Tải bản đầy đủ (.pdf) (201 trang)

Tiểu sử Võ Văn Kiệt: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.5 MB, 201 trang )






4

BAN CHỈ ĐẠO CHƯƠNG TRÌNH
TRƯƠNG TẤN SANG

Trưởng ban

TƠ HUY RỨA

Ủy viên

NGÔ VĂN DỤ

Ủy viên

HỒ ĐỨC VIỆT

Ủy viên

LÊ HỮU NGHĨA

Ủy viên

BAN CHỦ NHIỆM CHƯƠNG TRÌNH
GS.TS. LÊ HỮU NGHĨA
PGS.TS. PHẠM HỒNG CHƯƠNG



Chủ nhiệm
Phó Chủ nhiệm

PGS.TS. NGUYỄN VĂN THẠO

Ủy viên

GS.TS. MẠCH QUANG THẮNG

Ủy viên

TS. NGUYỄN DUY HÙNG

Ủy viên

BAN BIÊN SOẠN
PGS.TS. TRẦN MINH TRƯỞNG (Chủ biên)
TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG
TS. TRẦN VĂN HẢI




5

LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Đồng chí Võ Văn Kiệt, tên thật là Phan Văn Hòa, sinh
ngày 23-11-1922 tại xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh
Vĩnh Long trong một gia đình nơng dân nghèo đông con.

Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước, đấu tranh kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm,
chống cường quyền, áp bức, bóc lột... nên khi tuổi đời cịn rất
trẻ, đồng chí đã sớm giác ngộ cách mạng, từ một thanh niên
yêu nước trở thành một người cộng sản ưu tú. Trong những
ngày đầu tham gia hoạt động cách mạng đầy gian nan, vất
vả, khó khăn, thử thách, hiểm nguy, đồng chí ln vững
vàng, kiên định, nhiệt tình, năng nổ, sẵn sàng đón nhận mọi
nhiệm vụ cách mạng. Chính vì thế, đồng chí đã nhanh chóng
trưởng thành, trở thành người cán bộ có uy tín với nhân dân.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đồng chí tham gia
lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Rạch Giá.
Trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, đồng chí ln có mặt tại chiến trường
miền Nam, đảm đương nhiều trọng trách khác nhau, sát
cánh cùng đồng bào, đồng chí và các lực lượng vũ trang vượt


6

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

qua mọi gian lao, ác liệt, hy sinh, làm nên những chiến công
hiển hách. Cũng chính trong những năm tháng ấy, sự nhạy
bén, sáng suốt trong nhận định, đánh giá tình hình; tính táo
bạo, quyết đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm
trước Đảng và nhân dân của đồng chí ở chiến trường đã góp
phần để Trung ương đánh giá đúng tình hình, kịp thời có
những chủ trương, sách lược, phương châm đúng đắn cho
cách mạng trong từng giai đoạn, góp phần quan trọng vào

chiến công vĩ đại của dân tộc ta - giải phóng hồn tồn miền
Nam, thống nhất Tổ quốc.
Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội và trong những năm tháng đất nước bắt đầu đổi mới,
thấm nhuần tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, dù ở bất cứ
cương vị nào, đồng chí cũng ln trăn trở, nghiên cứu tìm ra
những bước đi thích hợp, dốc lòng, dốc sức phục vụ tốt cho
mục tiêu của cách mạng, của đất nước, hoàn thành trọng
trách trước Đảng, trước nhân dân. Đồng chí là người cộng
sản tiêu biểu cho tinh thần rèn luyện, học hỏi, năng động,
sáng tạo, rất nhạy bén với cái mới, cái tiến bộ. Là nhà lãnh
đạo, nhà hoạt động thực tiễn, đồng chí trực tiếp xuống cơ sở
tìm hiểu tình hình cụ thể, lắng nghe những ý kiến khác nhau
rồi mới quyết định. Luôn bám sát thực tiễn, có năng lực tổng
kết thực tiễn, phát hiện cái mới nên đồng chí đã đóng góp cho
Đảng nhiều chủ trương, chính sách sáng tạo, đáp ứng nhu
cầu địi hỏi của thực tiễn. Chính bản lĩnh vững vàng, sáng
tạo của đồng chí - người đứng đầu dám quyết định, dám chịu
trách nhiệm - đã góp phần đưa đất nước ta vượt qua thời


LỜI NHÀ XUẤT BẢN

7

điểm khó khăn để bước vào thời kỳ ổn định và phát triển.
Đồng chí đã để lại nhiều dấu ấn trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của nước ta.
Khi thơi giữ trọng trách đứng đầu Chính phủ và cả khi
khơng còn làm nhiệm vụ Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương

Đảng, đồng chí vẫn đau đáu nỗi lo cho nước, cho dân, vẫn
theo dõi sát sao tình hình mọi mặt, thường xuyên đóng góp ý
kiến với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về
những vấn đề hệ trọng của đất nước, vẫn đến với nhân dân
các địa phương có khó khăn để giúp cách tháo gỡ. Và khi giã
từ cuộc đời này, đồng chí mang theo nỗi băn khoăn, lo nghĩ
cùng dự định sang Hà Lan để học hỏi kinh nghiệm, tìm cách
khắc phục những khó khăn, những thách thức của nước biển
dâng khi trái đất nóng lên.
Tám mươi sáu năm tuổi đời, gần 70 năm hoạt động cách
mạng liên tục và vô cùng phong phú, sôi nổi, cuộc đời của
đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với những chặng đường đấu
tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, vẻ vang
của Đảng, của dân tộc. Có thể nói, đồng chí là hiện thân tiêu
biểu của lớp các chiến sĩ cách mạng hy sinh cả cuộc đời cho
sự nghiệp của Đảng và dân tộc. Với những cống hiến xuất sắc
cho Đảng, cho cách mạng, cho đất nước, đồng chí Võ Văn Kiệt
mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên, các
tầng lớp nhân dân và thế hệ trẻ Việt Nam học tập, noi theo
để xây dựng đất nước vững bước trên con đường hội nhập
phát triển.


8

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

Để ghi nhớ, tôn vinh cơng lao và những đóng góp to lớn
của đồng chí Võ Văn Kiệt với Đảng và sự nghiệp cách mạng
Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất

bản cuốn sách Võ Văn Kiệt - Tiểu sử thuộc Chương trình
sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo tiền bối
của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Cuốn sách được thực hiện dựa trên nguồn tư liệu phong
phú, với tinh thần lao động khoa học cẩn trọng, kỹ lưỡng,
khách quan, trung thực, có trách nhiệm trước lịch sử, chắc
chắn sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về những chặng đường đời,
cũng như những hoạt động phong phú, những đóng góp quan
trọng của đồng chí Võ Văn Kiệt để thêm kính trọng và yêu
quý người cộng sản kiên trung, người lãnh đạo tài năng của
Đảng và cách mạng Việt Nam, một nhân cách lớn, một con
người suốt đời vì nước, vì dân.
Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách tới bạn đọc.
Tháng 11 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT


9

LỜI NĨI ĐẦU

Phan Văn Hịa (tức Võ Văn Kiệt) sinh ngày 23-11-1922
trong một gia đình nơng dân nghèo, tại ấp Bình Phụng,
xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng khi mới 16
tuổi và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương
khi chưa đầy 18 tuổi. Trải qua gần 70 năm hoạt động
cách mạng vô cùng sôi nổi, trên nhiều lĩnh vực, nhiều
địa bàn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam của đất nước,
với những trọng trách được giao ngày càng nặng nề,

bất kỳ ở cương vị nào, từ khi là một thanh niên giác
ngộ lý tưởng cộng sản và tham gia cách mạng ở quê
nhà (năm 1938), cho đến khi đảm nhiệm cương vị
lãnh đạo đứng đầu Chính phủ: Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, Thủ tướng Chính phủ (1991-1997), đồng chí
ln ln hồn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó.
Cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của
đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với những chặng đường


10

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, song rất đỗi hào
hùng, vẻ vang của Đảng, đất nước và dân tộc. Với đức
độ và tài năng được rèn luyện trong thực tiễn đấu
tranh, với nghị lực, trí tuệ và tinh thần bền bỉ của
người chiến sĩ cách mạng kiên cường, tư duy lãnh đạo
năng động, sáng tạo, đồng chí Võ Văn Kiệt có nhiều
cống hiến xuất sắc và đóng góp to lớn cho Đảng và
cách mạng Việt Nam. Có thể nói, những thắng lợi vĩ
đại mà dân tộc ta đã giành được từ khi có Đảng lãnh
đạo: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược
bảo vệ Tổ quốc, và thống nhất đất nước; thắng lợi của
sự nghiệp đổi mới đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa
xã hội... in đậm dấu ấn của một thế hệ những nhà

lãnh đạo cách mạng ưu tú, mà đồng chí Võ Văn Kiệt
là một trong những người tiêu biểu, người học trị
xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đồng chí được
ghi nhận, đánh giá là một trong những người đi đầu
trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam (từ năm 1986), là
“tổng cơng trình sư” nhiều dự án táo bạo của thời kỳ
đổi mới.
Thực hiện Quyết định số 229/QĐ-TW, ngày 9-6-2009
của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc sưu tầm tài
liệu và viết tiểu sử của đồng chí Võ Văn Kiệt, nhằm


LỜI NÓI ĐẦU

11

nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp và những hoạt động
vẻ vang của người cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo
tài năng của Đảng và cách mạng Việt Nam; đồng thời,
bày tỏ sự tri ân của Đảng và nhân dân ta đối với cơng
lao, đóng góp xuất sắc của đồng chí Võ Văn Kiệt đối với
Đảng và dân tộc ta.
Trong q trình sưu tầm tài liệu, hồn thành cuốn
sách Võ Văn Kiệt - Tiểu sử, Ban biên soạn đã nhận
được sự cộng tác, giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan:
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Long, Bạc Liêu, Kiên
Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, đặc biệt là sự giúp đỡ
của Huyện ủy Vũng Liêm; các đồng chí nguyên là lãnh
đạo của Đảng, Nhà nước, các vị lão thành cách mạng,
các nhà khoa học và thân nhân, gia đình đồng chí Võ

Văn Kiệt... Xin được cám ơn sự cộng tác nhiệt tình, sự
giúp đỡ q báu đó.
Chúng tơi hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ góp phần
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thống
cách mạng vẻ vang của Đảng, khơi dậy niềm tự hào về
lịch sử đấu tranh bất khuất, kiên cường của các thế hệ
cha anh trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế
hệ trẻ; củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Mặc dù đã rất cố gắng, song do khả năng có hạn,
cơng trình nghiên cứu chắc chắn khơng tránh khỏi


12

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

những hạn chế thiếu sót. Ban biên soạn mong nhận
được sự thông cảm và ý kiến góp ý của độc giả.
Xin chân thành cảm ơn.
T/M NHÓM BIÊN SOẠN
Chủ biên
PGS.TS. TRẦN MINH TRƯỞNG


13

Chương I

QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU

(1922 - 1938)
1. Quê hương
Võ Văn Kiệt, tên khai sinh là Phan Văn Hịa, (bí
danh: Sáu Dân, Chín Dũng, Chín Hịa...), sinh ngày 2311-19221, tại thơn Bình Phụng, làng Trung Lương, tổng
Bình Trung, huyện Vĩnh Trị, tỉnh Vĩnh Long, nay là ấp
Bình Phụng, xã Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh
Vĩnh Long.
Ấp Bình Phụng là một trong 8 ấp2 của xã Trung
Hiệp, có vị trí kề sát trung tâm huyện Vũng Liêm, cách
thị trấn huyện lỵ Vũng Liêm 2 km về hướng tây, cách
thành phố Vĩnh Long (tỉnh lỵ) khoảng 32 km về phía
đơng nam. Vũng Liêm là một huyện đồng bằng trù phú,
_________
1. Về ngày, tháng, năm sinh, theo bản lý lịch tự thuật của đồng
chí Võ Văn Kiệt, chỉ có năm sinh là chính xác, cịn ngày, tháng, lấy
theo ngày, tháng của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
2. Xã Trung Hưng có 8 ấp, gồm: ấp Trung Hưng, Rạch Ngay,
Mướp Sát, Bình Phụng, Ruột Ngựa, Trung Trị, Rạch Nưng và
ấp Tư.


14

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

nằm ngay trên bờ sông Cổ Chiên (thuộc hệ thống sông
Cửu Long), hằng năm được bồi đắp bởi nguồn phù sa
màu mỡ của các con sông mang lại.
Vĩnh Long là một tỉnh thuộc đồng bằng châu thổ,
nằm giữa hai con sông lớn (sông Tiền và sơng Hậu),

phía bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía đơng giáp tỉnh Bến
Tre, phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, phía tây giáp thành
phố Cần Thơ và tỉnh Đồng Tháp. Thành phố Vĩnh Long
là trung tâm kinh tế, văn hóa, là đầu mối giao thơng
của tỉnh, từ đây ngược lên phía bắc, khoảng 135 km
theo quốc lộ 1 đến Thành phố Hồ Chí Minh; về phía
nam khoảng gần 30 km, vượt qua sông Hậu bằng cây
cầu hiện đại là đến thành phố Cần Thơ - trung tâm của
miền Tây Nam Bộ.
Tỉnh Vĩnh Long ra đời khá muộn1 (cách đây gần
300 năm), nhưng lịch sử khai phá và quá trình hình
thành đơn vị hành chính và cộng đồng cư dân ở Vĩnh
Long đã có từ trước đó. Vùng đất, con người Vĩnh Long
đã trải qua nhiều thế hệ đấu tranh gian khổ và hào
hùng, gắn liền với lịch sử mở mang bờ cõi về phía Nam
của dân tộc ta.
Theo những ghi chép của nhà thám hiểm Fernard
Mendez Pinto, người Bồ Đào Nha và phụ tá của ông là
Faria, ngay từ đầu thế kỷ XVI, đã có người Việt đến
_________
1. Năm 1732, Chúa Nguyễn Phúc Chú (1697-1738), quyết định
thành lập đơn vị hành chính đầu tiên cho vùng đất này là châu
Định Viễn, dinh Long Hồ chính là Vĩnh Long ngày nay (TG).


Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU...

15

sinh sống ở vùng châu thổ sông Mêkông1. Đến đầu thập

niên thứ 3 của thế kỷ XVII, những lưu dân người Việt
đầu tiên đã có mặt ở vùng đất Nam Bộ2, làng xóm người
Việt đã hình thành: “người Kinh, người Trung Quốc,
người Cao Miên làm nhà ở liền nhau, kết thơn họp chợ,
để đón lợi chằm sơng rừng núi”3.
Năm Mậu Dần (1698), Chúa Nguyễn Phúc Chu4 bắt
đầu cho đặt phủ Gia Định... mở đất đai nghìn dặm, dân
được hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ dân lưu tán ở châu Bố
Chính trở vào để ở cho đông. Đặt các xã, thôn, phường,
ấp, chia cắt địa phận, trưng chiếm ruộng đất, chuẩn
định thuế điền, thuế đinh, làm sổ đinh, sổ điền. Đây là
sự kiện lịch sử đánh dấu một mốc rất quan trọng trong
quá trình khai phá, mở mang vùng đất Nam Bộ thời các
_________
1. Theo Nguyễn Đình Đầu: Chế độ cơng điền, công thổ trong lịch
sử khẩn hoang ở Nam Kỳ lục tỉnh, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
1999, tr.31.
2. Theo các nguồn sử liệu: Gia Định thành thơng chí (của Trịnh
Hồi Đức); Phủ biên tạp lục (của Lê Q Đơn); Đại Nam thực lục
(Tiền biên); Đại Nam liệt truyện; Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử
quán triều Nguyễn)... và một số tài liệu khác cho biết, quá trình
khai phá và mở mang ở Đồng Nai và Mơ Xồi (sử cũ chép là Mỗi
Xuy), tức vùng đất Nam Bộ nói chung, Vĩnh Long (nói riêng), của
cư dân Việt diễn ra từ đầu thế kỷ XVII.
3. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 1998, tr.51.
4. Minh vương Nguyễn Phúc Chu (1675 - 1725) là vị chúa Nguyễn thứ
sáu của chính quyền Đàng Trong (ở ngơi từ năm 1691 đến năm 1725),
nối ngôi Chúa Nguyễn Phúc Thái.



16

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

chúa Nguyễn. Mặc dù trước đó gần 8 thập kỷ, lưu dân
người Việt đã có mặt ở một số địa bàn nhưng việc khai
phá của lớp cư dân đầu tiên này vẫn mang tính tự phát,
chủ yếu là lo việc mưu sinh chứ không do chính quyền
tổ chức và quản lý. Đến năm 1698, các chúa Nguyễn
chính thức hoạch định miền đất Sài Gịn - Gia Định vào
bản đồ của xứ Đàng Trong, xếp đặt các đơn vị hành
chính và bộ máy quản lý xuống đến tận thôn, xã. Như
vậy, từ thời điểm này các chúa Nguyễn đã khẳng định
được quyền lực thực tế của mình trong việc quản lý
ruộng đất, hộ khẩu và trưng thu các nguồn lợi tự nhiên
cũng như nguồn thu thuế qua việc trao đổi giao thương
với thương nhân các nước trên vùng đất mới mở. Việc
nhập cư của người Việt và người Hoa vào miền đất Nam
Bộ ngày càng có tổ chức và quy mô hơn. Sau sự kiện thủ
lĩnh người Ai Lao là Sá Tốt đem quân vào cướp phá Gia
Định tháng 4 năm Tân Hợi (1731), bị quân Nguyễn
đánh tan, tháng 4 năm Nhâm Tý (1732), chúa Nguyễn
thấy địa thế Gia Định rộng rãi bèn sai chia đất đặt
châu Định Viễn và dựng dinh Long Hồ (tức Vĩnh Long
ngày nay).
Mặc dầu đã lập thành dinh, trấn và có những chính
sách chiêu dân lập ấp, nhưng vùng đất này lúc bấy giờ
vẫn là những cánh đồng hoang vu, dân cư thưa thớt.
Cho đến mãi nửa sau thế kỷ XVII: “Ở phủ Gia Định,

đất Đồng Nai từ các cửa biển Cần Giờ, Lơi Lạp, Cửa
Đại, Cửa Tiểu trở vào tồn là rừng rậm hàng ngàn


Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU...

17

dặm”1. Miền hoang địa gần như vô chủ ấy thực sự được
đánh thức khi lớp lưu dân người Việt đầu tiên đặt chân
đến vào khoảng đầu thế kỷ XVIII.
Những người dân đầu tiên đến khai phá vùng đất
này phần lớn là những nông dân nghèo miền Trung, do
không chịu nổi ách áp bức của chế độ phong kiến đương
thời, hoặc trốn tránh binh dịch, lao dịch trong cuộc
chiến tranh tương tàn giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài.
Họ lần lượt tiến vào miền đất mới bằng đường biển, với
phương tiện chủ yếu là thuyền buồm và ghe bầu. Theo
sử cũ, các điểm cư ngụ đầu tiên của họ là Mỗi Xoài (Bà
Rịa) và Đồng Nai, sau tiến dần xuống Sài Gòn, Mỹ Tho,
Hà Tiên. Trong nửa đầu thế kỷ XVIII, người Việt tiếp
tục di chuyển xuống vùng Long Hồ (Gị Cơng, Tân An,
Bến Tre, Vĩnh Long), Trà Vinh, Ba Thắc, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Sa Đéc và Châu Đốc.
Quá trình nhập cư của người Việt gắn liền với việc
hình thành những thơn ấp theo mơ hình làng xã truyền
thống của người nơng dân Việt Nam đồng bằng Bắc Bộ
và Trung Bộ. Trên vùng đất mới với rừng rậm bạt ngàn,
hay sình lầy, chằm phá, lưu dân Việt luôn phải đối mặt
với rất nhiều thử thách khắc nghiệt của tự nhiên. Đó là

nạn thú dữ, rắn độc, bệnh tật, ốm đau. Để sinh tồn, trụ
vững, người dân Việt phải quần tụ gắn bó, giúp đỡ,
_________
1. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1964, tr.216.


18

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

tương trợ lẫn nhau trong việc khai hoang vỡ đất, chống
chọi với thiên nhiên. Bằng công sức của nhiều thế hệ
cần cù lao động, chặt phá cây cối, cắt cỏ rậm, những bãi
lầy hoang vu đã biến thành những vùng đất bằng
phẳng phì nhiêu. Có thể nói, trong cơng cuộc khai phá
miền đất Nam Bộ nói chung và Vĩnh Long nói riêng, các
thế hệ ơng cha ta đã có cơng lao to lớn trong mở mang
bờ cõi và trong lao động, chiến đấu, giữ gìn từng tấc đất
thấm đượm máu và mồ hơi mới có được.
Vĩnh Long trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế
kỷ XIX, là vùng đất tụ cư của nhiều cộng đồng người:
Kinh (Việt), Khmer, Hoa,... trong đó bộ phận chính là
người Kinh. Các dân tộc sống xen kẽ với nhau trong các
làng xã, thôn ấp. Theo ghi chép của tác giả Trịnh Hồi
Đức trong q trình khảo sát về trấn Vĩnh Thanh:
“... tổng Vĩnh Thanh ở bờ đông sông Trà Ôn... chợ búa
đông đúc, là nơi dân Kinh, dân Trung Quốc, dân Cao
Miên hội tụ... Thủ đạo Trấn Di (ở sông Ba Thắc), dân
Kinh, dân Trung Quốc, dân Cao Miên ở lẫn nhau, phố

chợ nối liền... Cửa biển Mỹ Thanh... bờ tây có thủ sở...
người Kinh, người Trung Quốc, người Cao Miên nhà cửa
đông đúc, trồng thuốc lá, dưa quả, phơi tơm khơ...”1.
Q trình khẩn hoang lập ấp trên địa bàn Vĩnh
Long diễn ra liên tục từ khi lưu dân Việt đặt chân tới
_________
1. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thơng chí, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 1998, tr.53.


Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU...

19

vùng đất này vào giữa thế kỷ XVII. Quá trình khai phá,
mở cõi đầy gian nan và không kém phần hiểm nguy.
Thiên tai, dịch bệnh, thú dữ ln rình rập con người,
cùng với nạn nhiễu sách dân đen của chức dịch, quan
lại địa phương. Chí sĩ Nguyễn Cư Trinh đã từng mô tả:
“Thiên gia lưu đáo man di thổ
Thùy gia ngạc ngư, lục xà hổ
Tân điều bất túc hại nhân cầu
Lại ốc hướng vi phong ba nơ”.
Dịch nghĩa là:
“Nghìn nhà đến vùng đất hoang vu
Dưới sông nhiều sấu, trên đất nhiều rắn hổ
Hoa lợi đất không đủ yêu sách cho bọn sai nha
Nhà đổ cịn bị sóng gió”1.
Mặc dầu vậy, với ý chí và niềm tin, những người
dân đi mở đất khơng bao giờ lùi bước. Vì: “Hãy cực trước

để đời sau cộng hưởng, khơng trói chân giam hãm mãi
khốn cùng”; mặc cho: “Bệnh tật, ác thú, thiên tai đe
dọa, bao tấm thân vùi xác ven rừng, nắm xương lớp lớp
đáy sông. Tấc đất mở cõi sánh chiều cao gian khổ”2.
Với công sức, mồ hôi và cả xương máu của bao lớp
tiền nhân, đến nửa cuối thế kỷ XVIII, về cơ bản, các
chúa Nguyễn đã khẳng định được quyền lực thực tế của
_________
1, 2. Dẫn theo: Văn bia thành phố Vĩnh Long, lưu tại Bảo tàng
Vĩnh Long.


20

VÕ VĂN KIỆT - TIỂU SỬ

mình trên vùng đất mới khai khẩn, thông qua việc thiết
lập hệ thống các đơn vị hành chính từ dinh, trấn xuống
đến tổng, xã và các cấp tương đương. Bộ máy quản lý
các cấp cũng được hoàn thiện từng bước, chịu trách
nhiệm trước phủ chúa trong việc quản lý đinh, điền, tổ
chức sản xuất và thu thuế cho Nhà nước. Sang đầu thế
kỷ XIX, công cuộc khẩn hoang vẫn tiếp tục và được đẩy
mạnh ở các dinh, trấn, đặc biệt là những địa phương
còn nhiều đất hoang, đầm lầy, rừng rậm. Nhiều làng xã
mới được hình thành, theo số liệu sổ sách kê điền thổ
của Nam Kỳ lục tỉnh, số ruộng đất mới khai khẩn cho
đến năm 1839 của Vĩnh Long là hơn 1.900 mẫu.
Nhằm khẳng định và tiến hành thực thi chủ quyền
trên vùng đất mới, các chúa Nguyễn đã thiết lập và

củng cố hệ thống chính quyền địa phương, tổ chức quân
đội và triển khai các hoạt động kinh tế theo mơ hình
chung của xứ Đàng Trong. Lãnh thổ Đàng Trong từ sau
khi Nguyễn Phúc Khoát xưng Vương (1744) được chia
làm 12 dinh. Vùng đất Nam Bộ có 3 dinh là Trấn Biên
(Biên Hòa), Phiên Trấn (Gia Định) và Long Hồ (Vĩnh
Long). Riêng Hà Tiên đặt làm 1 trấn, có chức Đơ đốc
đứng đầu và giao cho dòng họ Mạc (con cháu Mạc Cửu)
quản lý. Dinh Long Hồ, lỵ sở đóng tại châu Định Viễn,
quan thuộc gồm án sát, cai bạ, ký lục, mỗi chức một
người; sở thuộc thì có Ty Tướng thần lại, Ty Xá sai, số
viên chức như dinh Trấn Biên.


Chương I: QUÊ HƯƠNG - GIA ĐÌNH - THỜI NIÊN THIẾU...

21

Để bảo vệ nhân dân và quản lý các vùng đất mới mở
mang, năm 1779, sau khi lên ngôi Chúa, Nguyễn Ánh
cho đặt công đường ở các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn
và Long Hồ; đóng chiến thuyền, chứa quân lương để đối
phó với nhà Tây Sơn. Đồng thời, phân chia địa giới ba
dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ cho tiện liên
lạc với nhau. Trong đó, dinh Long Hồ đổi làm dinh
Hoằng Trấn, lĩnh một châu là Định Viễn, có ba tổng
(Bình An, Bình Dương và Tân An).
Năm 1802, ngay sau khi đánh bại phong trào Tây
Sơn và lên ngôi, Vua Gia Long sắp xếp lại hệ thống
quan chức ở các dinh trấn trong cả nước. Theo đó, các

trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường đều
đặt ký lục, án sát, cai bạ, Ty Xá sai, Ty Tướng thần lại...
Năm 1808, Vua Gia Long cho đổi dinh Vĩnh Trấn làm
trấn Vĩnh Thanh. Theo ghi chép của sử gia Trịnh Hoài
Đức, đến năm 1816, hệ thống các đơn vị hành chính từ
cấp trấn đến xã thơn ở trấn Vĩnh Thanh gồm 1 phủ
(Định Viễn), 4 huyện (Vĩnh Bình, Vĩnh An, Vĩnh Định,
Tân An), 6 tổng và 353 thôn, phường, ấp, trại, xóm.
Năm 1819, trấn Vĩnh Thanh có số đinh hơn 37.000 người,
điền thổ hơn 9.900 mẫu.
Đến thời Minh Mệnh, xuất phát từ điều kiện thực
tế: ruộng đất khẩn hoang ngày càng nhiều, đinh số hộ
khẩu ngày càng tăng, nhà Nguyễn cho lập thêm nhiều


×