ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
---*---
BÀI TẬP LỚN
MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI –
SỰ SÀNG LỌC NGHIÊM KHẮC CỦA LỊCH SỬ DÂN
TỘC VIỆT NAM TRONG THỜI
ĐẠI MỚI
GVHD: Đào Thị Bích Hồng
STTT
1
2
3
4
5
6
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng
10/2022
BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN
ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM
STTT
1
Họ và
têên Lê Quuốốc An
MSSSSV
Nhhiiệệm vụ
Kếết quuả (%%)
200110088118
Chhưươơnng 1
10000%
Chhữ ký
2 Ngguuyyễễn Huuỳỳnnh Thháái An
3 Hooàànng Nggọọc Vâân Annh
4 Huuỳỳnnh Kỳ Annh
5 Ngguuyyễễn Tuuấấn Annh
6 Ngguuyyễễn Viiệệt Annh
NHĨM TRƯỞNG (ghi rõ họ tên, ký tên)
Hồng Ngọc Vân Anh
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI THẾ KỶ XIX, ĐẦU
THẾ KỶ XX........................................................................................................................................................................... 3
1.1. Bối cảnh thế giới......................................................................................................................................... 3
1.2. Bối cảnh trong nước............................................................................................................................ 5
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH SÀNG LỌC CỦA LỊCH SỬ VÀ DÂN TỘC ĐỐI VỚI
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.................................................... 10
2.1. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến...................10
2.1.1. Phòng trào yêu nước của giai cấp phong kiến...............................10
2.1.2. Phong trào yêu nước của giai cấp nông dân....................................10
2.2. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản....................................11
2.2.1. Phong trào vào đầu thế kỷ XX..................................................................................... 11
2.2.2. Phong trào sau chiến tranh thế giới lần thứ Nhất......................12
2.3. Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản...................................14
2.3.1. Nguyễn Ái Quốc lựa chọn con đường cách mạng vô sản (1911-1920). 14
2.3.2. Sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư tưởng-chính trị và tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam................................................................................. 18
2.3.3. Sự phát triển của phong trào cách mạng vô sản .........................20
CHƯƠNG 3. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.........26
3.1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
.............................................................................................................................................................................................................. 26
3.1.1. Bối cảnh tổ chức Hội nghị thành lập Đảng............................................26
3.1.2. Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên....................................................... 27
3.2. Giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Cương lĩnh
chính trị đầu tiên.................................................................................................................................................... 31
3.2.1. Đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc (1930-1975)..31
3.2.2. Giá trị đối với sự xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay
.............................................................................................................................................................................................................. 33
PHẦN KẾT LUẬN.................................................................................................................................................... 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................................................... 38
1. Lý do chọn đề tài
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ giữa thế kỉ 19, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược Việt Nam. Với chính sách thống trị và khai thác
thuộc địa của Pháp đã đưa Việt Nam vào cảnh lầm
than. Những phong trào yêu nước đã liên tiếp nổ ra
với nhiều lực lượng và theo các khuynh hướng
chính trị khác nhau nhưng đều thất bại, con đường
cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản
dần đi vào bế tắc. Cách mạng Việt Nam lâm vào tình
trạng khủng hoảng về cả đường lối và giai cấp lãnh
đạo.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu
năm 1930 đã kết thúc sự khủng hoảng, bế tắc về đường
lối cứu nước; là một bước ngoặt vĩ đại quyết định cách
mạng Việt Nam, từ đấy cách mạng giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng cộng sản Việt Nam. Và hơn 85 năm qua, dưới sự
lãnh đạo dìu dắt của Đảng, cách mạng Việt Nam đã dành
được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử, mở ra kỷ
nguyên mới cho sự phát triển của dân tộc ta: kỷ nguyên
độc lập
dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Để đến được với những chiến thắng vang dội
trước những “gã khổng lồ” không thể không kể đến
công lao to lớn của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với nhiệt
huyết cháy bỏng, nhãn quan chính trị nhạy bén, Người
đã ra nước ngồi ra đi tìm đường cứu nước, cùng với
luận cương chính trị vững chắc và rồi thành lập nên
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là một bước ngoặt quan
trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu
mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân
tộc. Với sự ra đời của Đảng cùng với luận Cương lĩnh
chính trị cả nước như tìm được nguồn ánh sáng mới.
Nguồn sáng ấy đã soi đường cho nhân dân từ thân
phận người dân mất nước đã lần lượt đánh bại sự
xâm lược của các cường quốc đưa đất nước tiến gần
hơn với hịa bình, tạo tiền đề cho sự phát triển của đất
nước Việt Nam trong những năm cách mạng, kháng
chiến và thời kỳ độc lập sau này.
Bên cạnh thành cơng thì Đảng cũng cịn những
hạn chế, khuyết điểm. Một số bộ phận đảng viên bị tha
hóa, biến chất thậm chí là các cán bộ cấp cao đã làm mất
hình ảnh của Đảng, làm mất niềm tin của nhân dân đối với
sự lãnh đạo của Đảng. Chính vì vậy cho nên các thế lực
thù địch sẽ tìm cách khoét vào những hạn chế ấy. Và họ
cho rằng việc Việt Nam lựa chọn con đường lên Chủ
nghĩa xã hội là không hợp lý, cho
1
rằng chúng ta lãnh đạo một Đảng cộng
sản mà không có dân chủ và đặt ra vấn đề
phải bỏ Đảng đi và chọn con đường khác.
Chính vì vậy, nhóm chọn đề tài “Đảng cộng sản
Việt Nam ra đời- Sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử
dân tộc Việt Nam trong thời đại mới” tìm hiểu để làm
rõ sự ra đời của Đảng là sự lựa chọn của chính lịch
sử của dân tộc. Từ đấy góp phần khẳng định sự lãnh
đạo của Đảng trên thực tế. Để có được một cơ sở lập
luận mang tính khoa học để bát bỏ những luận điệu
của thế lực thù địch.
Với những lý do trên, nhóm chọn đề tài
“Đảng cộng sản Việt Nam ra đời- Sự sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử dân tộc Việt Nam trong
thời đại mới” làm bài tập lớn kết thúc môn học
Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Nhiệm vụ của đề tài
Một là, làm rõ đặc điểm kinh tế, xã
hội Việt Nam dưới chính sách thống trị,
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp.
Hai là, làm rõ những nguyên nhân
thất bại của các phong trào yêu nước Việt
Nam theo khuynh hướng chính trị phong
kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
đầu 1930.
Ba là, làm rõ quá trình lựa chọn con đường
cách mạng vô sản của Nguyễn Ái Quốc (19111920) và sự chuẩn bị của Nguyễn Ái Quốc về tư
tưởng-chính trị và tổ chức cho việc thành lập
Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Bốn là, làm rõ sự phát triển của phong trào
cách mạng vô sản, sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Năm là, làm rõ giá trị thực tiễn của sự kiện Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời và
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
2
CHƯƠNG 1.
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM VÀO CUỐI
THẾ KỶ XIX, ĐẦU THẾ KỶ XX 1.1 Bối cảnh
thế giới
Sau hai cuộc cách mạng công nghiệp, các nước
chủ nghĩa tư bản Âu – Mỹ phát triển nhanh chóng,
cơng nghệ phát triển mạnh mẽ được áp dụng vào sản
suất khiến cho nền kinh tế tăng vọt. Bên cạnh đó nảy
sinh ra các vấn đề căng thẳng: hàng hóa sản suất ra
cần xuất khẩu, cầu nơi tiêu thụ; tiền tệ; thiếu nguyên
liệu sản xuất; lao động giá rẻ. Chính từ những điều
này đã tạo ra mâu thuẫn nội tại trong mỗi quốc gia tư
bản là mâu thuẫn giữa hai giai cấp vô sản và tư sản.
Cùng lúc đó, các nước tư bản chuyển mình từ
giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa đế
quốc. Để giải quyết vấn đề mâu thuẫn nội tại trong quốc
gia mình, lãnh đạo các nước đã nhìn ra một hướng giải
quyết khác, đó chính là chiến tranh, đi xâm chiếm các
nước yếu hơn mình, biến các nước này thành thuộc địa.
Các
nước tư bản lúc này tăng cường xâm lược các nước thuộc
địa, để vơ vét tài nguyên và đàn áp người dân các nước này,
chính điều này tạo nên mâu thuẫn giữa các nước thuộc
địa và các nước đế quốc. Sự thống trị tàn
bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống
nhân dân lao động các nước thuộc địa trở
nên cùng cực. Thuộc địa trở thành mầm
sống của các nước tư bản.
Thế giới cuối thế kỷ XIX chứng kiến đám mây
đen của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản phát
triển rất nhanh do tích lũy nguyên thủy, tích lũy từng
chút từng chút những gì vơ vét được từ thuộc địa.
Điều này làm mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa đế quốc thực dân ngày càng trở nên
gay gắt và trở thành một vấn đề mang tính thời đại.
Và mâu thuẫn này đã dẫn đến việc nhân dân các dân
tộc bị áp bức đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng
khỏi ách thực dân, đế quốc, tạo thành phong trào
giải phóng dân tộc mạnh mẽ, rộng khắp, nhất là ở
châu Á. Bên cạnh đó mâu thuẫn trong nội tại các
nước tư bản do tranh giành thị phần, thị trường và
khu vực ảnh hưởng. Chính nguyên nhân này đã dẫn
tới cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918).
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã xây
dựng nên học thuyết lý luận cách mạng không ngừng, với
nội dung cơ bản: Giai cấp cơng nhân, sau khi đã trưởng
thành về trình độ giác ngộ, trình độ tổ chức, có đủ khả
năng và điều kiện lãnh đạo cuộc
3
cách mạng dân chủ tư sản trên cơ sở liên minh với
giai cấp nông dân đấu tranh chống lại chế độ chuyên
chế phong kiến. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp công
nhân, sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân trở thành lực lượng chủ yếu đánh đổ
chế độ chuyên chế phong kiến, thành lập nhà nước
chính quyền cách mạng của giai cấp cơng nhân và
giai cấp nông dân.
Cùng với phong trào đấu tranh của giai cấp vô
sản chống lại giai cấp tư sản ở các nước tư bản chủ
nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa trở thành một bột phận quan trọng trong cuộc đấu
tranh chung chống chủ nghĩa tư bản, thực dân. Phong
trào dân tộc ở các nước Châu Á đầu thế kỉ XX phát triển
rộng khắp, tác động mạnh mẽ đến phong trào yêu nước
Việt Nam. Trong lúc phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế đang phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là khi được
trang bị bởi một học thuyết cách mạng và khoa học,
cuộc cách mạng vô sản đầu tiên nổ ra và giành thắng lợi
tại Nga tháng 10 năm 1917 đã làm biến đổi sâu sắc tình
hình thế giới. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng
mười đã cổ vũ phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trên thế giới, dẫn tới sự ra
đời của hàng loạt các đảng cộng sản. Tình hình đó địi
hỏi phải có một tổ chức quốc tế đứng ra lãnh đạo, tập
trung sức mạnh phông trào ở tất cả các quốc gia, dân
tộc.
Tháng 3 – 1919, Quốc tế Cộng sản do V.I. Lênin
lãnh đạo được thành lập với khẩu hiệu “Vô sản thế giới và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại” đã đánh dấu một giai
đoạn mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trên cương vị là bộ tham mưu chiến đấu và tổ chức lãnh
đạo phong trào cách mạng vô sản thế giới, Quốc tế Cộng
sản không những vạch đường hướng chiến lược cho
cách mạng vơ sản mà cịn
đề cập các vấn đề dân tộc và thuộc địa, giúp đỡ và chỉ đạo
phong trào giải phóng dân tộc. Cùng với việc nghiên cứu
và hoàn thiện chiến lược và sách lược về vấn đề dân tộc
và thuộc địa, Quốc tế Cộng sản đã tiến hành hoạt động
truyền bá tư tưởng cách mạng và thúc đẩy phong trào đấu
tranh ở khu vực này đi theo khuynh hướng vô sản. Đại hội
II của Quốc tế Cộng sản (1920) đã thông qua Sơ thảo lần
thứ nhấy những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề
thuộc địa do V.I.Lênin khởi xướng. “Lần đầu tiên trong
lịch sử, Quốc tế Cộng sản đã chỉ rõ sự đoàn kết tất yếu,
liên minh chiến đấu giữa giai cấp vô sản và các dân tộc
thuộc địa đang rên siết dưới ách thống trị thực dân”. Cách
mạng Tháng Mười Nga và nhựng hoạt động của Quốc tế
Cộng sản đã ảnh hưởng mạnh
4
mẽ và thức tỉnh phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có Việt
Nam và Đơng Dương.
Quốc tế Cộng sản sau này đã vạch ra con
đường cách mạng đúng đắn cho nước Việt Nam ta,
đường lối dân tộc và thuộc địa tiếp tục được Quốc tế
Cộng sản điều chỉnh và bổ sung và thiện trong suốt
quá trình Đảng ta hoạt động để phù hợp với điều kiện
các nước thuộc địa. Bên cạnh đó, Quốc tế Cộng sản
cũng tích cực giúp đỡ chuẩn bị các điều kiện và chỉ
đạo thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Kể cả sau khi
nước ta thành lập Đảng, Quốc tế Cộng sản chỉ đạo kịp
thời và giúp đỡ phong trào cách mạng Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng, định hướng cho các lực lượng
yêu nước và cách mạng Việt Nam, đồn kết họ lại với
nhau để tìm ra một con đường cứu nước giải phóng
dân tộc Việt Nam, thốt khỏi tư tưởng đi tìm chỗ dựa
của những người yêu nước đương thời.
1.2. Bối cảnh trong nước
Tình hình Việt Nam dưới ách thống trị
thực dân Pháp
Là một quốc gia Đông Nam Á nằm ở vị trí địa
chính trị quan trọng của châu Á, Việt Nam sớm trở
thành đối tượng xâm lược của thực dân Pháp. Ngày
01/09/1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng,
mở đầu cho cuộc xâm lược của phương Tây vào Việt
Nam. Giai đoạn Pháp chinh phục Việt Nam 1858 –
1884. Trước hành động xâm lược của Pháp, triều đình
nhà Nguyễn từng bước thỏa hiệp (Hiệp ước 1862,
1874, 1883) và đến ngày 06/06/1884 với Hiệp ước Patơ-nốt đã đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp, Việt
Nam trở thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù
hung ác”1.
Giai đoạn bình định 1885 – 1895. Tuy triều đình nhà
Nguyễn đã đầu hàng thực dân Pháp, nhưng nhân dân Việt
Nam không chịu khuất phục, phong trào đấu tranh nổ liên
tục, ở khắp các địa phương. Thực dân Pháp phải dùng vũ
lực để bình định, đàn áp sự nổi dậy của nhân dân. Thực
dân Pháp tiến hành xây dựng hệ thống chính quyền thuộc
địa bên cạnh việc duy trì chính quyền phong kiến bản xứ
làm tay sai. Pháp thực hiện chính sách “chia để trị” nhằm
phá vỡ khối đoàn kết cộng cộng đồng quốc gia dân tộc:
chia ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) với các chế độ
chính trị khác nhau nằm trong Liên bang Đông Dương
thuộc Pháp (Union Indochinoise), được thành lập ngày
17/10/1887 theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp. Sự cai trị
của chính quyền thuộc địa đã
(2011) Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà nội, tập 12, tr.401
1
5
làm cho nhân dân ta mất hết quyền độc lập,
quyền tự do dân chủ; mọi phong trào yêu
nước bị đàn áp dã man; mọi ảnh hưởng
của các trào lưu tiến bộ từ bên ngoài vào
đều bị ngăn cấm.
Từ năm 1897, Pháp tiến hành các cuộc khai
thác thuộc địa lớn. Cuộc khai thác thuộc địa lần
thứ nhất từ năm 1897 đến trước khi chiến tranh
tranh thế giới thứ nhất (1914), cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai từ năm 1919 đến trước khi
Đảng ra đời (1930). Mưu đồ của Pháp nhằm biến
Đơng Dương nói chung và Việt Nam nói riêng
thành thị trường tiêu thụ hàng hóa của “chính
quốc”, đồng thời ra sức vơ vét tài nguyên, bóc
lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cùng
nhiều hình thức thuế khóa nặng nề.
Sự chuyển biến trong kinh tế và xã
hội Việt Nam dưới chính sách thống trị
và khai thuộc địa của Pháp
Dưới tác động của chính sách khai
thác thuộc địa, Việt Nam có sự chuyển
biến về kinh tế và xã hội.
Về kinh tế, thực dân Pháp triệt để khai thác Đông
Dương vì lợi ích của giai cấp tư sản Pháp, bóc lột tàn baọ
nhân dân ta, thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự
phát triển kinh tế độc lập của nước ta. Quá trình khai thác
thì cần nhiều đất, cần thì cướp ruộng đất của nhân dân.
Chúng cướp đất bằng cách đặt ra hàng hàng trăm thứ
thuế vô lý, vô nhân đạo được đặt ra kể cả bóc lột kiểu
phong kiến. Ai ít đất thì thuế cao, phải đi cầm đất cho địa
chủ và cho Pháp; ai nhiều đất thì thuế ít. Song song với đó
thì phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước du
nhập vào Việt Nam, song quan hệ kinh tế phong kiến lạc
hậu vẫn được duy trì, nước ta chủ yếu vẫn là một nền
kinh tế lạc hậu, phụ thuộc. Qua tác động của chính sách
thống trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, nền
kinh tế Việt Nam bị kìm hãm nặng nề , tiến triển chậm
chạp, què quặt, phiếm diện và lệ thuộc vào
kinh tế Pháp.
Về mặt văn hóa - xã hội, thực dân Pháp thực hiện
chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, thực hiện triệt để chính
sách văn hóa nơ dịch, sùng Pháp gây tâm lý tự ti nhằm
kìm hãm nhân dân ta trong vòng tăm tối, dốt nát, lạc hậu,
phục tùng sự cai trị của chúng. Lập nhiều nhà tù hơn
trường học, đồng thời du nhập những giá trị phản văn
hóa, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, duy trì tệ
nạn xã hội phong kiến vốn
có và tạo nên nhều tệ nạn xã hội mới , dùng rượu cồn
và thuốc phiện để đầu độc các thế hệ người Việt Nam.
Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm
đoán,
6
chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng
của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam,
chúng ra sức tuyên truyền tư tưởng “khai hóa văn
minh” của nước “Đại Pháp”. Chế độ áp bức về chính trị,
bóc lột về kinh tế, no dịch về văn hóa của thực dân Pháp
đã làm biến đổi tình hình chính trị, kinh tế xã hội Việt
Nam. Các giai cấp cũ phân hóa, giai cấp và tầng lớp mới
xuất hiện với địa vị kinh tế khác nhau và do đó cũng có
thái độ chính trị khác nhau đối với vận mệnh dân tộc.
Các giai cấp của Việt Nam
Trước khi Pháp tới, xã hội Việt Nam là một xã
hội phong kiến thuần túy với hai giai cấp chính là địa
chủ và nông dân. Mặt bằng chung là xã hội nghèo nàn,
chậm phát triển, chênh lệch về tiềm lực kinh tế, nông
dân Việt Nam khơng có tài sản gì, địa chủ tài sản ko
lớn. Mâu thuẫn hai giai cấp không gay gắt, quyết liệt
như phương Tây, đấu tranh giai cấp không quyết liệt.
Nơng dân và địa chủ chấp nhận triều đình tồn tại. Mỗi
khi giặt tới thì vấn đề ruộng đất được bỏ qua, sẳn
sàng bắt tay với triều đình giải quyết vấn đề dân tộc và
thế là mâu thuẫn được điều hòa.
Khi Pháp tới, chúng cho xây dựng cảng, làm
đường, mở đồn điền, mở khu công nghiệp và xây đô thị,
tất cả đều phục vụ cho một mục đích cuối cùng là để khai
thác thuộc địa. Tuy nhiên chúng không khai thác văn mình
mà khai thác để giải quyết vấn đề tiền tệ, hàng hóa, thị
trường ở đất nước chúng. Những đại địa chủ có quyền lợi
gắn với với Pháp, đi ngược với vấn đề dân tộc, làm tay sai
đắc lực cho Pháp trong việc ra sức đàn áp phong trào yêu
nước và bóc lột nơng dân. Các địa chủ vừa và nhỏ thì
ngược lại, họ nêu cao tình thần dân tộc, khởi xướng và
lãnh đạo các phong trào chống Pháp và chế độ phong
kiến, tiêu biểu là phong trào Cần Vương. Một bộ phận địa
chủ chuyển
sang kinh doanh theo lối tư bản cho nên không phải địa
chủ nào cũng theo Pháp. Nông dân thì ngày càng
thê thảm và bần cùng hóa, bộ phận nông dân mất
đất
ngày càng nhiều (mất tư liệu sản xuất), do đó ngồi mâu
thuẫn giai cấp với địa chủ, nơng dân cịn có mâu thuẫn
sâu sắc với thực dân xâm lược. “Tinh thần cách mạng của
nông dân không chỉ gắn liền với ruộng đất, với đời sống
hằng ngày của họ, mà cịn gắn bó một cách sâu sắc với
tình cảm q hương, với nền văn hóa hàng nghìn năm của
dân tộc”2. Đây là lực lượng hùng hậu có tinh thần đấu
tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập dân tộc và
khao khát giành lại ruộng dất cho dân cày. Khi có lực
lượng tiên
Lê Duẩn (1976): Giai cấp công nhân Việt Nam và liên minh
công nông, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.119
2
7
phong lãnh đạo, giai cấp nông dân sẵn
sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực
dân, phong kiến.
Những người nông dân mất đất phải ly hương
lên đô thị vào các đồn điền, xưởng và cảng, giai cấp
công nhân cũng được sinh ra từ đó và tiếp tục bị bốc
lột. Giai cấp công nhân sinh ra trong lần khai thác
thuộc địa lần một và tăng lên trong lần khai khai thác
thứ hai, cho thấy nơng dân mất đất càng nhiều. Ngồi
những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, giai
cấp cơng nhân Việt Nam cịn có những đặc điểm riêng
vì ra đời trong hoàn cảnh một nước nửa thuộc địa
nửa phong kiến. Chủ yếu xuất thân từ nông dân, lực
lượng còn nhỏ bé, nhưng sớm vươn lên tiếp nhận tư
tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng phát triển
“tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng
lực lãnh đạo cách mạng.
Giai cấp tư sản và tiểu tư sản ra đời sau Chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, với số lượng ít và ra đời muộn
(sau giai cấp cơng nhân), tiềm lực kinh tế ít, tiềm lực chính
trị ít, đó là lý do vì sao ơng cha ta không chọn con đường
đi lên tư bản chủ nghĩa. Một bộ phận tư sản gắn với thực
dân Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của
chính quyền thực dân Pháp, trở thành tư sản mại bản,