuất. Đồng chí cũng cho ý kiến chỉ
đạo cụ thể về việc chuyển hướng ngành nghề, về hình
thức làm ăn, việc chuyển vốn và các chính sách khuyến
khích khác, nhằm làm cho q trình chuyển đổi đạt kết
quả. Đồng chí nhấn mạnh: “Chủ trương và chính sách
cải tạo tư sản cơng thương nghiệp của Đảng và Nhà
nước hết sức hợp lý, hợp tình và đầy lịng nhân đạo. Một
chính sách hịa bình cải tạo rất rộng lượng, rất phù hợp
với đạo lý dân tộc cổ truyền của đất nước chúng ta”1.
Tuy nhiên, trong việc thực hiện, cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh, Thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng, miền Nam nói chung đã có nhiều nơi làm khơng
tốt, triển khai theo lối “ồ ạt, đồng loạt”; thành phần đối
tượng lớn hay nhỏ đều cải tạo, làm cho sản xuất và đời
sống nhân dân bị đảo lộn, nhiều gia đình tiểu thương
lâm vào hồn cảnh khó khăn, bởi khi lên vùng kinh tế
mới, họ khơng cịn tiền bạc, cũng khơng có kinh nghiệm
làm việc, sản xuất ở mơi trường mới.
_________
1. Đề cương bài nói chuyện của đồng chí Võ Văn Kiệt với đại
biểu cơng nhân về chủ trương và chính sách cải tạo tư sản thương
nghiệp. Tài liệu lưu tại Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố
Hồ Chí Minh.
210
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
Cuối năm 1976, đồng chí Võ Văn Kiệt dẫn đầu Đoàn
đại biểu của Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh đi dự Đại
hội Đảng tồn quốc lần thứ IV1.
Báo cáo tham luận trình bày tại Đại hội, đồng chí
Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Võ Văn Kiệt
nhấn mạnh đến một số vấn đề quan trọng trong công
tác cải tạo, khôi phục và phát triển mọi mặt của Thành
phố Hồ Chí Minh sau ngày giải phóng. Đặc biệt là sự
ổn định về chính trị, an ninh, đời sống của nhân dân;
về vấn đề giải quyết việc làm cho thanh niên và các đối
tượng cơng chức, viên chức trong bộ máy của chính
quyền cũ, cũng như những vấn đề đặt ra trong công
tác xây dựng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh
những năm tiếp theo nhằm xây dựng Thành phố Hồ
Chí Minh thành một trung tâm cơng nghiệp, một trung
tâm văn hóa, một trung tâm giao dịch quốc tế của
nước ta. Tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ IV, đồng
chí Võ Văn Kiệt được bầu lại vào Ban Chấp hành
Trung ương Đảng và được bầu làm Ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị.
Đối với việc chỉ đạo công tác đảm bảo trật tự, an
ninh của thành phố, từ sau ngày giải phóng, cùng với
việc chỉ đạo xây dựng chính quyền cách mạng, đồng chí
Võ Văn Kiệt đã đặc biệt chú trọng, chỉ đạo sát sao việc
_________
1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng diễn ra từ
ngày 14 đến ngày 20-12-1976 ở Hà Nội.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
211
lập lại trật tự, tổ chức tự quản trên mỗi địa bàn dân cư
của thành phố. Trong đó, đồng chí lưu ý đến việc tổ
chức, kêu gọi các công chức, viên chức, sĩ quan qn đội
của chính quyền cũ ra trình diện; tuyên truyền về chính
sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta; lập hồ sơ
quản lý và có kế hoạch đưa đi cải tạo những thành phần
thuộc diện phải cải tạo tập trung1. Đồng thời, chỉ đạo
Công an Thành phố phối hợp chặt chẽ với lực lượng an
ninh của Bộ, theo dõi, triệt phá những băng nhóm có tổ
chức, nổi tiếng về cướp đoạt tài sản của nhân dân, lập
lại an ninh, trật tự trong thành phố.
Trong lúc cả nước ta đang tập trung sức lực để giải
quyết hậu quả chiến tranh, thì từ cuối tháng 8-1978,
quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trở nên xấu đi một cách
nhanh chóng. Những bất đồng, mâu thuẫn liên quan đến
những căng thẳng, xung đội ở biên giới Tây Nam và xung
quanh vấn đề “người Hoa” mà Trung Quốc gọi là “nạn
kiều” làm ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và quan
hệ giữa hai nước. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, người Hoa
chiếm một số lượng khá đông và thao túng nhiều mặt
kinh tế của thành phố. Họ bị những kẻ xấu kích động,
chống đối chính quyền và tạo ra sự bất đồng trong quan
hệ giữa hai nước Việt - Trung.
_________
1. Những thành phần thuộc diện phải cải tạo tập trung bao gồm
các sĩ quan ngụy từ cấp tá trở lên, khoảng trên 3 vạn người.
212
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
Trên cương vị Bí thư Thành ủy, quán triệt tư tưởng
đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Võ
Văn Kiệt triệu tập cuộc họp của Thường vụ Thành ủy
bàn về vấn đề người Hoa. Đồng chí đã phát biểu ý kiến
về tính chất phức tạp của bộ phận người Hoa tại thành
phố, đồng thời đưa ra một số chủ trương, biện pháp chỉ
đạo nhằm ổn định tình hình. Đồng chí nói: “Phải giải
quyết có tình, có nghĩa để củng cố thế chính trị cho ta,
đồng thời để chống gây rối hoặc ít nhất cũng chinh phục
số đông người Hoa là thành phần lao động không bị lầm
lạc bởi các luận điệu tuyên truyền của bọn phản động,
dần dần giáo dục họ giác ngộ đúng đắn về giai cấp và
dân tộc”1. Đồng chí cũng nhấn mạnh đến cơng tác chăm
sóc đời sống đối với công nhân lao động người Hoa trên
địa bàn thành phố, cố gắng giữ gìn mối quan hệ hữu
nghị truyền thống giữa hai dân tộc Việt - Hoa, động
viên người Hoa yên tâm làm ăn, sinh sống, tham gia
xây dựng, phát triển thành phố.
Để triển khai Nghị quyết của Thường vụ Thành ủy
một cách nhanh chóng, trước tình hình phức tạp của
vấn đề người Hoa ở thành phố, ngay sau khi Hội nghị
Thường vụ kết thúc, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có cuộc
gặp gỡ với các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các quận,
_________
1. Lược ghi bài phát biểu của đồng chí Võ Văn Kiệt tại cuộc họp
Thường vụ thành ủy về vấn đề người Hoa. Tài liệu lưu tại Ban
Nghiên cứu lịch sử Đảng Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
213
huyện, các ban, ngành của thành phố và một số đảng
ủy xí nghiệp có đơng người Hoa làm việc, để giải thích
Thơng tri số 66/TT-TV của Thường vụ Thành ủy về một
số vấn đề người Hoa tại thành phố trong tình hình mới;
trong đó, quán triệt rõ chủ trương của lãnh đạo Thành
ủy, u cầu các cấp ủy, chính quyền làm cơng tác tư
tưởng, động viên bà con người Hoa yên tâm sinh sống,
làm việc; kiên quyết trấn áp những phần tử phản động,
tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta.
Cuối năm 1980, đầu năm 1981, quan hệ Việt Trung vẫn còn căng thẳng, kẻ địch lợi dụng tình hình
đó để xun tạc, làm nảy sinh vấn đề người Hoa trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh miền
Nam. Lực lượng phản động được sự hỗ trợ của các thế
lực bên ngoài, đứng đầu là Lê Quốc Túy, Mai Văn
Hạnh đã lập ra cái gọi là: “Mặt trận thống nhất các
lực lượng yêu nước giải phóng Việt Nam”. Chúng cấu
kết với lực lượng phản động trong nước do CIA gài
lại, tổ chức đưa biệt kích, gián điệp, tiền giả vào
nhằm gây rối loạn tình hình miền Nam, tiến đến bạo
loạn, lật đổ chính quyền cách mạng, trọng tâm hoạt
động của chúng là địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Lực lượng an ninh của thành phố phối hợp chặt chẽ
với lực lượng an ninh của Bộ kịp thời đấu tranh, lập
các chuyên án, bắt giữ và triệt phá mạng lưới gián
điệp của địch, không để chúng thực hiện mưu đồ
214
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
“chuyển lửa về quê”, giữ gìn an ninh và cuộc sống yên
vui của nhân dân.
Với những cố gắng không mệt mỏi, bằng tư duy
năng động, sáng tạo, đồng chí Bí thư Võ Văn Kiệt và
Thành ủy đã lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh động
viên các lực lượng, phát huy mọi nguồn lực xã hội để
vượt qua khó khăn, khơi phục sản xuất nơng nghiệp,
cơng nghiệp, ổn định đời sống nhân dân, đảm bảo an
ninh, phát triển văn hóa - xã hội, từng bước đưa thành
phố trở thành đầu tàu kinh tế của cả nước.
2. Xây dựng Thanh niên xung phong trở thành
lực lượng xung kích trong cơng cuộc xây dựng,
phát triển thành phố
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, trực tiếp là Bí thư
Võ Văn Kiệt, Thành phố Hồ Chí Minh dấy lên phong
trào Tuổi trẻ tham gia xây dựng thành phố, huy động
được số đông thanh niên, sinh viên, học sinh, công nhân,
nông dân, dân nghèo thành thị tham gia. Một phong trào
rộng khắp, sơi nổi của các tổ chức Khu Đồn - Thành
Đoàn, Thanh niên xung phong được tạo nên. Kết quả là
nhiều thanh niên đã trưởng thành từ phong trào Đoàn,
từ Thanh niên xung phong, họ hăng say công tác, đem
hết năng lực và nhiệt huyết tuổi trẻ cống hiến cho cách
mạng. Thành công ấy trước hết thuộc về các tổ chức
Đảng, đoàn thể, của nhiều thế hệ lãnh đạo, trong đó có
dấu ấn của Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
215
Để khắc phục tình trạng kinh tế kiệt quệ, thất
nghiệp tràn lan, ruộng đất hoang hóa, bom mìn dày
đặc, việc khai hoang phục hóa trở nên nhiệm vụ cấp
bách của sự nghiệp khơi phục kinh tế sau chiến tranh.
Đồng chí Võ Văn Kiệt đã nhìn thấy lực lượng mũi nhọn
để thực hiện nhiệm vụ này là lực lượng thanh niên.
Đồng chí đã chỉ đạo Thành ủy thực hiện chủ trương
“phát động một cuộc ra quân quy mô lớn” với hàng vạn
thanh niên được huy động tham gia.
Dưới sự chỉ đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân
thành phố, trực tiếp là đồng chí Võ Văn Kiệt, ngày
28-3-1976, Đồn thanh niên Thành phố đã tổ chức
thành lập lực lượng Thanh niên xung phong. Sau đó,
nhiều Đội Thanh niên xung phong xung kích được
thành lập, tham gia thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã
hội, an ninh, quốc phòng và xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa.
Thanh niên xung phong Thành phố trở thành lực
lượng xung kích tham gia thu dọn, giải quyết hậu quả
chiến tranh để lại, đồng thời tham gia phục vụ chiến
đấu và chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, góp phần
bảo vệ vững chắc biên giới của Tổ quốc.
Để giải quyết vấn đề việc làm cho thanh niên, đồng
chí Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo thành lập các nông trường,
đưa thanh niên đi khai hoang, xây dựng, phát triển
vùng kinh tế mới. Thanh niên xung phong Thành phố
đã có mặt trên hầu hết những vùng đất khó khăn,
216
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
khắc nghiệt, từ vùng miền Đông Nam Bộ đến duyên
hải, U Minh, Nam Tây Nguyên. Nhiều nông trường, lâm
trường trở thành điểm sáng kinh tế, thu hút hàng
nghìn thanh niên tham gia lập nghiệp như Nông trường
Lê Minh Xuân, Phạm Văn Hai, Phạm Văn Cội I, Phạm
Văn Cội II, Nhị Xuân, Thới Mỹ,...
Trong công tác quản lý thành phố, đồng chí Võ Văn
Kiệt đã chỉ đạo Thanh niên xung phong làm trụ cột
trong việc quản lý, giáo dục một bộ phận thanh niên
chậm tiến, những đối tượng tệ nạn xã hội. Bằng phương
châm “trách nhiệm và tình thương”, “người đi trước rước
người đi sau”, lực lượng Thanh niên xung phong đã
tham gia giáo dục hàng vạn đối tượng tệ nạn xã hội, trở
thành những công dân sống có ích cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Trong công tác cải tạo thành phố, Thanh niên xung
phong đi đầu trong việc trồng rừng phòng hộ tại huyện
Cần Giờ, góp phần khơi phục lại hệ sinh thái rừng ngập
mặn đã bị chất độc hóa học hủy diệt gần như tồn bộ.
Tiếp tục quản lý, bảo vệ, chăm sóc trên 7.000 ha rừng
phịng hộ, góp phần tích cực trong việc bảo vệ và cải tạo
môi trường sinh thái, lá phổi xanh của thành phố.
Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy, Ủy ban nhân dân
thành phố, sự khích lệ, cổ vũ, động viên của đồng chí Bí
thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, lực lượng Thanh niên xung
phong Thành phố đã bất chấp nguy hiểm, khó khăn,
tham gia tháo gỡ bom mìn, khai hoang phục hóa, làm
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
217
thủy lợi cải tạo và xây dựng đồng ruộng để trồng các
loại cây nơng nghiệp ngắn ngày trên vùng đất hoang
hóa ở Bình Chánh, Hóc Mơn, Củ Chi, Thủ Đức..., tham
gia xây dựng hàng loạt nông trường, đồng thời tham gia
xây dựng nhiều cơng trình thủy lợi góp phần xây dựng,
phát triển kinh tế, như: kênh Đông Củ Chi, kênh Tam
Tân, công trình thủy điện Trị An; tham gia xây dựng
những vùng kinh tế mới ở Sông Bé, Tây Ninh, Kiên
Giang, Minh Hải và Nam Tây Nguyên.
Với sự năng động của tuổi trẻ, lực lượng Thanh
niên xung phong tham gia hoạt động kinh tế, chuyển
hoạt động kinh tế từ bao cấp sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa và trở thành một đơn vị sản
xuất kinh doanh tổng hợp, từng bước thích nghi với cơ
chế quản lý mới phù hợp với công cuộc đổi mới kinh tế
của đất nước, của thành phố. Tổng kết phong trào
Thanh niên xung phong, tháng 10-1976, đồng chí Võ
Văn Kiệt đã khẳng định: “Thanh niên xung phong là
một lực lượng lao động tập thể có tổ chức mạnh, một lực
lượng xung kích trên mặt trận lao động sản xuất, do đó
có khả năng sẽ hồn thành một số cơng trình lớn về
kinh tế và văn hóa của nhà nước, đi đầu trong sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa”1. Tại Đại hội Thanh niên tiên tiến
_________
1. Phát huy truyền thống anh hùng xung kích, năng động, sáng
tạo vượt khó, hồn thành nhiệm vụ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2006,
tr.48.
218
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ nhất, ngày 12-6-1976,
đồng chí Võ Văn Kiệt đến dự và căn dặn: “Các em yêu
quý, trách nhiệm của các em rất nặng nề. Các em là con
chim đầu đàn của cả bầy hải âu đơng đảo sẽ cịn bay
cao, bay xa của Thành phố thân yêu! Hãy làm cho lửa
dũng cảm, sáng tạo, đầy nhiệt tình thanh xuân Việt Nam
rực cháy hơn nữa trên mọi trận địa lao động Thành
phố! Hãy ra sức phấn đấu làm cho lý tưởng, hành động
cao đẹp thắng lợi trong mỗi cơ sở thanh niên Thành phố
Hồ Chí Minh! Muốn thế, mỗi em phải nâng mình lên,
tập thể các em phải nâng mình lên, nâng giác ngộ xã
hội chủ nghĩa, học tập và rèn luyện, khơng ngừng tạo
cho mình cơ sở vững chắc của niềm tin chiến đấu và
chiến thắng”1.
Để động viên nhiệt tình của tuổi trẻ, trong nhiều
đợt ra qn, đồng chí Võ Văn Kiệt vác cuốc dẫn đầu
đồn qn xung kích, đi đến những vùng đất hoang
hóa, đầy cỏ dại và bom mìn, truyền cho họ ngọn lửa
nhiệt huyết cách mạng. Đồng chí nói: “Sứ mạng lịch sử
mới chẳng những đem gấm, đem vóc phủ khắp non
sơng, làm đẹp, làm giàu đất nước, mà còn làm săn gân,
chắc cốt, rèn giũa tinh thần kiên định của cả thế hệ trẻ”2
và “Lao động làm sắc con người lại là tập thể hành động,
_________
1, 2. Phát huy truyền thống anh hùng xung kích, năng động,
sáng tạo vượt khó, hồn thành nhiệm vụ, Sđd, tr.32, 127.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
219
phong trào hành động nâng cao con người đi tới mãi.
Sức mạnh vươn lên ngày càng tự giác của từng cá nhân
được nhân lên với sức mạnh với tổ chức... Đó là điều
làm tôi tin yêu nhất ở tổ chức và mỗi con người Thanh
niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh”1.
Từ lời nói đến hành động, đồng chí Bí thư Thành ủy
Võ Văn Kiệt đã động viên, lôi cuốn cả nhiều mảnh đời
bất hạnh vừa thốt khỏi chế độ cũ, đó là những em gái
lỡ lầm trong cuộc sống mưu sinh, những thanh niên
“bụi đời”, những người nghiện xì ke ma túy... có cơ hội
làm lại cuộc đời.
Chính vì lẽ đó, mà việc tổ chức lực lượng Thanh
niên xung phong Thành phố Hồ Chí Minh khơng chỉ có
ý nghĩa về chính trị, kinh tế mà nó cịn mang ý nghĩa xã
hội, nhân văn sâu sắc. Trong môi trường lao động, rèn
luyện, học tập trưởng thành, được sự quan tâm dìu dắt
của Đảng, của Đoàn, những người lầm lỡ đã cố gắng
vươn lên trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Đã có
hàng chục nghìn người trở thành đảng viên của Đảng,
đồn viên Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
thành cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và
là nguồn bổ sung cán bộ cho các cấp, các ngành của
thành phố và Trung ương. Hầu hết cán bộ trưởng thành
_________
1. Phát huy truyền thống anh hùng xung kích, năng động, sáng
tạo vượt khó, hồn thành nhiệm vụ, Sđd, tr.28.
220
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
từ môi trường Thanh niên xung phong chuyển sang
công tác ở các cương vị khác nhau trong xã hội đều
phát huy năng lực tốt, được các cơ quan, ban ngành
đánh giá cao. Đúng như đồng chí Võ Văn Kiệt đã
khẳng định: “Rõ ràng Thanh niên xung phong là một
trường học thực tế, trường học lao động và rèn luyện
rất tốt, rất có hiệu quả đối với các tầng lớp thanh niên
thành phố chúng ta. Trường học ấy chẳng những giáo
dục, rèn luyện có hiệu quả hàng ngàn, hàng chục ngàn
con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn đào tạo và bồi
dưỡng hàng ngàn cán bộ lãnh đạo, chỉ huy trưởng
thành từ phong trào... và hàng ngàn cán bộ đã qua thử
thách rèn luyện cung cấp cho các cơ quan, các ban
ngành”, “một trường học thực tế giáo dục và rèn luyện
con người mới, một nguồn đào tạo và bổ sung cán bộ
cho các cơ quan Đảng và Nhà nước”1.
Đồng chí Võ Văn Kiệt - người sáng lập ra lực lượng
Thanh niên xung phong Thành phố, với phong cách
năng động, sáng tạo, với những tư duy mới, với bầu
nhiệt huyết rực cháy trong tim người chiến sĩ cách
mạng đã truyền lửa nhiệt tình, gieo niềm tin, niềm tự
hào vào tuổi trẻ thành phố.
_________
1. Phát huy truyền thống anh hùng xung kích, năng động, sáng
tạo vượt khó, hồn thành mọi nhiệm vụ, Sđd, tr.47.
Chương V: LÃNH ĐẠO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...
221
3. Lãnh đạo nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
cùng lực lượng vũ trang Quân khu 7 thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc
Trên cương vị Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 7, đồng chí Võ Văn
Kiệt đã cùng Đảng ủy Quân khu lãnh đạo lực lượng vũ
trang thực hiện thắng lợi nhiều nhiệm vụ quân sự quốc
phòng, trong đó đặc biệt là lãnh đạo nhân dân và lực
lượng vũ trang tham gia phục vụ chiến đấu và chiến
đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Từ năm 1975, chính quyền Khmer đỏ ráo riết triển
khai chính sách diệt chủng ở trong nước và thực hiện
đường lối thù địch với nhân dân Việt Nam. Sau một thời
gian tăng cường các hoạt động khiêu khích, quấy rối, được
các thế lực phản động quốc tế tiếp tay, tháng 4-1977, bọn
phản động ở Campuchia do Pôn Pốt cầm đầu chẳng
những đã phản bội lại cách mạng và nhân dân Campuchia,
mà chúng cịn sử dụng lực lượng qn sự quy mơ lớn,
phát động chiến tranh chống Việt Nam, gây ra cuộc xung
đột trên biên giới Việt Nam - Campuchia.
Trên địa bàn Quân khu 7 đảm nhiệm, lực lượng
phản động Khmer đỏ đã tấn công xâm phạm lãnh thổ,
phá hoại tài sản và tàn sát nhân dân ta rất dã man,
gây tình hình căng thẳng ở biên giới Tây Nam. Việc
này tác động lớn đến các mặt công tác lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu, đến tâm tư,
tình cảm của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, cũng
222
VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ
như nhân dân trên địa bàn; ảnh hưởng đến cả một số
chủ trương, chính sách lớn như vấn đề nghĩa vụ quân
sự, sản xuất và đời sống, nhất là trong lúc ta đang tập
trung cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế. Như vậy, với việc lực
lượng phản động Khmer đỏ tiến công, xâm lấn lãnh
thổ nước ta, lực lượng vũ trang Quân khu 7 cùng lúc
phải thực hiện nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, vừa
phải thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn
vết thương chiến tranh. Trước tình hình cấp bách trên,
quán triệt đường lối quốc tế của Đảng, Đảng ủy Quân
khu chỉ đạo các lực lượng vũ trang quân khu kiên
quyết chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Kiên quyết
trừng trị tội ác của lực lượng phản động, kết hợp chặt
chẽ với tấn cơng chính trị, vạch trần mưu đồ của lực
lượng Khmer đỏ; tuyên truyền vận động nhân dân và
lực lượng vũ trang Campuchia cùng ta giải quyết
nghiêm chỉnh vấn đề biên giới. Với cương vị Ủy viên
Đảng ủy Quân khu 7, đồng chí Võ Văn Kiệt cùng Bộ
Tư lệnh Quân khu chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ
trang, tăng cường củng cố tổ chức, động viên cán bộ,
chiến sĩ Sư đoàn 5, tổ chức lại Sư đoàn 2 (gồm Trung
đoàn 88, Trung đoàn 205) đang xây dựng kinh tế sang
làm nhiệm vụ chiến đấu. Chỉ đạo tỉnh Long An thành
lập Trung đoàn 159 (Vàm Cỏ) và Tiểu đoàn 1, Tiểu
đoàn 2 cơ động của tỉnh; tỉnh Tây Ninh củng cố Trung
đoàn 6, Trung đoàn 201, Trung đoàn 2 biên phòng,